Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.07 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TTTM

Trọng tài thương mại

VIAC

Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam

UNCITRAL
ICC

Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế
Phòng thương mại quốc tế


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi tiến hành chính sách Đổi mới kinh tế từ năm 1986 đến nay, Việt Nam luôn
chú trọng phát triển thị trường tài chính vững mạnh nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
hội nhập. Các giao dịch hàng hóa, tiền tệ trong xã hội diễn ra ngày càng đa đạng, phong
phú đặc biệt là sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của các tổ chức tín dụng - nơi cung
cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Kể từ khi được ban hành đến nay, Luật Các tổ chức tín
dụng đã góp phần khơng nhỏ trong việc bảo đảm mơi trường pháp lý cho các tổ chức tín
dụng, thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới thông qua hỗ trợ
các hoạt động thương mại trong nước.


Việc thực hiện các hoạt động ngân hàng trên thực tế tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng
hạn như trong hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động truyền thống mang lại nguồn
thu chủ yếu cho các ngân hàng những cũng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro vơ cùng lớn. Biểu
hiện của rủi ro tín dụng là khi khách hàng khơng hồn trả gốc và lãi đúng hạn hoặc phát
sinh ra những tranh chấp trong hợp đồng tín dụng...
Việc tiềm ẩn rủi ro và phát sinh tranh chấp là điều không thể tránh khỏi. Quy định
về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp
giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nói riêng hiện nay đã khá hồn thiện thông qua việc
sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm đã có và ban hành các bộ luật mới với nội dung
phù hợp hơn với thực tiễn như ban hành Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật TTTM năm
2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và sửa đổi bổ sung năm 2017 và hệ thống các
văn bản hướng dẫn thi hành...
Theo đó, để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có thể áp
dụng các phương thức từ thương lượng, hòa giải cho tới trọng tài, tòa án. Thực tiễn cho
thấy tòa án vẫn là phương thức được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, những năm gần đây, giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, tranh chấp
giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài nói riêng đang trở nên
phổ biến, mang lại nhiều ưu thế cho phía tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng. Hơn
nữa, trên thực tế, các cơng trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín
3


dụng và khách hàng lại chủ yếu nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp thơng qua
tịa án mà chưa có cơng trình cụ thể nào nghiên cứu về phương thức trọng tài.
Do đó, tác giả thấy rằng cần thiết phải nghiên cứu về các quy định của pháp luật
về phương thức trọng tài trong giải quyết tranh chấp tín dụng cũng như thực tiễn áp dụng
trên thực tiễn, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
cũng như đảm bảo tốt nhất quyền lợi hợp pháp của các bên. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu vấn đề “Giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương
thức trọng tài ở Việt Nam hiện nay” là việc làm mang tính cấp thiết, mang ý nghĩa về lý

luận và thực tiễn.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng là đề tài đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu tìm hiểu chuyên sâu về vấn đề này
với nhiều góc độ, quan điểm khác nhau, chủ yếu từ năm 2000 trở lại đây. Điều này thể
hiện thơng qua số lượng các bài viết, cơng trình nghiên cứu đa dạng, có giá trị tham khảo
cao như:
-

Các nghiên cứu về tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng: “Thanh toán quốc tế
bằng L/C các tranh chấp thường phát sinh và cách giải quyết”, sách chuyên khảo của tác
giả Nguyễn Thị Quy (2003), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp về
giao dịch tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế”, luận văn thạc sỹ luật học của tác
giả Vũ Thị Minh Huyền (2011), Đại học Luật Hà Nội; “Pháp luật về giải quyết tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ ở Việt Nam”, luận văn

-

thạc sỹ luật học của tác giả Đặng Thị Phương Thủy (2012), Đại học Luật Hà Nội …
Các nghiên cứu về phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng: “Hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài”, luận
văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Huệ (2010), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội; “Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường
tòa án ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Thùy Trang (2014),
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Vai trò của Tòa án trong giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng”, luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Thúy (2015), Khoa luật,

4



Đại học Quốc glia Hà Nội; “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tịa
án nhân dân thành phố Hà Nội”, luận văn thạc sĩ Hồ Thị Khuyên (2016), Đại học Luật
Hà Nội…
Bên cạnh đó là các bài viết học thuật đăng trên các Tạp chí chuyên ngành luật có
uy tín như: “Cần áp dụng đúng quy định của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng về lãi suất” của tác giả Phạm Vũ Ngọc Quang trên Tạp chí Kiểm sát,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 9/2014; “Một số ý kiến về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp tín dụng giữa người vay tiền với quỹ tín dụng nhân dân” của tác giả Nguyễn
Hữu Ân đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 20/2010; “Vận
dụng đúng quy định của pháp luật về lãi suất để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng tại tòa án” (Kỳ I, II, III) của tác giả Lương Khải Ân đăng trên Tạp chí Tịa án
-

nhân dân, Tịa án nhân dân tối cao, số 24/2013…
Việc nghiên cứu giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng với khách hàng bằng phương
thức trọng tài chưa được nghiên cứu cụ thể mà được lồng ghép chung trong việc nghiên
cứu giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung, thể hiện qua các cơng trình về:
“Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế”, luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trần Minh Ngọc (2009); “Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của
tác giả Trần Thị Thắm (2013)...; hoặc nghiên cứu thông qua các bài tham luận được trình
bày tại Hội thảo “Những cơ hội và thách thức khi giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng thơng qua hịa giải và trọng tài” được tổ chức bởi Trung tâm trọng tài
Quốc Tế Việt Nam (VIAC) ngày 06/06/2017.
Thơng qua các cơng trình nghiên cứu trên, có thể nói các học giả, nhà nghiên cứu
đã có những tìm hiểu chun sâu về vấn đề giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu mới chỉ tập trung vào từng loại tranh
chấp cụ thể, trong đó nghiên cứu về tranh chấp hợp đồng tín dụng chiếm đa số. Bên cạnh
đó, các học giả ưu tiên lựa chọn việc giải quyết tranh chấp tín dụng thơng qua con đường
tịa án, qua đó phân tích vai trị của tịa án trong giải quyết tranh chấp.

Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng
phương thức trọng tài vẫn là đề tài có nhiều tính mới và cần được triển khai nghiên cứu.

5


3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Đóng góp những đề xuất giúp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức trọng tài
trong việc giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
- Làm sáng tỏ những khái niệm "tổ chức tín dụng", "tranh chấp giữa tổ chức tín
dụng", "trọng tài" và "giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng
phương thức trọng tài" và các vấn đề có liên quan;
- Phân tích những quy định về sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh
chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng và thực tiễn áp dụng các quy định này, từ đó
thấy được những thiếu sót, bất cập, hạn chế cần khắc phục;
- Đưa ra những đề xuất một mặt hoàn thiện các quy định của pháp luật, mặt khác
nâng cao hiệu quả áp dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức
tín dụng và khách hàng.
4. Tính mới và những đóng góp của luận văn
- Đưa ra được khái niệm về “tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng” và
những đặc điểm của loại tranh chấp này;
- Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam hiện nay;
- Có những đề xuất theo hai hướng: Một là, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng; Hai là, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa
tổ chức tín dụng và khách hàng được giải quyết bằng phương thức trọng tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu

6


Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp
giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài cũng như việc áp dụng
các quy định này trên thực tiễn. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu về thực tiễn giải
quyết các tranh chấp thương mại tại cho thấy không phải tất cả các tranh chấp giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng đều được giải quyết tại trọng tài mà hiện chỉ tập trung vào
một số tranh chấp, trong đó tranh chấp liên quan tới hợp đồng tín dụng chiếm số lượng
lớn.
Do đó, tác giả sẽ chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng thông qua phương thức trọng
tài và thực tiễn áp dụng.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định về giải quyết tranh
chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng bằng phương thức trọng tài tại
Việt Nam.
+ Về thời gian: Tác giả chọn thời điểm nghiên cứu chủ yếu từ khi ban hành Luật
tổ chức tín dụng năm 2010 trở lại đây để làm cơ sở thực hiện luận văn.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Thu thập tài liệu để nghiên cứu, phân tích và tham khảo thông tin, trên cơ sở kế
thừa các thành quả nghiên cứu trước đây;
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ
vấn đề cần nghiên cứu;
- Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thơng qua phương pháp bình luận,
tổng hợp và so sánh.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
7


Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng bằng phương thức trọng tài
Chương 2: Quy định và thực trạng giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả của phương thức trọng tài
giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng

8


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ
KHÁCH HÀNG BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
1.1.1. Khái niệm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng

Theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng năm 2010, tổ chức tín dụng được hiểu là
doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín
dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ
tín dụng nhân dân (khoản 1, Điều 4).
Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền
lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Tranh chấp là một hiện tượng xã hội có
tính khách quan và mang tính lịch sử. Hầu hết các tranh chấp trong đời sống kinh tế - xã
hội đều liên quan đến vấn đề phân tranh lợi ích giữa các chủ thể trong các mối quan hệ
gắn liền với sự phân bổ lợi ích. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, do sự phân bổ lợi

ích là rất rõ ràng dựa trên các quy luật và nguyên tắc của thị trường nên tranh chấp có xu
hướng ngày càng trở nên gay gắt và diễn biến phức tạp. Trong khoa học pháp lý hiện nay,
khái niệm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng được sử dụng khá phổ biến
trong đời sống kinh tế xã hội. Do các tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động ngân hàng
nên tranh chấp giữa tổ chức tín dụng với khách hàng có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự
mâu thuẫn hay bất đồng về quyền và lợi ích phát sinh từ việc thực hiện các hoạt động
ngân hàng giữa một bên là tổ chức tín dụng và một bên là khách hàng.
Theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng năm 2010, hoạt động ngân hàng là việc
kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo ngun tắc có hồn trả đầy đủ
tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận (khoản 13, Điều 4).

9


b) Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hồn trả bằng nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho th tài chính, bao thanh tốn, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác (khoản 14, Điều 4).
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ
ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh tốn khác cho khách hàng thơng qua tài
khoản của khách hàng (khoản 15, Điều 4).
Các hoạt động ngân hàng được thực hiện chủ yếu thông qua việc ký kết các hợp
đồng giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng. Chính sự đa dạng của các tổ chức tín dụng
và các hoạt động ngân hàng nên có rất nhiều hình thức hợp đồng như: (i) Hợp đồng cấp
tín dụng, bao gồm: Hợp đồng cho vay, hợp đồng cấp bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh, hợp
đồng chiết khấu/tái chiết khấu giấy tờ có giá, hợp đồng bao thanh tốn, hợp đồng cấp hạn

mức tín dụng, hợp đồng tài trợ/hoặc đồng tài trợ...; (ii) Hợp đồng bảo đảm như hợp đồng
thế chấp, hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cầm cố...;
Trong đó, hợp đồng cho vay hay hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng thơng dụng,
đồng thời cũng là loại hợp đồng có tỷ lệ tranh chấp lớn nhất so với các loại hợp đồng
kinh tế [6]. Hợp đồng tín dụng về bản chất là loại hợp đồng cho vay tài sản theo quy
định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm
2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ
chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng.
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
Tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng là một dạng tranh chấp
thương mại: Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, khái niệm tranh chấp kinh doanh
thương mại được sử dụng thay thế cho khái niệm tranh chấp "kinh tế" trước đây. Nhìn
chung, "tranh chấp kinh tế" và "tranh chấp kinh doanh thương mại" đều được hiểu là

