Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tài liệu Luận văn Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.99 MB, 128 trang )


1




Luận văn
Phát triển đội ngũ lao động kỹ
thuật ở thành phố Đà Nẵng -
Thực trạng và giải pháp

2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với các yếu tố quyết định sự phát triển của một nền kinh tế như: ý
tưởng, áp dụng công nghệ cao, hạ tầng cơ sở hiện đại, vốn xã hội thì “vốn con
người”, xét đến cùng là quyết định nhất, cách mạng nhất. Ở Việt Nam, Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “con người và NNL là nhân tố
quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”, trong đó
LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL trở thành lực lượng tiên phong trong
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Phát triển đội ngũ LĐKT có ý
nghĩa quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế trong xu thế hội nhập và phát triển.
Đối với thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16 tháng 10
năm 2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã xác định phương hướng phát triển
thành phố đến năm 2020 là: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một
trong những đô thị lớn của cả nước; là trung tâm KT - XH lớn của miền
Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; là
thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải


trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông, tài chính - ngân
hàng; một trong những trung tâm văn hoá thể thao, giáo dục đào tạo và KH -
CN của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc
phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước”.
Để thực hiện mục tiêu đó, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành 12
chương trình hành động trên tất cả các lĩnh vực KT - XH, cải cách hành
chính, an ninh, quốc phòng, xây dựng đảng và đã tổ chức thực hiện bước
đầu đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, phát triển đội ngũ LĐKT ở thành
phố, chìa khoá của mọi vấn đề, đang là một thực tiễn cần được đầu tư nghiên
cứu, giải quyết ở nhiều cấp độ khác nhau để góp phần trở thành một chương
trình hành động mang tính quyết định, cùng với các giải pháp khác đưa thành

3

phố Đà Nẵng sớm hoàn thành nhiệm vụ trong sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề “Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng -
Thực trạng và giải pháp” là việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lao động là một trong những yếu tố và là nguồn lực cơ bản để tạo ra
sự phát triển của đất nước, đặc biệt là phát triển và sử dụng đội ngũ LĐKT luôn
được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó cần kể đến những công trình sau đây:
- Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến với đề tài khoa học
độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010”.
- Nhóm tác giả Nguyễn Mậu Dựng và tập thể tác giả tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh (phân viện Đà Nẵng, nay là Học viện Chính trị Khu
vực 3) với đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Cơ cấu, chất lượng và xu
hướng biến động của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung”.
- Tác giả Vương Quốc Được với đề tài thạc sĩ “Xây dựng NNL cho CNH,

HĐH thành phố Đà Nẵng”.
- Tác giả Lê Ngọc Trà với đề tài cấp Sở “Quy hoạch tào tạo NNL tỉnh
Bình Thuận giai đoạn 2002-2010”.
- Tác giả Nguyễn Đức Tĩnh với đề tài thạc sĩ “Hoàn thiện quản lý nhà
nước về đào tạo nghề ở nước ta hiện nay”.
- Tác giả Phạm Kim Sơn với đề tài cấp thành phố “Chính sách phát triển
nhân lực và thu hút nhân tài công nghệ thông tin thành phố Đà Nẵng”.
- Tác giả Đỗ Thị Xuân Phương với luận án tiến sỹ kinh tế “Phát triển thị
trường sức lao động giải quyết việc làm”.
- Tác giả Nguyễn Hữu Chí với đề tài thạc sĩ “Những giải pháp về quản lý
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Ở nhiều góc độ, cấp độ nghiên cứu khác nhau, các công trình khoa học
nêu trên đã làm rõ những yêu cầu về lý luận cũng như thực tiễn xoay quanh
nội dung phát triển NNL.

4

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên còn đặt ra cho luận văn
cần phải phát triển thêm một số vấn đề:
- Về lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề liên quan về LĐKT, đặc trưng
của LĐKT, phát triển LĐKT và yêu cầu phát triển LĐKT; LĐKT và nền kinh
tế tri thức; đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo LĐKT trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về thực trạng: Bổ sung phân tích, đánh giá thực trạng cung - cầu
LĐKT, các yếu tố tác động đến phát triển LĐKT.
- Về giải pháp: Bổ sung mô hình, cơ sở dự báo phát triển lao động kỹ thuật.
Đề xuất thêm một số giải pháp phát triển LĐKT theo định hướng thị trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Phân tích, đánh giá tình hình đào tạo, phát triển, sử dụng LĐKT, từ đó đề

ra những giải pháp nhằm phát triển LĐKT của thành phố Đà Nẵng đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH thành phố cũng như toàn vùng và của cả nước.
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển NNL nói chung và
phát triển LĐKT nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển LĐKT ở thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp phát triển LĐKT ở thành phố Đà Nẵng đến năm
2010. Những kiến nghị với Đảng, Nhà nước, chính quyền thành phố trong
việc phát triển LĐKT trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào phát triển nhóm lao động có CMKT ở các
cấp trình độ, hình thức đào tạo khác nhau, mang tính thực hành, được đào tạo
trong hệ thống các cơ sở dạy nghề ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Nền tảng là lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết
của Đảng về lao động, giáo dục, đào tạo, DN.

