Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ RỦI RO TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.04 KB, 23 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ RỦI RO
TÍN DỤNG
I. TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng
a. Khái niệm về hoạt động Tín dụng Ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng đã có bước phát
triển rất nhanh chóng, các dịch vụ ngân hàng cung cấp ngày càng phong phú, đa
dạng, mang lại nguồn thu rất lớn cho các ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng ngân hàng đã đạt được những
thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Các ngân
hàng thương mại (NHTM) đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín
dụng, tập trung vào hiệu quả của hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực
hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng
tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp
nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế phi nhà nước (tỷ
trọng dư nợ tín dụng khu vực nhà nước chiếm khoảng 39%/tổng dư nợ vào
12/2002 và giảm xuống còn 34% vào 12/2004). Điều này hoàn toàn phù hợp với
xu thế phát triển kinh tế Việt Nam và thế giới vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực
kinh tế năng động, phát triển và ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu
nhập quốc dân.
Điều 20 khoản 8 Luật các tổ chức Tín dụng 2004 quy định hoạt động tín
dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp
tín dụng. Việc cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của hầu hết các Ngân hàng
Thương Mại, là việc các NHTM thỏa thuận để các khách hàng sử dụng một khoản
tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác…
b. Khái niệm và phân loại tín dụng
Có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, chung
quy lại tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời
gian nhất định giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế (các cá nhân,
hộ gia đình, các tổ chức…). Tín dụng được phân loại theo nhiều tiêu thức:


● Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản vay có thời hạn dưới 01 năm để tài trợ
cho tài sản lưu động
- Tín dụng trung hạn: là những khoản vay thông thường từ 01 đến 05 năm tài
trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị
- Tín dụng dài hạn: là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ cho các tài
sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
Nhìn chung, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường cao hơn tín dụng trung và
dài hạn. Vì tín dụng ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của khách
hàng, hơn nữa tín dụng ngắn hạn có rủi ro thấp hơn tín dụng trung và dài hạn, độ
an toàn cao, Trong khi đó tín dụng trung và dài hạn thì thời gian thu hồi vốn rất
dài, thời gian sử dụng vốn lâu…
● Theo hình thức tài trợ:
- Cho vay: là việc ngân hàng cho khách hàng vay tiền với cam kết khách
hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Hầu hết thì hình thức cho
vay chiếm một tỷ trọng rất lớn trong hoạt động Tín dụng
- Bảo lãnh: Điều 361 Bộ luật Dân sự 2005 quy định, bảo lãnh là việc người
thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên
được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo
lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình.
Điều 20 khoản 12 và Điều 58, Luật các tổ chức Tín dụng 2004 quy định bảo
lãnh là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (hay tổ chức tín dụng khác) với bên có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho
Ngân hàng số tiền đã được trả thay.
- Cho thuê: là việc ngân hàng cho khách hàng thuê các tài sản theo sự thỏa
thuận của hai bên. Có hai hình thức là cho thuê tài chính và cho thuê nghiệp vụ.

