Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chính sách, pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm qua thực tiễn ở thành phố đà nẵng thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.73 KB, 78 trang )

BỘ TƢ P HÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH THỊ LINH CHI

CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀ M VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM QUA THỰ C TIỄN Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
THỰ C TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 60. 38. 50

LUẬN V ĂN TH ẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TIẾN SỸ L ƢU BÌNH NHƢỠNG

HÀ NỘI - NĂM 2006



MỤC LỤC

LỜI N ÓI ĐẦU
CHƢƠNG 1: N HỮNG VẤN ĐỀ C HUNG VỀ V IỆC LÀM , CHÍN H
SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TH EO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
1.1. Quan niệm về việc làm


1.1.1. Q uan niệm về việc làm ở Việt Nam
1.1.2. Q uan niệm về việc làm và giải quyết việc làm theo tổ chức Lao động
quốc tế (ILO)
1.2. Phân loại việc làm
1.3. M ối quan hệ giữa việc làm với quan hệ pháp luật lao động
1.3.1. Việc làm là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ pháp luật lao động
1.3.2. Việc làm là nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động
1.3.3. Việc làm là cơ sở để duy trì quan hệ pháp luật lao động
1.4. Pháp luật lao động về việc làm và chính sách giải quyết việc làm theo
quy định của pháp luật lao động
1.4.1. Pháp luật lao động về việc làm
1.4.2. Chính sách giải quyết việc làm theo quy định của pháp luật lao động
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ VIỆC
LÀM VÀ GIẢ I QUYẾ T VIỆC LÀM Ở T HÀNH PH Ố ĐÀ NẴNG TỪ
KHI THÀNH LẬP ĐẾN NAY (1996-2005)
2.1. Tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm ở thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Bối cảnh chung về tình hình kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng
2.1.2. Vai trò, ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm ở thành phố Đà Nẵng
2.2. Chính sách giải quyết việc làm tại thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Tình hình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết việc
làm tại thành phố Đà Nẵng
2.2.2. Kết quả giải quyết việc làm của thành phố Đà Nẵng (1997-2005)
2.2.3. M ột số tồn tại, khó khăn trong cơng tác giải quyết việc làm ở thành phố
Đà Nẵng
CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ M ỘT SỐ G IẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT NHẰM GIẢI QUYẾT H IỆU QUẢ VIỆC LÀ M TẠI
THÀNH PH Ố ĐÀ NẴNG TRONG TH ỜI GIAN T ỚI
3.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội và m ục tiêu
giải quyết việc làm trong thời gian tới của thành phố Đà Nẵng
3.2. Kiến nghị m ột số giải pháp về chính sách, pháp luật nhằm giải quyết hiệ u

quả việc làm tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI L IỆU T HAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
1
5

5
5
10
12
14
14
15
15
16
16
18
26

26
26
27
29
29
33
44
50


50
51
67
69
72


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLLĐ: Bộ luật Lao động
DVVL: Dịch vụ việc làm
HĐND: Hội đồng nhân dân
ILO: International Labour Organizatio n (Tổ chức Lao động Quốc tế)
LĐTBXH: Lao động, Thương binh và Xã hội
UBND: Ủy ban nhân dân


1
LỜI NĨI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc làm được thừa nhận có vai trị quan trọng trong việc ổn định tình
hình chính trị - xã hội, là điều kiện quan trọng nhất để xóa đói giảm nghèo và
là cách thức để thơng qua đó người lao động tích cực tham gia và khẳng định
sự đóng góp của mình đối với sự phát triển của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, việc làm và thất nghiệp là vấn đề mang
tính tồn cầu, vấn đề này khơng loại trừ một quốc gia nào dù đó là nước đang
phát triển hay nước có nền cơng nghiệp phát triển. Giải quyết việc làm, chống
thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải, bởi vì việc làm và thất nghiệp vừa là
mang tính kinh tế, xã hội vừa mang tính chính trị - pháp lý, khơng chỉ là vấn

đề trước mắt mà cịn mang tính chiến lược lâu dài.
Với ý nghĩa quan trọng của vấn đề việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra quan điểm bảo đảm việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu. Giải
quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm
việc đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của các cấp, các ngành và của
toàn xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 -2010 xác
định “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để p hát huy nhân tố con người,
ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng
chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” [1].
Thành phố Đà Nẵng sau khi được chia tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộ c trung ương, diện mạo thành phố
đã có nhiều thay đổi đáng kể, nhất là trong đầu tư cơ sở hạ tầng và chỉnh trang
đô thị, ln duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, ổn định, đời sống và
thu nhập của người dân được cải thiện. Sự nỗ lực không ngừng, v ươn lên của
chính quyền và nhân dân thành phố đã được Đảng và Nhà nước công nhận Đà
Nẵng là đô thị loại I từ ngày 01/8/2003. Đây là cơ sở để Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết số 33 -NQ/TW ngày 16/10/2003 về xây dựng và phát triển
thành phố Đà Nẵng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời


2

kỳ mới. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới và phát triển đơ thị vẫn cịn nhiều
tồn tại, khó khăn, trong đó tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng và sức ép về
giải quyết việc làm lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến m ục tiêu xây dựng thành
phố Đà Nẵng trở thành đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm kinh
tế trọng điểm của miền Trung và Tây Nguyên.
Trước yêu cầu đổi mới về công tác hoạch định chính sách, xây dựng
pháp luật về việc làm, việc nghiên cứu sâu sắ c vấn đề việc làm và thực tiễn áp
dụng chính sách giải quyết việc làm ở địa phương là rất cần thiết. Vì vậy, tơi

chọn vấn đề “Chính sách, pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm qua
thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện" làm
đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình, với mong muốn góp phần làm sáng
tỏ về mặt lý luận, thực tiễn áp dụng và kiến nghị một số giải pháp cụ thể
nhằm hồn thiện chính sách giải quyết việc làm của thành phố Đà Nẵng trong
thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay có nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu về chế định việc
làm (trong nước) dưới góc độ kinh tế lao động và luật học. Các ý kiến đóng
góp và hướng hồn thiện đúng đắn của các nhà khoa học đã được pháp luật
lao động ghi nhận và đ iều chỉnh cho phù hợp trong những lần sửa đổi Bộ luật
Lao động. M ột số cơng trình, đề tài được in thành sách, tạp chí, các bài viết
liên quan đến pháp luật lao động về việc làm đã giúp ích cho việc nghiên cứu,
tham khảo về chế định này như đề tài cấp Nhà n ước “Nguồn lao động và việc
làm” năm 1992; đề tài cấp trường “Việc làm và giải quyết việc làm trong điều
kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
năm 2004 của Trường Đại học Luật Hà Nội, tài liệu nghiên cứu "Thị trường
lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên" của TS. Nguyễn Hữu
Dụng. Ngồi ra, có luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Văn Quynh,
một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội thực
hiện, nghiên cứu dưới góc độ lý luận luật học và một số bài viết đăng trên các
tạp chí: Lao động và xã hội, Nghiên cứu lập pháp, Kinh tế và phát triển chủ