10


những xung đột, bất đồng về quyền, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình xác
lập và giải quyết các quan hệ kinh tế hoặc kinh doanh thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại quy định: Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác [23]. Theo khái niệm này,
quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi hoạt động có mục đích
sinh lợi.
Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất
đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt
động thương mại. Trên cơ sở giải nghĩa về "hoạt động ngân hàng" tại khoản 12 Điều 4
Luật Các tổ chức tín dụng có thể thấy hoạt động ngân hàng là một dạng hoạt động thương
mại. Do đó, tranh chấp từ việc thực hiện các hoạt động ngân hàng hay nói cách khách là

tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng cũng là một dạng tranh chấp thương mại.
Thứ nhất, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng về hợp đồng tín dụng
thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn: Việc kí kết hợp đồng tín dụng thường do
bên đi vay có nhu cầu về vốn mà khơng thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là
để bổ sung vốn kinh doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân,
hộ gia đình. Do đó, số tiền này khơng phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá
nhân ngoài xã hội mà khơng phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn cho
nền kinh tế thì tổ chức tín dụng cịn đóng vai trị là người đi vay của các chủ thể khác để
cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các tổ chức tín dụng thường kí kết các hợp
đồng tín dụng có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do
bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh
nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các tổ
chức tín dụng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của tổ chức tín dụng đó. Thực tế
khơng hiếm các trường hợp các tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả
do “nợ xấu”. Một khi khách hàng vay khơng thể thanh tốn được nợ, tranh chấp xảy ra

11


thì tổ chức tín dụng sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện
các biện pháp khắc phục, mục đích lợi nhuận ban đầu khơng cịn hoặc bị gián đoạn.
Thứ hai, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng thường được giải quyết
dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khn khổ pháp luật. Hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo lãnh hay các hợp đồng khác trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng về bản chất là
hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa thuận, tự định đoạt giữa
các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp
có tranh chấp xảy ra.
Thứ ba, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ln có sự tham gia của

một bên là tổ chức tín dụng, phần lớn các tranh chấp về hợp đồng tín dụng hay các hợp
đồng khác trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, bị đơn thường là khách hàng. Ví dụ,
trong quan hệ tín dụng, phía tổ chức tín dụng đặc biệt là ngân hàng đã có một đội ngũ có
trình độ về chun mơn pháp lý cao, đưa ra hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt
chẽ nhằm đảm bảo quyền lợi cho tổ chức tín dụng khi bên vay không trả nợ hay trả
không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì tổ chức tín dụng ln có lợi thế
với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng được sự
đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì ngun nhân chủ yếu do
bên đi vay vi phạm, rất ít khi tổ chức tín dụng vi phạm chính những điều khoản do chính
mình soạn thảo.
Thứ tư, người thứ ba trong tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có vị
trí quan trọng. Đây là một trong những đặc thù trong tranh chấp hợp đồng tín dụng so với
các tranh chấp thương mại khác. Vì mối quan hệ mật thiết giữa hợp đồng vay giữa ngân
hàng và khách hàng và hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh giữa ngân hàng với bên thứ
ba nên để xử lý được hợp đồng vay phụ thuộc rất lớn và hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh đi kèm. Lúc này rất khó để phân biệt đâu là hợp đồng chính, đâu là hợp đồng phụ.
Việc xử lý hợp đồng vay trong trường hợp này phụ thuộc rất lớn vào bên thứ ba.
1.1.3. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng

12


Thứ nhất, giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng và khách hàng. Mục đích của việc
yêu cầu giải quyết tranh chấp trước tiên là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia. Việc giải quyết tranh chấp có vai trò quan trọng trong việc xác định lỗi và có
kết quả hợp lý mà các bên có thể chấp nhận được (thương lượng, hòa giải) hoặc buộc
phải chấp nhận (trọng tài, tòa án). Việc thực hiện nghĩa vụ của bên này là cơ sở để bên
kia được hưởng quyền.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nhằm đảm bảo

sự ổn định của phát triển kinh tế thông qua giải quyết tranh chấp để xử lý nợ xấu và góp
phần tái cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém.. Pháp luật hiện nay đã có nhiều thay đổi
tích cực để tháo gỡ những vướng mắc, hỗ trợ giải quyết tranh chấp, xử lý “cục máu
đông” của nền kinh tế nước nhà. Nhiệm vụ trọng tâm này đã được xác định tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và một lần nữa
được nhấn mạnh tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII, trong đó, đặt ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là hoàn thiện pháp luật về hợp đồng là
giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống nhất. Bên cạnh đó, thơng qua q trình
giải quyết tranh chấp, giúp phát hiện những sai phạm, thiếu sót, góp phần tái cơ cấu lại
các tổ chức tín dụng yếu kém.
Thứ ba, thông qua thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng, cho thấy những bất cập và thiếu sót trong việc áp dụng các quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đó, giúp hồn thiện khuôn khổ pháp lý để xử lý căn bản những bất cập đang
tồn đọng và nợ xấu một cách triệt để, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các
hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi
của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống, hỗ trợ kịp thời từ khâu phát
hiện các tổ chức tín dụng yếu kém đến khâu phục hồi, củng cố năng lực để các tổ chức tín
dụng yếu kém có khả năng trở thành tổ chức tín dụng lành mạnh.
1.2. Khái niệm, vai trị và nội dung của phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp

giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương
thức trọng tài

13


Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp giữa các tổ chức tín dụng và
khách hàng nói chung, giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng nói riêng chính là việc
lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột

lợi ích giữa các bên, tập lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận
được. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại phổ biến, có thể chia thành nhóm phương thức giải quyết tranh chấp phi tài
phán (thương lượng, hòa giải) và nhóm các phương thức giải quyết tranh chấp tài phán
(trọng tài và tịa án).
Giữa hai nhóm phương thức này có ưu và nhược điểm riêng. Đối với nhóm
phương thức giải quyết tranh chấp phi tài phán là thương lượng và hòa giải, các bên cùng
nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ hoặc có thể mời sự tham gia của bên thứ ba để hỗ trợ,
thuyết phục các bên tìm ra cách giải quyết mâu thuẫn. Hiện nay chưa có văn bản quy
phạm pháp luật nào quy định về phương thức thương lượng bởi phương thức này hoàn
toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên chủ thể mà khơng hề có sự can thiệp bởi bất kỳ bên
thứ ba nào. Nếu như trước kia quy định về hòa giải được giải quyết trong tố tụng thì hiện
nay Nghị định mới của Chính phủ đã mở ra cơ chế giải quyết hòa giải quy định cụ thể
trong Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017.
Ưu điểm lớn nhất của nhóm phương thức này là tính thuận tiện, đơn giản, linh
hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh đó, bảo vệ được uy tín và bí mật trong kinh doanh
của các bên. Ngồi ra, đối với hịa giải thương mại, có sự tham gia của hịa giải viên là
người có chun mơn, kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đê đang tranh chấp nên sẽ
đưa ra lời khuyên phù hợp cho cả hai bên. Tuy nhiên, ưu điểm này chỉ có thể phát huy khi
các bên tranh chấp có thiện chí để giải quyết tranh chấp, và ngược lại, ưu điểm lại có thể
trở thành nhược điểm khi các bên không tự nguyện giải quyết. Điều này khiến tranh chấp
kéo dài, và tốn kém chi phí trong trường hợp th hịa giải viên mà khơng đạt được kết
quả mong muốn.
Đối với nhóm phương thức giải quyết tranh chấp tài phán bao gồm trọng tài và tòa
án, đặc điểm khác biệt đầu tiên so với nhóm phi tài phán là được quy định bởi pháp luật
về các vấn đề liên quan tới quá trình giải quyết tranh chấp như thẩm quyền, tiến trình

14



thực hiện, giá trị phán quyết... Hoạt động trọng tài thương mại được quy định trong Luật
TTTM năm 2010. Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng tịa án mang tính quyền lực nhà
nước, hoạt động tố tụng tuân theo quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài không công khai (trừ khi có các bên có thỏa thuận) cịn
tranh chấp được giải quyết tại tịa án một cách cơng khai (trừ các tranh chấp thuộc trường
hợp không công khai theo quy định của pháp luật).
Giá trị của phán quyết trọng tài và tịa án có giá trị ràng buộc, bắt buộc các bên
phải thi hành. Hơn nữa, phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi
hành án. Điều đó khiến cho các bên thường có tâm lý lựa chọn tòa án để giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, thủ tục thiếu linh hoạt, thời gian giải quyết kéo dài do phải tuân theo
trình tự tố tụng theo quy định khiến giải quyết tranh chấp tại tòa án chưa phải là phương
thức tối ưu để giải quyết tranh chấp nói chung, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng nói riêng.
“Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án, xét về mặt lịch
sử, hòa giải và trọng tài là hai phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm hơn so
với sự ra đời của tòa án. Trên phương diện quốc tế cũng như quốc gia, khái niệm trọng tài
được tiếp cận với nhiều góc độ với những quan điểm khác nhau. Với cách tiếp cận trọng
tài như một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập so với các phương thức khác như
thương lượng, hịa giải, tịa án, có một số quan điểm như sau:
Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ lại đưa ra quan điểm: "Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách
quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành" [17]. Theo quan điểm này, các bên cùng thống nhất đệ trình vụ
tranh chấp tới một bên thứ ba có thể là một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân để được giải
quyết và quyết định của bên thứ ba này sẽ là quyết định cuối cùng và có tính thi hành.
Trong khi đó, điểm a, khoản 2, Luật Mẫu của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật
Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) 1985 quy định: "Trọng tài nghĩa là mọi hình thức
trọng tài có hoặc khơng có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực" [28].

15



Theo các quan điểm nêu trên có thể thấy trọng tài được nhìn nhận là một phương
thức giải quyết tranh chấp trong đó, các bên tranh chấp cùng tự nguyện thỏa thuận và
thống nhất với nhau để trao quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên cho một
bên thứ ba (một cá nhân hoặc một hội đồng) độc lập và chấp nhận sự ràng buộc quyết
định của bên thứ ba do các bên lựa chọn.
Tại Việt Nam, Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm về
trọng tài như sau: "Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại, được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố
tụng do pháp luật này giải quyết" (khoản 1, Điều 2) [22]. Luật TTTM năm 2010 ra đời đã
định nghĩa "TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này" (khoản 1, Điều 3). Có thể thấy, quy định của Luật
TTTM năm 2010 về cơ bản đã kế thừa nội dung trong Pháp lệnh TTTM năm 2003, đồng
thời có một số điều chỉnh. Cụ thể, Luật TTTM năm 2010 đã sử dụng thuật ngữ "trọng tài
thương mại" thay vì "trọng tài" như Pháp lệnh TTTM năm 2003 và mở rộng phạm vi
tranh chấp nói chung được trọng tài giải quyết chứ khơng chỉ giới hạn trong phạm vi
tranh chấp thương mại như quy định tại Pháp Lệnh TTTM năm 2003.
Có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại khá tiệm
cận với các quy định của các tổ chức quốc tế và pháp luật nước ngồi. Theo đó, nhận
định trọng tài thương mại là một tổ chức độc lập, các bên tham gia giải quyết tranh chấp
có quyền thỏa thuận, tuy nhiên vẫn phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục theo
Luật TTTM năm 2010. Từ đó, có thể hiểu giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng bằng phương thức trọng tài là việc áp dụng các quy định của pháp luật về
TTTM để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn phát sinh từ việc thực hiện các hoạt động
ngân hàng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
1.2.2. Vai trị của trọng tài trong giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng

Như đã phân tích, để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có
bốn phương thức với những ưu, nhược điểm riêng. Là một trong số đó, giải quyết tranh

chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài đặc biệt trong
những năm gần đây đã thể hiện rõ vai trị của mình, thơng qua những ưu điểm nổi bật:

16


Thứ nhất, quyết định trọng tài có tính chung thẩm – một trong những nguyên tắc
khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các bên.
Như đã chỉ ra, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nói chung, tranh
chấp hợp đồng tín dụng nói riêng có thể được giải quyết thơng qua các phương thức tài
phán như trọng tài, tòa án và phương thức phi tài phán như hòa giải và thương lượng. Đối
với các phương thức phi tài phán, kết quả của việc sử dụng phương thức này sẽ không
được đảm bảo nếu hai bên khơng có thiện chí thực hiện. Ngược lại, với các phương thức
tài phán thì phán quyết của trọng tài và bản án được tuyên của tịa án khi tiến hành giải
quyết tranh chấp lại có hiệu lực pháp lý, ràng buộc các bên chủ thể tham gia phải có trách
nhiệm thực hiện.
Tuy nhiên, khác với tịa án, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
bằng trọng tài có ưu điểm nổi bật ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và có tính chung thẩm. Hay
nói cách khác, phán quyết của trọng tài có hiệu lực cuối cùng. Điều này thể hiện trọng tài
chỉ có một cấp xét xử, trong khi đó tịa án có hai cấp xét xử và cịn có thủ tục tái thẩm,
giám đốc thẩm khi xảy ra những điều kiện như luật định. TTTM khơng có cơ quan cấp
trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, khơng bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tịa án, cũng khơng có thủ tục giám đốc
thẩm hay tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp
tín dụng nói riêng và tranh chấp thương mại nói chung chỉ được giải quyết một lần tại
trọng tài. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các tổ chức tín dụng vì quyết định
của trọng tài được thực hiện ngay, giúp các bên tranh chấp giảm bớt chi phí và thời gian.
Nếu quyết định của trọng tài khơng bị tịa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một
trong các bên mà bên phải thi hành khơng tự nguyện thi hành thì sau thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi hành quyết định trọng tài

có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi
có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài..
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo bí mật cho các chủ thể.
Xét về tính bí mật về thơng tin tranh chấp thì phương thức hịa giải, thương lượng
đảm bảo tuyệt đối tính chất này. Tuy nhiên, do kết quả của phương thức này không được
đảm bảo trên thực tế cho nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn là phương thức
được đa số các doanh nghiệp lựa chọn.

17


Trọng tài được thành lập để giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận, yêu cầu của các
bên. Theo đó, các bên có quyền thỏa thuận, lựa chọn trọng tài viên hoặc hội đồng trọng
tài, lựa chọn hình thức, thủ tục tố tụng trọng tài cũng như nguyên tắc xét xử của trọng tài.
Nguyên tắc xét xử kín của trọng tài là một trong những nguyên tắc hấp dẫn các bên tranh
chấp. Nguyên tắc này đối lập với nguyên tắc xét xử cơng khai của tịa án. Tuy nhiên,
cũng có những trường hợp ngoại lệ cần phải công khai phán quyết của trọng tài, ví dụ
mục đích thi hành bởi tịa án quốc gia. Ngồi việc cơng bố các phán quyết trọng tài theo
quy định của pháp luật, việc công bố còn được thực hiện khi một tổ chức trọng tài, ví dụ:
Phịng thương mại Quốc tế, có trụ sở tại Paris, xuất bản các bản sao quyết định trọng tài
được sắp xếp và biên tập như là tài liệu hướng dẫn cho các luật sư và trọng tài viên.
Tại Việt Nam, tính bí mật trong việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng
tài cũng được bảo đảm. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp tổ chức tín dụng
bảo đảm được tính bí mật cho khách hàng của mình. Đây là một trong năm nguyên tắc
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được quy định trong Luật TTTM năm 2010 như sau:
“Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác” [23]. Quy tắc tố tụng của VIAC năm 2017 cũng đã quy
định: “2. Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm được tiến hành không cơng khai, trừ
khi các bên có thỏa thuận khác. Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng các biện pháp thích
hợp nếu thấy rằng một bên vi phạm quy định này” (Điều 38); Quy tắc tố tụng của Trung

tâm trọng tài phía Nam cũng có quy định tương tự: “Phiên họp giải quyết tranh chấp
được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” (Điều 24).
Bên cạnh đó, các bên khi ký kết hợp đồng tín dụng, cịn có thể bổ sung điều khoản về
tính bí mật khi giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh
chấp và danh tính của các bên sẽ được giữ kín, bảo đảm yêu cầu về uy tín, tin cậy trong
quan hệ tín dụng ngân hàng trong và ngồi nước. Đây là ưu điểm lớn mà phương thức
trọng tài mang lại, thay vì việc xét xử cơng khai tại tịa, điều mà các doanh nghiệp luôn
coi là tối kỵ trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu của mình.