5

- Trên cơ sở các tài liệu thống kê, điều tra lao động - việc làm hàng năm,
các báo cáo về phát triển LĐKT, các chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước
và chính quyền thành phố trong việc phát triển NNL nói chung, phát triển
LĐKT nói riêng, luận văn sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu.
6. Những đóng góp cơ bản của đề tài
- Về mặt lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đào tạo LĐKT;
quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đào tạo LĐKT; lý luận về LĐKT và
nền kinh tế tri thức; đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo LĐKT
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Về thực tiễn: Đóng góp những giải pháp để phát triển LĐKT phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH thành phố Đà Nẵng; luận văn làm rõ thêm xu hướng đào
tạo LĐKT theo định hướng cầu thị trường.
- Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo về phát triển LĐKT để ngành Lao
động-Thương binh và Xã hội giúp Uỷ ban nhân dân thành phố nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về đạo tạo LĐKT, đảm bảo phát triển đội ngũ LĐKT
phục vụ CNH, HĐH thành phố.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 11 tiết.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về LĐKT và vai trò của nó trong quá
trình CNH, HĐH và hội nhập ở nước ta.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ LĐKT ở thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển đội
ngũ LĐKT ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.

6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP Ở NƯỚC TA

1.1. LAO ĐỘNG KỸ THUẬT VÀ PHÁT TRIỂN LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP Ở
NƯỚC TA
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của lao động kỹ thuật
Cho đến nay thuật ngữ “LĐKT” còn có những quan niệm khác nhau ở
nhiều tài liệu trong thực tế. Để làm rõ khái niệm “LĐKT” cần tìm hiểu các
khái niệm liên quan:

Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam khái niệm: “Lao động giản đơn là
lao động không đòi hỏi phải đào tạo về chuyên môn cũng có thể thực hiện
được một công việc nào đó” và “Lao động lành nghề là lao động có trình độ
chuyên môn được đào tạo, huấn luyện hay qua tích luỹ kinh nghiệm trong
thực tiễn để thực hiện công việc phức tạp mà lao động giản đơn không làm
được” [50, tr.64].
C. Mác đưa ra thuật ngữ “Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”.
Như vậy, LĐKT nằm trong thang, bậc nào từ lao động giản đơn - lao
động lành nghề - lao động phức tạp trong các khái niệm nêu trên là vấn đề cần
nghiên cứu, thống nhất.
Trong điều tra lao động - việc làm thời điểm 01 tháng 7 hàng năm, do Bộ
LĐ-TB&XH và Tổng cục Thống kê tổ chức từ năm 1996 đến nay và trong
các báo cáo thống kê của nhà nước sử dụng chỉ tiêu “ lao động qua đào tạo”
và “lao động qua đào tạo nghề”.
Theo đó, “lao động qua đào tạo” là lao động CMKT, có giải tần rộng,
được tính bao gồm lao động được đào tạo từ sơ cấp/học nghề, công nhân kỹ
thuật có bằng, không bằng trở lên đến đào tạo THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH.
Còn “lao động qua đào tạo nghề” là một bộ phận của “lao động qua đào
tạo”, dùng để thống kê, báo cáo lao động được đào tạo, được cấp bằng nghề,

7

chứng chỉ nghề ở hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục
quốc dân, mà giáo dục nghề nghiệp thì bao gồm đào tạo trung cấp chuyên
nghiệp và DN [32, tr.2].
Như vậy, LĐKT gần đồng nghĩa với lao động qua đào tạo nghề. Nhưng
trong nền kinh tế hiện đại, giáo dục nghề nghiệp còn phát triển đào tạo các
cấp trình độ cao hơn như CĐ kỹ thuật, ĐH kỹ thuật mang tính thực hành và
trong thực tế, công nhân kỹ thuật mặc dù không có bằng nghề, chứng chỉ nghề
nhưng lại có kỹ năng nghề nhất định và có kinh nghiệm trong sản xuất kinh