3

yếu nghiên cứu ở góc độ chính sách kinh tế lao động việc làm. Nhìn chung,
việc nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ những khía cạnh khác nhau về vấn
đề thực trạng nguồn nhân lực, chính sách tạo và giải quyết việc làm cho người
lao động trong phạm vi cả nước hoặc bài viết mang tính thực tế ở một vài địa

phương. Riêng đề tài về chính sách việc làm và giải quyết việc làm của thành
phố Đà Nẵng chưa có luận văn nào thực hiện.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và giải quyết
việc làm theo quy định của Bộ luật Lao động.
- Nghiên cứu hệ thống chính sách, các quy định về việc làm và giải quyết
việc làm của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ khi thành lập đến nay.

- Tình hình thực thi chính sách, pháp luật về việc làm tại thành phố Đà
Nẵng kể từ khi thành lập đến nay.
- Các giải pháp hồn thiện chính sách việc làm phục vụ cho quá trình
phát triển của thành phố Đà Nẵng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa
M ác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí M inh về Nhà nước và pháp luật làm cơ sở
phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu, phân
tích, tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn hoạt động giải quyết việc làm.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
M ục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn
đề việc làm và sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề việc làm trên cơ sở
phân tích thực trạng lao động, việc làm và chính sách giải quyết việc làm
trong thực tiễn ở thành ph ố Đà Nẵng, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá
và nêu kiến nghị một số giải pháp về chính sách, pháp luật nhằm giải quyết
hiệu quả vấn đề việc làm tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Từ mục
đích và đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung giải quy ết các nhiệm vụ:


4


Một là, nghiên cứu những vấn đề có tính khái quát chung về việc làm
và sự điều chỉnh của pháp luật lao động đối với vấn đề việc làm cũng như các
chính sách giải quyết việc làm ở nước ta làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp
theo.
Hai là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng chính sách giải quyết
việc làm ở thành phố Đà Nẵng kể từ khi thành lập đến nay để luận giải về nhu
cầu và sự cần thiết khách quan về giải quyết việc làm trong phạm vi thành
phố và trong mối quan hệ giữa thành phố với các tỉnh thuộc khu vực miền
Trung - Tây Nguyên.
Ba là, đưa ra kiến nghị một số giải pháp về chính sách, pháp luật nhằm
giải quyết hiệu quả việc làm tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Lĩnh vực việc làm tuy đã có những cơng trình nghiên cứu mang tầm vĩ
mơ, vì vậy việc chọn và nghiên cứu sâu sắc đề tài này trong phạm vi hẹp sẽ có
giá trị đối với cơng tác hoạch định chính sách giải quyết việc làm của địa
phương. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu sâu th ực trạng và đánh giá ưu
điểm và những mặt còn tồn tại của chính sách, pháp luật giải quyết việc làm ở
thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu
quả công tác giải quyết việc làm cũng như khắc phục tính thiếu đồng bộ với
các chính sách kinh tế - xã hội khác, khắc phục việc coi chính sách việc làm là
loại chính sách phụ từ trước đến nay trong thực tiễn triển khai thực hiện.
7. Cơ cấu của luận văn
Nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, ngồi mục
lục, lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về việc làm, chính sách và pháp luật về
giải quyết việc làm theo quy định của pháp luật lao động.
Chương 2: Thực trạng chính sách, pháp luật về việc làm và giải quyết
việc làm ở thành phố Đà Nẵng từ khi thành lập đến nay (1996 -2005).
Chương 3: Kiến nghị một số giải pháp về chính sách, pháp luật nhằm

giải quyết hiệu quả việc làm tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.


5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆ C LÀM, CHÍNH SÁCH
VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI Q UYẾT VIỆC LÀM THEO
QUY ĐỊNH CỦA PH ÁP LUẬT LAO ĐỘNG
1.1. QUAN NIỆM VỀ VIỆC LÀ M
1.1.1. Quan niệm về việc làm ở Việt Nam
1.1.1.1. Dƣới góc độ kinh tế - xã hội
M ỗi cá nhân từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành đều mong muốn tìm
được việc làm phù hợp với khả năng, nguyện vọng và sở thích của mình để
được làm việc và có thu nhập để trang trải cuộc sống của bản thân và ni
sống người thân trong gia đình. Vấn đề việc làm trở nên quan trọng và bức
xúc hơn khi dân số ngày càng đông, chỗ làm việc ít, người lao động buộc phải
tự cạnh tranh để tìm được việc làm. Việc làm và thất nghiệp trở thành nỗi ám
ảnh thường trực đối với bất kỳ người nào. Đối với quốc gia, chỉ số về tạo việc
làm và thất nghiệp là những phản ánh quan trọng về thực trạng phát tri ển kinh
tế - xã hội của đất nước. Để giải quyết vấn đề việc làm cần phải có chính sách
phát triển kinh tế và các biện pháp để thực thi hiệu quả. Trong điều kiện
chuyển đổi nền kinh tế thị trường hiện nay, việc nghiên cứu vấn đề việc làm
không thể tách rời thị trường lao động, nguồn nhân lực có chất lượng và hệ
thống các quan hệ thị trường.
Dưới góc độ ngơn ngữ học cho rằng, “việc làm” [29] là từ ghép gồm
hai từ “việc” và “làm”. “Việc” được hiểu là công việc, công chuyện phải làm
như “việc nhà, việc nước”, hay đi kèm động từ để trở thành danh từ hóa như
“việc phịng, chống cháy rừng”. Còn từ “làm” là động từ được hiểu là sự
“thực hành” trong thực tế một công việc cụ thể, có nghĩa là phải bỏ sức lao