18


Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính mềm dẻo, linh hoạt và nhanh
chóng cho các bên. Đây là những ưu điểm vượt trội của trọng tài so với giải quyết tranh
chấp bằng tịa án:
Tính mềm dẻo, linh hoạt: Tòa án khi xét xử một vụ án phải tuân theo các quy định
của pháp luật tố tụng về thủ tục, thời gian, địa điểm và trình tự xét xử... Trong khi đó với
trọng tài, các bên thơng thường được tự do lựa chọn thủ tục áp dụng. Các Trung tâm
trọng tài thường xây dựng quy tắc tố tụng riêng trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp
luật. Quy tắc tố tụng này sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp khi trong hợp đồng tín
dụng, các bên thỏa thuận lựa chọn Quy tắc tố tụng hay tổ chức trọng tài xây dựng Quy
tắc tố tụng đó.
Ví dụ: Điều 1 phạm vi áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam quy định như
sau:
Quy tắc này được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại khi:
1. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam và/hoặc
chọn Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam để giải
quyết vụ tranh chấp; hoặc

2. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam để giải
quyết vụ tranh chấp nhưng khơng có thoả thuận chọn quy tắc tố tụng trọng tài
khác.
Cũng trong Quy tắc tố tụng và quy định của pháp luật, đương sự cịn có quyền lựa
chọn trọng tài viên dựa trên những kinh nghiệm và uy tín của họ để giải quyết tranh chấp.
Ví dụ, tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam hiện nay có 139 trọng tài viên trong nước
và 6 trọng tài viên quốc tế đều là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực thương mại
[18, tr.4]. Đương sự có thể tự lựa chọn trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên để
tham gia vào Hội đồng trọng tài hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định trọng tài viên
giúp đương sự có sự chủ động và niềm tin vào kết quả giải quyết tranh chấp (Điều 7,
Điều 8 Quy tắc tố tụng VIAC). Theo đó, các bên sẽ có cơ hội sử dụng các luật sư có kinh
nghiệm về lĩnh vực ngân hàng ra quyết định về vụ việc, thay vì sử dụng thẩm phán của
tồ án quốc gia. Điều này cũng đặc biệt có lợi khi lựa chọn các trọng tài viên có khả năng
chun mơn giải quyết các vụ tranh chấp có tính chất quốc tế.
19


Đây cũng là nhân tố quan trọng đảm bảo giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả,
cơng bằng và chính xác, bảo vệ quyền lợi của đương sự một cách tối đa. Bên cạnh đó, các
đương sự cịn được lựa chọn thời gian, địa điểm giải quyết nhằm thuận tiện cho các bên.
Điều này cịn phát huy tính dân chủ và khách quan trong quá trình tố tụng, đồng thời giúp
giảm thiểu những bất đồng về lợi ích và tiết kiệm cho các bên. Quy định về thủ tục rút
gọn của VIAC nhằm đáp ứng nhu cầu của các bên khi cần tiết kiệm thời gian và chi phí
cho việc giải quyết tranh chấp. Theo đó, tranh chấp có thể được giải quyết theo thủ tục
rút gọn trên cơ sở sự đồng thuận của các bên. Trong qua trình giải quyết tranh chấp bằng
thủ tục rút gọn, Hội đồng trọng tài có thể tiến hành hành phiên họp giải quyết vụ tranh
chấp bằng phương thức hội nghị qua điện thoại (teleconference), hội nghị truyền hình
(video conference) hoặc các hình thức thích hợp khác trừ khi có sự phản đối của một bên
[31].
Hơn nữa, các bên hoàn toàn chủ động nắm được q trình tố tụng, ví dụ về việc

hỗn việc giải quyết tranh chấp, các bên có thể biết được trước đó, khác với tịa án khi
đến nơi tham gia phiên tịa mới biết được quyết định hỗn phiên tịa khi xảy ra các trường
hợp như luật định, gây lãng phí về thời gian và cơng sức của các bên.
Tiết kiệm thời gian: Thời gian giải quyết tranh chấp là tiêu chí quan trọng khi lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Hiện tại, thời gian trung bình giải quyết án kinh
doanh thương mại của tòa án là bốn trăm ngày [21]. Q trình giải quyết tranh chấp bằng
tịa án được pháp luật tố tụng quy định gồm hai cấp xét xử, ngồi ra cịn cho phép các bên
được quyền kháng án cũng làm cho tiến trình xét xử kéo dài, có thể kéo dài hàng năm và
tình trạng án đọng hàng chục năm vẫn còn tồn tại số lượng lớn. Việc đưa tranh chấp lên
tòa án phải xếp lịch mới được xử lý vì quá tải. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (Agribank) đến nay đã có trên 6800 vụ. 1/8 trong số đó đã được giải
quyết cịn lại vẫn phải chờ giải quyết bởi bình quân tòa án phải mất từ hai tới ba năm mới
xử lý xong một vụ [34].
Trong khi đó trên thực tế, thời gian trung bình giải quyết án kinh doanh thương
mại giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (ví dụ: giải quyết tranh chấp tại VIAC) là dưới
200 ngày (năm 2015 là 154 ngày, năm 2016 là 153,6 ngày), trong đó có vụ giải quyết

20


trong 24 ngày. Kỳ vọng, thời gian trung bình giải quyết theo thủ tục rút gọn tại VIAC là
dưới 100 ngày [21].
Tất cả những ưu điểm đó giúp các bên giảm chi phí, tiết kiệm thời gian và tăng
hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp, giúp ngân hàng rút ngắn thời gian thu hồi
nợ.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp tín dụng bằng trọng tài được tịa án hỗ trợ, bảo đảm
về mặt pháp lý.
Giải quyết tranh chấp tín dụng bằng trọng tài mặc dù là một phương thức riêng
biệt nhưng khơng đứng độc lập mà được tịa án hỗ trợ, bảo đảm về mặt pháp lý trên nhiều
khía cạnh. Luật TTTM năm 2010 đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định