Trong đó hình thức cho thuê tài chính là hoạt động chủ yếu, là hoạt động tín dụng
trung hạn và dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là
ngân hàng với các khách hàng thuê (Điều 20 khoản 11- Luật các Tổ chức tín dụng
2004). Khi kết thúc thời hạn thuê khách hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài
sản đó theo các điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê
không được đơn phương huỷ hợp đồng
● Theo tài sản đảm bảo:
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn
dựa trên cam kết người nhận tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả nợ trong một
số trường hợp.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách hàng có uy
tín, thường là làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay của các tổ chức lớn
hay theo chỉ định của Chính phủ. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn có nhiều cách
phân loại khác nữa. Việc phân loại tín dụng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngân
hàng trong việc theo dõi rủi ro, lợi nhuận…
2. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng
a. Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng
● Tính tất yếu của rủi ro tín dụng
Một trong những nội dung hoạt động của NHTM là huy động tiền nhàn rỗi
để cho vay. Kinh doanh ngân hàng là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro khiến
cho ngân hàng có thể không thu hồi được hoặc thu hồi không đủ tiền gốc và lãi khi
đến hạn. Trong lịch sử hoạt động ngân hàng Việt Nam đã từng xảy ra những vụ án
lớn bắt nguồn từ rủi ro tín dụng, như vụ Epco-Minh Phụng. Chính vì vậy, công tác
quản trị rủi ro tín dụng luôn phải đi kèm với hoạt động cho vay của NHTM.
Cùng với thời gian, tính chất của rủi ro tín dụng cũng thay đổi khi các doanh
nghiệp phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn trong việc đưa ra những sản phẩm
và dịch vụ mới nhằm chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế, vì vậy, họ sẽ sẵn
sàng chấp nhận rủi ro tín dụng nhiều hơn. Các NHTM phải đối mặt với mức độ rủi
ro tín dụng (hoặc rủi ro đối tác) ngày càng tăng không chỉ ở các khoản cho vay mà
còn ở những công cụ tài chính khác như giao dịch liên ngân hàng, tài trợ thương

mại, giao dịch ngoại hối, swaps, trái phiếu, cổ phiếu, quyền lựa chọn, bảo lãnh…
● Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (TCTD),
Điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết. Mục đích của quản trị rủi ro tín dụng là nhằm tối đa hoá lợi nhuận và
duy trì rủi ro tín dụng trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận được.
Theo đó, rủi ro tín dụng có nghĩa là ngân hàng cho khách hàng vay, khi đến
hạn thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi thi khách hàng không thể trả được hoặc
có thể bị trì hoãn.
Rủi ro tín dụng được tiến hành phân loại theo các tiêu thức sau:
- Theo cơ cấu các loại hình rủi ro, rủi ro tín dụng đựơc chia thành rủi ro theo
khoản vay ngắn, trung và dài hạn
- Theo nguồn gốc hình thành, rủi ro tín dụng được chia thành 3 loại:
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của ngân
hàng, việc nghiên cứu, dự báo, theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng, cán bộ tín dụng,
công tác kiểm tra, kiểm soát còn yếu kém.
+ Rủi ro từ phía người vay: Đây là loại rủi ro chủ yếu trong các loại rủi ro
tín dụng
Ví dụ: Rủi ro vì khả năng tài chính yếu kém, rủi ro trong hoạt động kinh
doanh…
+ Rủi ro từ các nguyên nhân khác: Đó là các rủi ro liên quan tới các khâu
quản lý của Ngân hàng Nhà nước; chế độ chính sách; môi trường; các biến động
bất thường trong nền kinh tế…
b. Tác động của rủi ro tín dụng
Rủi ro trong hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân
hàng cũng như các hoạt động của nền kinh tế. Đó là các tác động xấu, thể hiện ở

các khía cạnh sau:
- Làm suy giảm uy tín của ngân hàng:
Một ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả,
làm cho khách hàng thiếu lòng tin và như vậy khó có thể huy động được nguồn
vốn dồi dào. Các ngân hàng vì thế mà lánh xa, không cấp các hạn mức tín dụng,
không mở quan hệ đại lý…
- Làm giảm khả năng thanh toán:
Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn mà các
khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, trong khi không
huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, vì thế khách hàng thấy không tin
tưởng và rút khoản tiền gửi, kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh
toán.
- Làm suy giảm lợi nhuận:
Do rủi ro đưa đến nhiều mất mát thiệt hại về tài chính, thêm vào đó là quá trình
mở rộng hoạt động gặp khó khăn bế tắc, kết quả là giảm sút lợi nhuận.
- Rủi ro có thể dẫn tới phá sản:
Nếu những tác động của rủi ro trên 3 phương diện nêu trên không được ngăn
chặn và cứ phát triển đến một mức độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng vào chỗ phá sản
c. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Việc kiểm tra tình hình sử dụng nguồn vốn vay của khách hàng thường
xuyên là cách tốt nhất để phát hiện nhanh chóng những dấu hiệu này bằng hình
thức kiểm tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số dấu
hiệu thường thấy từ phía khách hàng cần được kiểm tra:
● Từ báo cáo tài chính:
- Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách
kịp thời;
- Tiền mặt của khách hàng giảm;
- Khả năng thanh khoản vốn lưu động giảm;
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định;
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ

đông của công ty;
- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng;
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng;
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm;
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh;
● Từ hoạt động kinh doanh:
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh;
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc
nguồn cung cấp;
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng
chính;
- Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể
làm mất năng lực sản xuất hiện hành;
● Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng:
- Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm;
- Xuất hiện khoản nợ quá hạn;
- Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn;
- Xin gia hạn nhiều lần hoặc đáo nợ nhiều lần;
- Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn)
nhưng không dễ dàng nhận thấy;
- Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về
vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi;
● Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty:
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi;
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự
chắp vá;
- Mạo hiểm với kinh doanh có những rủi ro quá mức;
- Định giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế;
- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ
chốt;

- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các
điều kiện kinh tế;
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng
kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét, đánh giá
kỹ để có thể hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng
d. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Thứ nhất, các NHTM mỗi ngân hàng theo đuổi mục tiêu riêng của mình
(phát triển khách hàng, tăng trưởng tín dụng, dịch vụ...). Chưa có sự liên kết thống
nhất trong việc xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro, chia sẻ các thông tin. Những
chuẩn mực kế toán kiểm toán, các tiêu chí đánh giá, đo lường mức độ rủi ro theo
uỷ ban Basel chưa được các NHTM áp dụng thực hiện một cách hoàn chỉnh.
Thứ hai, hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro của ngân hàng nhà nước cũng
như của các NHTM chỉ mới có tác dụng thống kê (nhưng cũng chưa thật đầy đủ),
chưa phát huy tác dụng chức năng cập nhật, thông tin cảnh báo và đưa ra các giải
pháp ngăn ngừa và hạn chế các loại rủi ro và đang xuất hiện trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng
. Thứ ba, đội ngũ cán bộ chuyên môn còn hạn chế, dù trong quá trình hoạt
động, thực hiện hiện đại hoá, các ngân hàng đều có quan tâm đến việc đào tạo và
đào tạo lại đội ngũ cán bộ của mình. Do đó vẫn còn một số bộ phận cán bộ chuyên
môn chưa tinh thông trong lĩnh vực mình đảm nhiệm (như các tiêu chuẩn định mức
tiêu hao nguyên vật liệu, dây chuyền công nghệ, xu hướng phát triển của ngành
nghề trong tương lai...), vì vậy khó có thể đề xuất những cảnh báo, biện pháp
phòng ngừa rủi ro một cách khoa học và chuẩn xác trong quyết định cấp tín dụng.
Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chưa hiệu quả chức năng quản lý
nhà nước ở lĩnh vực là đầu mối soạn thảo và ban hành các văn bản thống nhất về
quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, tuân thủ
những tiêu chí hướng dẫn trong hệ thống quản lý rủi ro của uỷ ban Basel, những
tiêu chí đang được hầu hết các ngân hàng thương mại trên thế giới áp dụng. Bên
cạnh đó Ngân hàng nhà nước trên cơ sở nghiên cứu cập nhật số liệu báo cáo thống
kê từ các ngành, để đưa ra dự báo về xu hướng phát triển, rủi ro có thể gặp của các

ngành kinh tế từ đó các NHTM có định hướng đầu tư một cách hiệu quả, hạn chế
được rủi ro.
Bên cạnh những nguyên nhân chung như vậy, rủi ro trong hoạt động ngân
hàng còn do những nguyên nhân sau mà phần lớn xuất hiện từ môi trường xung
quanh chẳng hạn như:
- Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập
thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách
hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông
tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải
lúc nào thông tin thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy,
nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, cập
nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất
thoát vốn khi cho vay.
- Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng
trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động
kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm
ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn.
- Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán
trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân
hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy
định về thuế, vốn.., cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động
nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập…

×