động ra để có thành quả hay cái thiết yếu cho cuộc sống của mình; hay có
nghĩa bỏ sức lao động và làm việc thuộc một nghề nào đó thường mang tính
lâu dài, ví dụ “làm ruộng, làm thầy thuốc”, ngồi ra nó cịn được dùng với
mục đích nào đó như “cây trồng làm cảnh”. Vì vậy, “việc làm” nói chung là


6

về các cơng chuyện có mục đích, có thể cần phải dùng trí lực hay sức lực để
có được thu nhập sinh sống. Việc làm là đối tượng của sự làm việc, của hành
động thực hiện nó. Khi có sự làm việc thì chắc chắn tồn tại một việc làm.
Dưới góc độ kinh tế, việc làm trước hết là vấn đề cá nhân người lao
động, xuất phát từ nhu cầu mưu sinh cuộc sống của mỗi người. Lao động việc làm luôn được coi là nhu cầu cơ bản nhất, chính đáng và lớn nhất của
con người. Ph.Ăngghen đã khẳng định lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên
của tồn bộ đời sống con người, chính lao động đã tạo ra chính bản thân con
người. Từ khi sinh ra ai cũng có nhu cầu, phương tiện để tồn tại, để ăn, mặc...
Để đáp ứng được nhu cầu đó, con người khơng có cách nào khác là phải lao
động để tạo ra của cải vật chất, hay nói các h khác con người phải tham gia
thực hiện công việc nào đấy để được trả công (thu nhập) thỏa mãn nhu cầu
của bản thân. Cho dù với tư cách là người làm th hay người sử dụng lao
động thì tiền cơng hay lợi nhuận thu được ln là mục đích mà người lao
động hướng đến, mong muốn đạt được.
Trong nền kinh tế thị trường, việc làm thực hiện thông qua sức lao
động được coi là hàng hố có thể đem bán trên thị trường và có ích lợi cho
người mua nó. Theo đó, việc làm được đánh giá theo các tiêu chuẩn như: tính
chất địa lý, kỹ thuật của việc làm, các yêu cầu về năng lực, trình độ tay nghề,
kinh nghiệm, tính cơ động của việc làm... Lao động thơng qua quá trình thực
hiện việc làm của người lao động là yếu tố quan trọng của đầu vào sản xuất và
là cơ sở để xem xét việc trả cô ng cho người lao động. M ức tiền công thể hiện
giá trị mà người lao động nhận được trên cơ sở trao đổi sức lao động. Tiền

công là giá cả của lao động cụ thể, được phản ánh thông qua giá trị của việc
làm. Do vậy, việc làm càng có giá trị cao thì mức trả cơng càng lớn.
Việc làm khơng chỉ mang tính kinh tế mà cịn mang tính xã hội. Bởi vì,
con người là tổng hịa các mối quan hệ xã hội đã thể hiện mối quan hệ giữa
mỗi cá nhân sống trong cộng đồng, gia đình, đó là mối liên hệ qua lại, tương
hỗ. Việc làm của mỗi người luôn gắn liền với các hoạt động sản xuất của xã
hội. M ỗi cá nhân không những phải làm việc, tạo ra thu nhập thỏa mãn lợi ích


7

cá nhân mà cịn có nghĩa vụ đem lại lợi ích cho những người khác trong gia
đình và cộng đồng. Việc làm luôn là vấn đề của cá nhân , nhưng không phải
mọi việc làm đều được xã hội công nhận, nói cách khác trong xã hội có rất
nhiều loại hoạt động tạo ra thu nhập nhưng không được coi là việc làm theo
góc độ xã hội lẫn luật pháp.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế - xã hội, việc làm được hiểu là các hoạt
động lao động, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động và việc làm của
mỗi cá nhân luôn gắn liền với các hoạt động sản xuất của xã hội.
Bên cạnh khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp và người thất
nghiệp cũng được các nhà khoa học giải thích theo nhiều cách khác nhau.
Theo ILO thì "thất nghiệp" là tình trạng tồn tại khi một người trong độ tuổi
lao động mong muốn và có khả năng làm việc, rất tích cực tìm kiếm nhưng
khơng tìm được việc làm vì lý do khơng có chỗ làm việc trống hoặc trình độ
chun mơn khơng phù hợp. Còn "người thất nghiệp" được hiểu là người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang khơng có việc làm và đang
đi tìm việc làm và sẵn sàng đi làm ngay khi có việc làm.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc làm và thất nghiệp là vấn
đề mang tính tồn cầu mà các quốc gia không thể tránh khỏi. Thực tế đã
chứng minh ở các nước có nền kinh tế phát triển ln tồn tại một số lượng

người thất nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp trong giới hạn cho phép tạo ra
sự cạnh tranh bình đẳng về lao động, từ đó tạo ra động lực kích thích sự tăng
năng suất lao động và sử dụng nguồn lao động có hiệu quả hơn. Vấn đề đặt ra
là Nhà nước phải xác định được giới hạn của tình trạng thất nghiệp để khơng
trở thành vấn đề xã hội gay gắt, ản h hưởng đến nền kinh tế và an tồn xã hội.
Bởi vì khi tỷ lệ thất nghiệp trong giới hạn cho phép thì nó trở thành yếu tố
tích cực tạo ra động lực phát triển kinh tế, và ngược lại, nếu thất nghiệp vượt
quá giới hạn cho phép thì nó trở thành vấn đề xã hội gay gắt. Do vậy phải giải
quyết mối quan hệ giữa chính sách phát triển kinh tế và chính sách xã hội
trong lĩnh vực giải quyết việc làm.
Giải quyết việc làm là vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp và phức tạp, là