mối quan hệ pháp lý quan trọng này. Cụ thể Điều 7 xác định rõ tịa án có thẩm quyền đối
với hoạt động trọng tài như: Đối với việc chỉ định trọng tài viên để thành lập hội đồng
trọng tài vụ việc; Đối với việc thay đổi trọng tài viên của hội đồng trọng tài vụ việc; Đối
với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài
vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của hội đồng trọng
tài... Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM năm 2003.
Tính xác định và rõ ràng này của Luật sẽ tạo điều kiện để các toà án và hội đồng trọng tài
cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, và là điều
kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả. So với Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã chính thức ghi nhận vai trị hỗ trợ của tịa án đối với
hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài tại Điều 414. Theo đó, tịa án đóng vai trị
quan trọng đối với hoạt động trọng tài thơng qua việc hỗ trợ và giám sát hoạt động trọng
tài như chỉ định trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài, hỗ trợ áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ triệu tập nhân chứng và thu thập chứng cứ,
đăng ký phán quyết trọng tài…
Thứ năm, về sự công nhận quốc tế đối với quyết định trọng tài: Phán quyết của
Tịa án thường rất khó đạt được sự công nhận quốc tế, phán quyết của Tịa án được cơng
nhận tại một nước khác thường thơng qua một hiệp định song phương hoặc theo các quy
tắc rất nghiêm ngặt, có một số khu vực ngoại lệ như các nước thuộc Hiệp ước về hài hoà

21


luật thương mại Châu Phi và Liên minh châu Âu. Thực ra chỉ có duy nhất một điều ước
quốc tế đa phương quan trọng về công nhận và cho thi hành bản án của Tịa án đó Quy
định số 44/2001 của Hội đồng châu Âu (trước đây là Công ước Brussels và Lugano) liên
quan đến các bản án được tuyên bởi các nước thành viên của Liên minh Châu Âu và
Thụy Sĩ. Hội nghị Hague về Luật pháp quốc tế cũng đã gặp trở ngại trong những năm
gần đây trong việc soạn thảo một Dự thảo "tạm thời" Công ước về Thẩm quyền và Công
nhận và thi hành bản án dân sự và thương mại của tịa án nước ngồi. Trong khi đó, quyết

định trọng tài có thể đạt được sử dụng nhận quốc tế thông qua một loạt các Công ước
quốc tế, đặc biệt là Công ước New York. Hiện nay đã có khoảng 145 quốc gia tham gia
vào Cơng ước này [13, tr.7]. Điều này có ý nghĩa đối với việc giải quyết tranh chấp có
yếu tố nước ngồi, giảm chi phí cho các bên tranh chấp khi không phải giải quyết nhiều
lần.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giúp tổ chức tín dụng giảm thiểu rủi
ro tố tụng. Về lý thuyết, một khi khách hàng có nợ xấu, ngân hàng kiện ra tịa án sẽ được
xem xét giải quyết. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp hồ sơ khởi kiện của ngân hàng
đều được tòa án thụ lý vì nhiều lý do, có thể do bị đơn khơng cịn cư trú tại nơi đăng ký
tạm trú dài hạn. Do đó, ngân hàng sẽ thay đổi khởi kiện khách hàng tại nơi có hộ khẩu
thường trú. Thế nhưng tịa án địa phương nơi khách hàng có hộ khẩu thường trú cũng từ
chối với lý do người bị kiện đã đăng ký tạm vắng và rời khỏi địa phương từ lâu. Đó chỉ là
một trong rất nhiều lý do khiến cho nhiều hồ sơ khởi kiện của ngân hàng bị từ chối, hoặc
bị trì hỗn thụ lý. Hoặc trong cả trường hợp đơn kiện đã được tòa thụ lý thì ngân hàng
vẫn phải đối mặt với rủi ro về khả năng thu hồi nợ, cho dù phán quyết của tịa có hiệu lực
pháp lý ràng buộc và có cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành.
Những năm qua, chỉ riêng việc có khá nhiều ngân hàng bị tịa án tun vơ hiệu
hợp đồng bảo đảm vì lý do gọi không đúng tên hợp đồng (bảo lãnh, thế chấp) đã phần
nào phản ánh nỗi bức xúc của giới ngân hàng. Quá chú trọng vào một yếu tố hình thức
như tên gọi, nhiều tòa án đã phủ quyết bản chất thật sự của giao dịch tự thỏa thuận. Tên
gọi hợp đồng không thay đổi được bản chất việc chủ tài sản đã tự nguyện thỏa thuận
dùng tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho khách nợ của ngân hàng. Tương tự, nhiều vấn

22


đề về nghiệp vụ tài chính ngân hàng, cách hiểu cứng nhắc của một số thẩm phán đã dẫn
đến những quyết định phán xử không phù hợp với bản chất giao dịch kinh doanh. Bên
cạnh đó, nhiều ngân hàng, cơng ty tài chính chuyên cho vay tiêu dùng, trước đây rất khó
khăn để đem những khoản nợ xấu chỉ có giá trị thấp vài triệu đồng ra tòa án khởi kiện. Tổ

chức tín dụng rơi vào tình thế "tiến thối lưỡng nan" vì nếu như khơng kiện, các tổ chức
tín dụng gặp khó khăn trong theo dõi, xử lý nợ xấu, mà kiện thì khó khăn để thuyết phục
tịa án mở cả tiến trình tố tụng chỉ để xử lý khoản tiền ít ỏi vài triệu đồng. Hơn nữa, thời
gian và công sức để theo đuổi vụ kiện khiến các tổ chức tín dụng này khơng mặn mà lựa
chọn con đường Tịa án. Tất cả những điều đó tạo nên một rủi ro mới cho ngành ngân
hàng, hay còn được gọi là rủi ro tố tụng tòa án [21].
Trước đây, nhiều ngân hàng không tin tưởng lựa chọn trọng tài, bởi bên thua kiện
trọng tài có quyền u cầu tịa án xem xét, hủy quyết định trọng tài và xét xử lại từ đầu.
Với sự ra đời của Luật TTTM năm 2010, điểm bất cập nêu trên đã được xóa bỏ. Luật
TTTM năm 2010 hiện nay đã đưa ra rất nhiều cơ chế bảo đảm cho trọng tài có quyền ra
phán quyết và quyết định, thậm chí cả quyền quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời như tòa án để đảm bảo giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với tất cả những ưu điểm
như đã phân tích trên đây, giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
khơng chỉ giúp tổ chức tín dụng là ngân hàng giảm thiểu rủi ro tố tụng mà còn đảm bảo
hiệu quả giải quyết tranh chấp.
1.2.3.Nội dung của phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và