8

vấn đề quan trọng đảm bảo ổn định, công bằng và ti ến bộ xã hội. Giải quyết
việc làm bao gồm các vấn đề liên quan đến phát triển và sử dụng hiệu quả
nguồn nhân lực, phát triển thị trường lao động. Đây là quá trình diễn ra lâu
dài, bắt nguồn từ vấn đề giáo dục và đào tạo, phổ cập nghề nghiệp để người
lao động chuẩn bị bước vào cuộc sống tự lập của mình, đến vấn đề tự do lao
động và thụ hưởng thành quả do lao động tạo ra, đồng thời cải thiện và nâng
cao chất lượng cuộc sống của người lao động. Vấn đề tạo và giải quyết việc
làm ln gắn với các chương trình phát triển kinh tế. Theo đó, giải quyết việc
làm chủ yếu hướng vào đối tượng và đưa ra mục tiêu, biện pháp để giảm tỷ lệ
thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, tăng thu nhập. Nội dung giải
quyết việc làm được giới hạn trong khuôn khổ phạm vi của c hính sách xã hội,
tạo việc làm chính là giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định và an
tồn xã hội.
1.1.1.2. Dƣới góc độ pháp lý
Quan niệm về việc làm ở nước ta được nhận thức một cách khác nhau

qua các thời kỳ lịch sử của đất nước. Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch,
tập trung, bao cấp trước đây, với chủ trương của Đảng và Nhà nước là xác lập
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất
với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể. Những người
làm việc trong các cơ quan nhà nước, hợp tác xã, tổ hợp tác mới được được
thừa nhận là có việc làm. Trong cơ chế đó, Nhà nước khơng thừa nhận sự tồn
tại hiện tượng thất nghiệp cũng như hiện tượng phá sản, cạnh tranh, các quyền
tự do kinh doanh bị hạn chế. Điều nà y được thể hiện trong các bản Hiến pháp.
Với quan niệm một chiều, mọi cơng dân đều có quyền có việc làm, Nhà nước
phải có nghĩa vụ cam kết đảm bảo việc làm đầy đủ thông qua cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa mà tạ o thêm
việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và yêu
cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, khơng
ngừng cải thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc
(Điều 58 Hiến pháp 1980). Nhà nước có trách nhiệm tạo việc làm và bảo đảm


9

cho cơng dân có chỗ làm việc theo chế độ biên chế suốt đời, thể hiện bản chất của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên thực tế, quy định này khơng có tính khả thi.
Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vấn
đề việc làm được nhìn nhận với quan điểm mới. Trước hết, việc làm được coi
là một nhu cầu chính đáng của con người và quyền làm việc đã trở thành một
trong những quyền cơ bản của công dân, Hiến pháp 1992 ghi nhận "Lao động
là quyền và nghĩa vụ của công dân" (Điều 55). Từ đây, quan điểm về việc làm
đã có nhiều thay đổi đáng kể. Thứ nhất, quan niệm việc làm đầy đủ cho mọi
công dân không cịn nữa mà đã trở thành mục tiêu trong chính sách tạo việc
làm cho mọi người trong xã hội, bằng cách Nhà nước và xã hội có kế hoạch
tạo việc làm ngày càng nhiều cho người lao động. Thứ hai, mọi người lao

động phải tự tổ chức tìm kiếm việc làm cho bản thân vì cuộc sống của mình.
Việc quy định thừa nhận cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo quy đị nh
của pháp luật đã thể hiện sự năng động trong việc tự tạo việc làm mà không
trông chờ, ỷ lại Nhà nước. Hơn nữa, từ khi BLLĐ ban hành từ năm 1994 (sửa
đổi, bổ sung năm 2002) đã củng cố quan niệm việc làm. Nếu như trước đây,
người lao động làm việc trong k hu vực quốc doanh và tập thể mới coi là có
việc làm thì ngày nay đã chỉ rõ "mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không
bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" (Điều 13 BLLĐ).
Như vậy, việc làm dưới góc độ pháp luật được hiểu là hoạt động lao
động hợp pháp, tạo ra thu nhập chính đáng nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản
thân và gia đình. Quan niệm việc làm cũng áp dụng đối với người nội trợ
trong gia đình mặc dù khơng có yếu tố tạo ra thu nhập nhưng vẫn được Nhà
nước thừa nhận là người có việc làm. Quan n iệm về việc làm theo pháp luật
lao động đã làm thay đổi một cách cơ bản so với trước đây. Người lao động
làm việc trong các thành phần kinh tế có quyền tự do lựa chọn công việc phù
hợp với nguyện vọng và khả năng của bản thân; được tự do lựa chọn nơi làm
việc phù hợp với điều kiện sống và lựa chọn người sử dụng lao động để thiết
lập quan hệ lao động cũng như thay đổi, chấm dứt hợp đồng lao động theo
quy định của pháp luật, đã thể hiện nguyên tắc "công dân được làm tất cả


10

những gì mà pháp luật khơng cấm". Theo quan niệm mới về việc làm đã phù
hợp với điều kiện kinh tế -xã hội của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với chủ trương tạo mở việc làm thông qua nhiều biện pháp, trong
đó có chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy tinh thần tíc h
cực, chủ động của người lao động trong tìm kiếm việc làm, khuyến khích chủ
sử dụng lao động tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần tháo gỡ những khó
khăn trong chính sách giải quyết việc làm cho người lao động.

Trong cơ chế thị trường, giải quyết việc làm phải dựa trên quan hệ cung
- cầu của thị trường lao động, lựa chọn mọi biện pháp giải phóng tiềm năng
lao động, cho người lao động quyền tự do trong lao động. Tự bản thân người
lao động phải phát huy năng lực sáng tạo, tính năng động của mình trong việc
tự tạo việc làm, đồng thời thụ hưởng đúng giá trị lao động mà mình đã tạo ra,
khơng phụ thuộc vào Nhà nước. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ là trách
nhiệm của cá nhân người lao động mà còn là của Nhà nước, các doanh nghiệp
và xã hội.
Vì vậy, giải quyết việc làm dưới góc độ pháp lý chính là việc Nhà nước
ban hành các chính sách để thực thi pháp luật lao động về việc làm. Thơng
qua các chương trình mục tiêu về việc làm, bằng những cơ chế, biện pháp
pháp lý để tạo việc làm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp, góp phần ổn
định an ninh, chính trị, trật tự xã hội của đất nước.
1.1.2. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm theo tổ chức
Lao động quốc tế (ILO)
Ngay từ những ngày đầu thành lập (năm 1919), trong lời nói đầu của
điều lệ ILO đã nêu mục tiêu chống thất nghiệp, đảm bảo tiền công đủ sống.
Vấn đề việc làm và chống thất nghiệp là nội dung quan trọng trong các
chương trình nghị sự tại các hội nghị thường niên của ILO như "Chương trình
việc làm thế giới" năm 1969 với mục tiêu tạo việc làm có hiệu q uả cho một số
lượng lớn người dân; năm 1976, ILO tổ chức Hội nghị việc làm thế giới và
thông qua Tuyên ngơn về các ngun tắc và các chương trình hành động
nhằm loại trừ nghèo khổ, phát triển việc làm đầy đủ, có hiệu quả, thỏa mãn


11

nhu cầu lao động cơ bản của người lao động.
Theo ILO, người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả tiền
cơng, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham

gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu
nhập gia đình khơng được nhận tiền cơng hoặc hiện vật.
Ngồi ra, các Cơng ước và khuyến nghị về chính sách việc làm, chống
thất nghiệp, điều kiện an tồn lao động của ILO khơng chỉ tạo tiền đề pháp lý
cho việc đảm bảo quyền tự do việc làm mà còn định hướng những quy định
của pháp luật lao động về quyền tự do việc làm. Trong những năm qua, chính
sách giải quyết việc làm của ILO có những bước phát triển tích cực. Đặc biệt,
Cơng ước số 122 (1964) về chính sách việc làm ILO kêu gọi các nước thành
viên giải quyết việc làm phải hư ớng tới các cấp độ hiệu quả khác nhau: việc
làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả và việc làm tự do lựa chọn.Theo đó, việc
làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu tìm việc làm của những người có khả năng
lao động trong xã hội, là sự giải quyết về mặt số lượng; việc l àm hiệu quả là
việc làm phù hợp với nguyện vọng, trình độ, khả năng của người lao động mà
ở đó người lao động cống hiến được nhiều nhất năng lực của mình đem lại
hiệu quả cao nhất và tự do lựa chọn việc làm là khả năng mà người lao động
được tự do lựa chọn việc làm với thời gian, điều kiện làm việc phù hợp nhất.
Việc làm tự do lựa chọn là giai đoạn phát triển cao nhất của chính sách việc
làm ở mỗi quốc gia, là mục tiêu mà các quốc gia hướng đến.
Trong thời đại ngày nay, tôn chỉ của ILO là tạo cơ hội cho phụ nữ cũng
như nam giới tìm được việc làm phù hợp và có năng suất trong điều kiện đảm
bảo tự do, bình đẳng và nhân phẩm, đã thực sự làm cho cách nhìn nhận và đối
xử với người lao động một cách bình đẳng và việc làm mang một chất lượng
cao hơn. Theo đó, khái niệm "việc làm nhân văn" (decent work) [28] ra đời đã
trở thành một quan niệm mới về việc làm đồng thời nó cũng là chính sách
việc làm của ILO đặt ra từ nhiều năm nay. Khái niệm việc làm nhân văn ra
đời chính là mục tiêu lớn của các quốc gia trên thế giới. Việc làm nhân văn là
một bước tiến lớn đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức của con người đối với


12


việc làm. Theo quan niệm hiện đại thì việc làm nhân văn là việc làm chắc
chắn và hữu ích, ở đó người lao động được tơn trọng các quyền lao động,
được làm việc và nhận được mức thù lao tương xứng, đồng thời người lao
động được bảo đảm các quyền xã hội khác như quyền được tham gia và
thương lượng tập thể, quyền tự do cơng đồn và đối thoại xã hội. Trong xu
thế hội nhập, tồn cầu hóa ngày càng sâu rộng, việc làm nhân văn đẩy mạnh
xóa đói giảm nghèo và hội nhập xã hội, đóng góp vào công bằng xã hội. Việc
làm nhân văn được cấu thành bởi bốn yếu tố có mối liên hệ với nhau. Thứ
nhất, có việc làm là vấn đề quan trọng nhưng nội dung và điều kiện làm việc
cũng quan trọng không kém như thời gian, cường độ làm việc, tiền lương,
môi trường làm việc, điều kiện an toàn lao động... đều góp phần tạo nên chất
lượng cơng việc. Thực tế cho thấy giữa chất lượng công việc và năng suất lao
động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó có thể đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng hoặc làm giảm khả năng cạnh tranh và sự bền vững của doanh nghiệp
trong sản xuất kinh doanh. Thứ hai, việc làm nhân văn thể hiện trong các tiêu
chuẩn lao động quốc tế (international labour standards) của ILO. Các tiêu
chuẩn cơ bản về tự do liên kết (kết hợp), chống phân biệt đối xử, chống lao
động cưỡng bức và lao động trẻ em là nền tảng để thực hiện các quyền của
người lao động. Thứ ba là an ninh việc làm, thể hiện ở các quy định pháp luật
và các chính sách bảo vệ người lao động khỏi những biến động về việc làm.
Các hệ thống bảo hiểm xã hội, dạy nghề, thoả ước tập thể và bảo đảm an toàn
vệ sinh lao động là những cách bảo đảm an ninh việc làm hữu hiệu. Cuối
cùng, việc làm nhân văn thể hiện ở khả năng đại diện và đối thoại xã hội, mà
vai trò chính trong q trình này là cơng đồn và tổ chức của giới chủ, Nhà
nước đóng vai trị tạo điều kiện cho hai bên thực hiện đối thoại. Cơ chế hiện
đang được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường để giải
quyết các vấn đề về lao động.
1.2. PHÂN LOẠI VIỆC LÀ M
Dựa vào những tiêu chí, đặc điểm khác nhau, có thể phân loại việc làm

như sau:


13

-

Việc làm bình thường và việc làm khó khăn, độc hại, nguy hiểm .

Việc làm bình thường là loại cơng việc khơng chứa đựng hoặc chứa đựng ít
yếu tố khó khăn, độc hại, nguy hiểm, ví dụ cơng việc mang tính hành chính,
văn phịng ở các cơng sở. Tính chất cơng việc được thực hiện theo một quy
trình, thủ tục nhất định. Người lao động yên tâm khi bắt tay thực hiện cơng
việc đó. Ngược lại, việc làm khó k hăn, độc hại, nguy hiểm là loại cơng việc
có chứa đựng những yếu tố hóa học, vật lý, sinh học tác động theo hướng tiêu
cực đến sức khoẻ của người thực hiện cơng việc đó. Các yếu tố đó có thể gây
nên những chứng bệnh làm suy giảm sức khoẻ của người lao động .
- Việc làm cho người lao động bình thường, việc làm cho đối tượng đặc thù.
Những người lao động có sự phát triển bình thường về mặt thể chất, có thể
tìm việc làm dễ dàng hơn, phạm vi công việc rộng hơn, khả năng lựa chọn cao
hơn cũng như cơ hội mở rộng hơn. Ngược lại, đối với người lao động bị
khiếm khuyết về mặt cấu trúc cơ thể hoặc bị hạn chế một hoặc một số khí
quan mà khả năng thực hiện cơng việc ở mức độ hạn chế thì khơng thể có
nhiều cơ hội để tham gia vào tất cả các loại công việc như người lao độ ng
bình thường. Những đối tượng này thường được gọi chung là lao động đặc
thù như phụ nữ, người lao động chưa thành niên, người tàn tật, người cao
tuổi, thường lựa chọn những công việc nhẹ nhàng, không độc hại, nguy hiểm
phù hợp với sức khỏe của bản thân. Pháp luật lao động quy định những điều kiện,
tiêu chuẩn để thực hiện.
- Việc làm chân tay, việc làm trí óc.