khách hàng
1.2.3.1. Phân loại trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại bao gồm hai hình thức là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc)
và trọng tài quy chế.
Đối với trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc): Luật TTTM năm 2010 đã đưa ra định
nghĩa về trọng tài vụ việc như sau: "Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp
theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thoả thuận" (khoản 7 Điều 3).
Theo đó, trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận

23


thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và sẽ chấm dứt tồn tại khi tranh chấp

được giải quyết xong. Đây là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng
rộng rãi tại các nước có nền pháp lý phát triển.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của trọng tài vụ việc như sau:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm
dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài vụ việc khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều hành
và khơng có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được
chỉ định có thể là người có tên hoặc ngồi danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm
trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tụng riêng mà do các bên tự thỏa
thuận xây dựng. Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một
quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy
tín ở trong nước và quốc tế.
Tại Việt Nam, hình thức trọng tài vụ việc lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh
TTTM một cách cụ thể, rõ ràng về cách hình thành, quy trình tố tụng cũng như giá trị của
phán quyết và cơ chế đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài vụ việc. Pháp lệnh TTTM
năm 2003 và sau là Luật TTTM năm 2010 đã có những quy định khắc họa rõ nét hơn về
diện mạo tòa trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
Ưu điểm của trọng tài vụ việc là trao quyền định đoạt cho các bên rất lớn. Thủ tục
giải quyết của trọng tài hoàn toàn do các bên tự thỏa thuận và các trọng tài viên sẽ tuân
theo quy tắc tố tụng đó. Việc giải quyết tranh chấp thường có chi phí thấp và thời gian
giải quyết nhanh chóng. Với việc lựa chọn hình thức này, các bên sẽ khơng phải trả thêm
các khoản chi phí hành chính cho các trung tâm trọng tài. Ngoài ra, đối với trọng tài vụ
việc, các bên có thể thỏa thuận bỏ qua một số thủ tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn
thời gian giải quyết vụ tranh chấp.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, so với trọng tài quy chế, trọng tài vụ việc cũng
bộc lộ những hạn chế nhất định xuất phát từ chính những đặc trưng của trọng tài vụ việc.
24



Có thể kể tới một số hạn chế như sau: Trọng tài vụ việc không bắt buộc các bên tham gia
tranh chấp phải tuân thủ theo một quy tắc tố tụng trọng tài cụ thể, do đó, khi phát sinh các
vấn đề trong quá trình giải quyết tranh chấp như chỉ định trọng tài viên, thay đổi trọng tài
viên, xác định thẩm quyền của trọng tài viên mà các bên khơng thống nhất hoặc thỏa
thuận được để giải quyết thì sẽ khơng có quy tắc tố tụng để trọng tài áp dụng. Trong
trường hợp đó, các bên sẽ phải nhờ đến sự can thiệp của tòa án (việc xác định tịa án có
thẩm quyền đã được quy định trong Điều 7 Luật TTTM năm 2010). Như vậy, sẽ gây mất
thời gian cho các bên và việc can thiệp của tòa án vào quá trình giải quyết vụ việc là điều
các bên không mong muốn khi lựa chọn phương thức trọng tài.
Đối với trọng tài vụ việc, sẽ khơng có biểu phí trọng tài cụ thể như trọng tài quy
chế, do đó, các bên sẽ phải thỏa thuận về cách tính phí trọng tài là phí trọng gói hay phí
theo giờ, hay phí theo kết quả cuối cùng của vụ tranh chấp. Việc thỏa thuận tính phí trọng
tài theo giờ hay theo kết quả cuối cùng của vụ tranh chấp có thể sẽ làm thay đổi mức phí
mà các bên tranh chấp dự kiến, cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng xét xử của trọng tài
vì thời gian xét xử sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thù lao của trọng tài viên. Hơn nữa, trọng tài
vụ việc khơng có cơ quan hỗ trợ, giám sát quá trình tố tụng cũng như q trình xét xử của
trọng tài viên, do đó, quyết định cuối cùng giải quyết vụ tranh chấp hoàn tồn phụ thuộc
vào trình độ chun mơn, đạo đức nghề nghiệp của trọng tài viên. Điều này rất dễ xảy ra
việc vi phạm trong quá trình tố tụng trọng tài, đặc biệt là nghĩa vụ của trọng tài viên.
Để khắc phục các hạn chế của trọng tài vụ việc, các bên tham gia giao dịch thương
mại nói chung, giao dịch trong hoạt động ngân hàng nói riêng khi đàm phán nội dung về
trọng tài nên thống nhất một quy tắc tố tụng trọng tài cụ thể của một tổ chức trọng tài uy
tín, ví dụ như UNCITRAL thơng qua việc tham khảo và sử dụng điều khoản mẫu về
trọng tài trọng vụ việc của UNCITRAL và có thể quy định ln cơ quan có thẩm quyền
chỉ định trọng tài.
Đối với trọng tài quy chế (trọng tài thường trực): Trọng tài quy chế là hình thức
trọng tài được thành lập dưới dạng các trung tâm, tổ chức hoặc hiệp hội, có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, có trụ sở cố định. Tại nhiều nước trên thế giới, trọng tài quy chế được tổ
chức dưới nhiều hình thức đa dạng như: Các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài


25


×