Thực tiễn, thuật ngữ này được sử dụng thơng dụng là "lao động tay
chân và lao động trí óc" để chỉ loại công việc cần nhiều sức lực, cơ bắp hay trí
tuệ. Cách phân loại này dựa vào phương thức thực hiện công việc. Đối với
việc làm chân tay, người lao động phải thực hiện công việc thông qua các
thao tác của tay, chân, cơ thể. Công việc địi hỏi người lao động phải có sức
khoẻ tốt mà không cần nhiều tư duy . Công việc dạng này có thể tìm thấy ở
các cơng nhân, thợ cày, lao cơng... Ngược lại, cơng việc trí óc địi hỏi người
lao động không cần sử dụng nhiều sức lực mà sử dụng phương thức tư duy rất


14

nhiều để giải quyết cơng việc. Cơng việc này có thể tìm thấy ở n hững nghề
như luật sư, giáo viên, kiến trúc sư, kỹ sư, nhà quản lý...
- Việc làm trọn ngày và việc làm không trọn ngày.Việc làm trọn ngày là
việc làm mà người lao động thực hiện công việc với thời gian tối đa. Người
lao động phải dành tồn bộ thời gian làm việc của mình để thực hiện công
việc (theo quy định của Nhà nước thời giờ làm việc là 8h/ngày), thu nhập đạt
được bảo đảm chi tiêu cho cuộc sống cá nhân ở mức tối thiểu. Việc làm trọn
ngày mang ý nghĩa là việc làm chính của người lao động, tạo động lực ch o
người lao động phấn đấu vì cơng việc. Người lao động làm những cơng việc
mang tính chất khơng trọn giờ (part time) thường làm một hoặc một số công
việc mà mức độ địi hỏi về thời giờ làm việc khơng dài. Họ phải thực hiện
nghĩa vụ trong một khoảng thời gian nhất định theo hợp đồng đã ký kết.
Ngoài ra, dựa vào những tiêu chí khác, việc làm cịn bao gồm: việc làm
độc lập, việc làm tổng thể, việc làm linh hoạt, việc làm tạm thời, việc làm tự
nguyện, việc làm cưỡng bức, việc làm nhân văn...
1.3. M ỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆC LÀM VỚI QUAN HỆ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
1.3.1. Việc làm là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ pháp luật
lao động

Trong hoạt động lao động, việc làm là yếu tố khơng thể thiếu, bởi vì
khơng có việc làm thì khơng thể có sự làm việc, nghĩa là khơng có hoạt động
lao động. M ối quan hệ lao động xuất phát từ nhu cầu của cả hai bên chủ thể,
đó là người lao động có nhu cầu tìm việc làm để có thu nhập, trang trải cho
cuộc sống của cá nhân và gia đình, cịn người sử dụng lao động muốn thuê
mướn người lao động để làm việc cho mình, tham gia vào quá trình sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp. Quan hệ lao động hình thành trên cơ
sở thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện. Giao kết hợp đồng
lao động là sự kiện pháp lý chủ yếu, thơng dụng để hình thành quan hệ pháp
luật lao động. Tuy nhiên, việc giao kết đó phải tiến hành trên cơ sở quy định
"cơng dân được làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm", nghĩa là việc
làm phải hợp pháp. Chính việc làm là điều kiện tiền đề, là cầu nối giữa người


15

sử dụng lao động và người lao động để thiết lập mối quan hệ pháp luật lao
động.
1.3.2. Việc làm là nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động
Trong quan hệ pháp luật lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể
luôn gắn liền với nhau, nghĩa là quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia
và ngược lại. Hơn nữa, các bên không những phải thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình, mà cịn có trách nhiệm tạo điều kiện cho phía bên kia thực
hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ. Lợi ích của các chủ thể giao hòa nhau
trên tinh thần lợi ích của một bên được đảm bảo trong mối tương quan với lợi
ích của bên cịn lại.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động bao gồm công việc phải làm,
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, bảo hiểm
xã hội, điều kiện an toàn lao động...Tuy nhiên, việc làm là nội dung chủ yếu,
cơ bản đầu tiên vì nó là tiền đề để thực hiện các điều kiện liên quan đến quan

hệ pháp luật lao động. Do đó, khi việc làm thay đổi thì quan hệ lao động cũng
thay đổi theo, đồng thời các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ
cũng thay đổi tương ứng.
1.3.3. Việc làm là cơ sở để duy trì quan hệ pháp luật lao động
Việc làm khơng chỉ là tiền đề thiết lập mà cịn có vai trị là cơ sở để duy
trì quan hệ lao động. Khi giao kết hợp đồng, nghĩa là đã t hiết lập quan hệ lao
động, thời hạn của việc làm quyết định thời hạn của hợp đồng lao động. Nhờ
có việc làm mà quan hệ pháp luật lao động có điều kiện tồn tại, và khi khơng
cịn việc làm hoặc khi cơng việc kết thúc thì hợp đồng lao động đương nhiên
chấm dứt hiệu lực, quan hệ lao động cũng khơng cịn lý do để tiếp tục duy trì.
Trong mối tương quan này, quan hệ lao động phụ thuộc và dựa trên cơ sở việc
làm. Vì vậy, để quan hệ pháp luật lao động được duy trì thì việc làm với tư
cách là nội dung của quan hệ pháp luật lao động phải mang tính bảo đảm, ổn định.
Như vậy, trong mối liên hệ giữa việc làm và quan hệ lao động, việc làm
có vai trị vừa là điều kiện tiên quyết để thiết lập, vừa là nội dung đồng thời là
cơ sở để duy trì quan hệ lao động. Quan hệ việc làm là tiền thân của quan hệ


16

lao động, vì vậy pháp luật cần có các quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề việc
làm trong thực tiễn.
1.4. PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC LÀM VÀ CHÍNH SÁCH GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG

1.4.1. Pháp luật lao động về việc làm
Việc làm là một trong những nội dung quan trọng được quy định tại
chương II BLLĐ với 7 điều nhưng đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà
nước đối với chính sách giải quyết việc làm. Theo quy định của BLLĐ "mọi
hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nh ập, không bị pháp luật cấm đều được

thừa nhận là việc làm" (Điều 13). Quan niệm này vừa mang nội dung kinh tế,
xã hội vừa mang tính pháp lý; phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo sự bình
đẳng trong vấn đề tìm kiếm việc làm. Đồng thời quy định việc giải q uyết việc
làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm
là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội. Việc quy
định trách nhiệm của các chủ thể đã thể chế hóa quan điểm xã hội hóa, cộng
đồng trách nhiệm trong vấn đề giải quyết việc làm.
Trách nhiệm của Nhà nước được BLLĐ quy định khá cụ thể ở tầm
quản lý vĩ mô trong việc ban hành các chính sách, cơ chế cụ thể để giải quyết
việc làm. Nhà nước đề ra chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm. Nhà nước ban hành chương trình quốc
gia việc làm trong từng giai đoạn, hàng năm để triển khai thực hiện. Bên cạnh
đó, Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho vay vốn, hỗ trợ tài chính, miễn,
giảm thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích người lao động tự giải
quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh
tế phát triển nhiều ngành nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều lao động
(Điều 14 BLLĐ).
Trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong phạm vi, quyền
hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện các chương trình và quỹ giải
quyết việc làm (Điều 15 BLLĐ). Đây là cơ sở pháp lý ghi nhận và giao trách
nhiệm cho các đoàn thể, tổ chức xã hội cùng Nhà nước tham gia tạo việc làm


17

cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông
qua các tổ chức giới thiệu việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng,
giảm số lượng lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo quy
định pháp luật (Điều 1 6 BLLĐ); đồng thời phải có trách nhiệm ưu tiên nhận

lao động nữ vào làm việc và thực hiện các quy định về lao động nữ; nhận lao
động là người tàn tật với số lượng nhất định (Điều 125 BLLĐ); phải lập quỹ
dự phòng về trợ cấp mất việc làm, có trách nhiệm đào tạo lại người lao động
để tiếp tục sử dụng vào chỗ làm việc mới trong trường hợp do doanh nghiệp
thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ (Điều 17 BLLĐ).
Trách nhiệm của người lao động được tự do lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề n ghiệp; có quyền làm việc cho
bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ nơi nào mà pháp luật khơng
cấm, có quyền trực tiếp liên hệ tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức giới
thiệu việc làm, tự tạo việc làm cho mình (Điều 5, 16 BLLĐ).
Ngồi ra, pháp luật lao động cịn có những quy định riêng về việc làm
đối với một số lao động đặc thù. Đó là những người có đặc điểm riêng về thể
chất, tinh thần, tâm sinh lý, khơng có khả năng như những lao động bình
thường khác như lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao đ ộng cao tuổi,
lao động là người tàn tật. Đối với những đối tượng này, các quy định pháp
luật luôn dành cho họ những hỗ trợ, ưu đãi nhất định nhằm giúp họ hòa nhập
cộng đồng, tham gia tự tạo việc làm cho mình, góp phần giảm bớt gánh nặng
cho xã hội. Các quy định pháp luật về việc làm cho đối tượng lao động đặc
thù luôn hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền lợi cũng như bảo đảm việc làm
đầy đủ, ổn định lâu dài.
Lao động nữ: Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng
về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động
tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xun, kết hợp hài hịa cơng
việc gia đình và xã hội; Nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào
tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm người lao độn g nữ còn


18

có thêm nghề dự phịng và việc sử dụng lao động nữ phù hợp với đặc điểm cơ

thể, sinh lý và chức năng làm mẹ (Điều 109, 110 BLLĐ). Lao động nữ có thai
có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không phải bồi thường
cho người sử dụng lao động (Điều 112 BLLĐ)...
Lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Pháp luật
cấm sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại, công việc ảnh hưởng xấu tới
sức khoẻ và nhân cách của họ; cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc,
trừ một số nghề và công việc do Bộ LĐTBXH quy định (Điều 120, 121
BLLĐ).
Lao động là người cao tuổi là người trên 60 tuổi đối với nam, trên 55
tuổi đối với nữ (Điều 123 BLLĐ). Do yếu tố sức khoẻ mà p háp luật quy định
trước khi nghỉ hưu người lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc
hàng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc không trọn ngày, không trọn tuần
theo quy định.
Lao động là người tàn tật: Nhà nước bảo hộ quyền làm việc đối với
người tàn tật và khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức thu nhận, tạo việc
làm cho người tàn tật. Pháp luật cấm sử dụng người tàn tật đã bị suy giảm sức
khỏe từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc ban đêm; người tàn tật không
được làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm h oặc tiếp xúc với các chất độc hại;
Nhà nước có chính sách hỗ trợ về tài chính, miễn giảm học phí đối với người
tàn tật học nghề và các chính sách ưu đãi khác (Điều 127 BLLĐ).
1.4.2. Chính sách giải quyết việc làm theo quy định của pháp luật
lao động
Cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai cụ thể vấn đề việc làm theo quy
định của Bộ luật Lao động là Nghị định số 39/2003/NĐ -CP ngày 18/4/2003
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ
về việc làm và các văn bản hướng dẫn liên quan khác để tổ chức thực hiện.
Vấn đề việc làm được thực hiện thông qua những biện pháp pháp lý chủ yếu
để giải quyết việc làm.



19

1.4.2.1. Chƣơng trình việc làm
Chương trình việc làm là một trong những biện pháp để Chính phủ thực
hiện việc điều tiết, tạo việc làm mới và giải quyết việc làm cho người lao
động. Nội dung chương trình việc làm bao gồm mục tiêu, chỉ tiêu tạo việc làm
mới, nội dung hoạt động, nguồn tài chính, các biện pháp để đảm bảo thực
hiện chương trình để đạt mục tiêu cao nhất là tìm mọi cách tạo được việc làm
cho người lao động càng nhiều càng tốt. Theo Quyết định số 05/QĐ -TTg
ngày 14/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ, Nhà nước đã xây dựng Chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm và giao cho Bộ LĐTBXH quản lý. Năm
2000, Chính phủ đã xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
theo Quyết định số 126/1998/QĐ -TTg ngày 11/07/1998. Vào năm 2001, căn
cứ vào những đặc điểm liên quan giữa chương trình quốc gia về việc làm và
chương trình xóa đói giảm nghèo, Chính phủ quyết định sáp nhập hai ch ương
trình này và đổi tên thành Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo và việc làm [16]; đồng thời xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 -2005 [17]. Đây là chương
trình tổng hợp có tính chất liên ng ành trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, lồng ghép xóa đói giảm nghèo với tạo việc làm nhằm tạo
điều kiện thuận lợi hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản
xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Theo quy định BLLĐ, chương trình việc làm của địa phương do UBND
cấp tỉnh xây dựng và được HĐND cùng cấp phê duyệt. Việc thực hiện
chương trình phải được lồng ghép với các chương trình, dự án phát triển kinh
tế- xã hội nhằm tạo nhiều việc làm cho người lao động.

1.4.2.2. Quỹ giải quyết việc làm
Để giải quyết việc làm, BLLĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành quy
định thành lập, cơ chế thực hiện Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ giải quyết


20

việc làm của các địa phương, quỹ việc làm cho người tàn tật và quỹ dự phòng
trợ cấp mất việc làm.
Thứ nhất, lập Quỹ quốc gia về việc làm là một biện pháp pháp lý quan
trọng để Nhà nước triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm. Quỹ được hình thành từ ngân sách Nhà nước, các nguồn hỗ trợ của
các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước và các nguồn hỗ trợ khác . Quỹ
được sử dụng vào mục đích cho vay vốn theo dự án nhỏ để tạo thêm việc làm;
cho các doanh nghiệp vay để hạn chế lao động mất việc làm và nhận người
thất nghiệp; cho một số đối tượng thuộc diện chính sách vay với lãi suất thấp
để hỗ trợ giải quyết việc làm; hỗ trợ tổ chức giới thiệu việc làm và các hoạt
động phát triển thị trường...
Quỹ quốc gia về việc làm đóng vai trị hạt nhân trong chương trình giải
quyết việc làm quốc gia và trở thành một trong những dự án quan trọng của
Chương trình mục tiêu quốc g ia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn
2001-2005. Việc cho vay vốn với lãi suất thấp nhằm giúp cho người có nhu
cầu được tiếp cận với nguồn vốn của Quỹ một cách dễ dàng. Cơ chế quản lý,
điều hành hoạt động của quỹ luôn được điều chỉnh để phù hợp với n guyện
vọng, khả năng và nhu cầu của người lao động [20]. Công tác hướng dẫn xây
dựng, tổ chức thẩm định và phân cấp phê duyệt rõ ràng, cụ thể, đồng thời
phân cấp trách nhiệm của các cơ quan quản lý điều hành [6]. Việc chuyển
giao quyền quản lý quỹ từ Kho b ạc Nhà nước sang Ngân hàng Chính sách xã
hội đã tăng cường cơng tác quản lý, bảo tồn và phát triển nguồn vốn, tạo
thuận lợi cho người có nhu cầu chỉ cần thực hiện các thủ tục cần thiết và nhận

vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội nơi cư trú.
Thứ hai, Quỹ giải quyết việc làm cấp tỉnh hình thành từ ngân sách của
địa phương, từ sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
và các nguồn hỗ trợ khác. Quỹ giải quyết việc làm của địa phương được dùng
để thực hiện các mục tiêu của Chương trình việc làm của địa phương và hỗ
trợ cho chương trình giải quyết việc làm của cấp huyện [7]. Có thể thấy, việc
hình thành, quản lý Quỹ giải quyết việc làm từ trung ương đến địa phương


21

được thực hiện thống nhất và chặt chẽ theo các văn bản hướng dẫn của Nhà
nước.
Thứ ba, Quỹ việc làm cho người tàn tật. Theo quy định Nghị định số
81/CP ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của BLLĐ về lao động là người tàn tật và các văn bản hướng dẫn liên quan
[12], Quỹ việc làm dành cho người tàn tật là quỹ của địa phương được hình
thành từ ngân sách địa phương, hỗ trợ từ quỹ quốc gia về việc làm, khoản thu
từ các doanh nghiệp nộp hàng tháng do không nhận đủ số lao động là người
tàn tật vào làm việc theo quy định của pháp luật, từ các tổ chức, cá nhân tro ng
nước và nước ngoài trợ giúp và các nguồn thu khác... Quỹ được sử dụng vào
mục đích hỗ trợ cho người tàn tật được học nghề gắn với giải quyết việc làm,
cho vay với lãi suất ưu đãi đối với các đối tượng là cơ sở dạy nghề, cơ sở sản
xuất kinh doanh, cá nhân người tàn tật, doanh nghiệp nhận người tàn tật vào
làm việc. Có thể nhận thấy, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
nhằm triển khai các chính sách trợ giúp người tàn tật, quy định các quyền và
nghĩa vụ của người tàn tật tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý cho các
hoạt động trợ giúp người tàn tật, góp phần tạo việc làm cho đối tượng này.
Thứ tư, Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm cũng là một biện pháp giải
quyết việc làm quy định tại Điều 17 BLLĐ và Điều 13 Nghị định

39/2003/NĐ-CP, các doanh nghiệp phải lập Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc
làm. Theo quy định, doanh nghiệp phải trích từ 1% -3% trên quỹ tiền lương
làm cơ sở đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp cho quỹ dự phòng về trợ
cấp mất việc làm. Quỹ được dùng để trả trợ cấp mất việc làm cho ngư ời lao
động trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ, đào tạo nghề dự
phòng cho lao động nữ của doanh nghiệp và bồi dưỡng nâng cao trình độ
nghề cho người lao động. Việc trích lập, quản lý, sử dụng và hạch tốn Quỹ
dự phòng về trợ cấp mất việc là m tại doanh nghiệp được quy định tại Thông
tư số 82/2003/TT-BTC ngày 14/8/2003 của Bộ Tài chính và các văn bản
hướng dẫn.
Ngồi ra, Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ xử lý lao động dôi dư


×