doanh thì khái niệm “LĐKT” cũng cần mở rộng ra, nghiên cứu thống nhất
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Với cách tiếp cận mới hơn, nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến
với đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn
2001-2010” khái niệm “LĐKT (theo nghĩa hẹp) là loại lao động được đào tạo,
được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề
nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động
và có kỹ năng hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công
nghệ khác nhau, phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp
tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh” [11, tr.21].
Với khái niệm này, LĐKT phải có hai điều kiện:
- Điều kiện 1: Được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong
hệ thống giáo dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Điều kiện 2: Đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ năng
hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công nghệ khác
nhau, phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống sản xuất kinh doanh vẫn tồn tại một đội
ngũ lao động do nhiều nguyên nhân chưa đáp ứng điều kiện 1, nhưng do tích
luỹ kinh nghiệm, họ có thể đáp ứng điều kiện 2. Nếu xem điều kiện 1 là thủ
tục để có thể học thêm, được cấp bằng, chứng chỉ, thì khái niệm “LĐKT” có
thể nghiên cứu mở rộng thêm cho cả đối tượng này.

8

Còn trong “Thuật ngữ LĐ-TB&XH” tiếp cận khái niệm “LĐKT” thực tế
hơn. “LĐKT sản xuất kinh doanh là người lao động có trình độ kỹ năng và kỹ
xảo nhất định thông qua đào tạo hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, đảm
nhiệm được những công việc phức tạp, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật -
công nghệ, có khả năng truyền nghề và DN” [4, tr.15]. Theo khái niệm này,

những người có trình độ kỹ năng và kỹ xảo nhất định thông qua tích luỹ kinh
nghiệm thực tế (không có bằng, chứng chỉ đào tạo) cũng thuộc nhóm LĐKT.
Một điều dễ nhận ra trong khái niệm trên là đã tách bạch ra LĐKT và lao
động quản lý. LĐKT đảm nhiệm những công việc phức tạp, đáp ứng yêu cầu
kỹ thuật - công nghệ, không đề cập đến đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý.
Do đó, cách tiếp cận thuật ngữ “LĐKT” này gần với thực tế thị trường lao
động hơn, nếu xét ở vị trí của lao động trong quá trình sản xuất.
Mặt khác, trong quản trị doanh nghiệp, để định mức hao phí thời gian lao
động, thường phân chia lao động thành lao động công nghệ, lao động phụ trợ,
phục vụ và lao động quản lý. Rõ ràng, LĐKT được xếp vào lao động công
nghệ, là những lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo quy trình
công nghệ nhằm làm biến đổi đối tượng lao động về các mặt hình dáng, kích
thước, cơ lý hoá tính…để sản xuất sản phẩm. Đây là loại lao động chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong các doanh nghiệp và cũng đang cần thiết trong thị trường
lao động.
Như vậy, để tiếp cận với khái niệm “LĐKT” gần nhất vẫn phải gắn với
yêu cầu thị trường lao động. Thị trường lao động chấp nhận thuật ngữ
“LĐKT” ở góc độ vị trí của nó trong quá trình sản xuất, kinh doanh là loại lao
động mang tính thực hành cao, mang tính “chiến đấu” hơn là “chỉ huy”, trực
tiếp điều hành máy móc, thiết bị, công nghệ để tạo ra sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ có ích cho xã hội.
Từ những tìm hiểu, phân tích nêu trên và đồng ý với khái niệm của nhóm
tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến, có thể nêu khái niệm LĐKT ở một
góc độ khác như sau: “LĐKT là loại lao động được đào tạo và cấp bằng hoặc

9

chứng chỉ một nghề nào đó ở các trình độ đào tạo trong hệ thống dạy nghề
của hệ thống giáo dục quốc dân hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, có kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ

luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ, mà thị trường lao động cần nó chủ
yếu là để trực tiếp điều hành máy móc, thiết bị, công nghệ có độ phức tạp
khác nhau để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có ích cho xã hội”.
Thuật ngữ LĐKT theo cách hiểu này cũng rất phù hợp với Quyết định số
201/2001/QĐ-TTG ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Quyết định số
48/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quy hoạch mạng lưới trường DN giai đoạn 2002-2010 và Luật Giáo dục
năm 2005. Theo đó, chủ trương “hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực
hành đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, trong đó chú trọng phát triển đào
tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên
nghiệp vụ có trình độ cao” và “mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật
viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ; liên thông giữa các ngành
nghề, các trình độ đào tạo nghề và với các trình độ đào tạo khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân”.
Ngoài ra, có thể tìm hiểu các khái niệm liên quan trong sơ đồ 1.1.
- Lao động chuyên môn: Là loại lao động được đào tạo và cấp bằng một
ngành chuyên môn nào đó trong phân hệ giáo dục ĐH và sau ĐH của hệ
thống giáo dục quốc dân, có năng lực nghiên cứu, sáng tạo, giải quyết những
vấn đề KH - CN ở trình độ cao, mà thị trường lao động cần họ chủ yếu là đảm
nhiệm những công việc quản lý, những công việc rất phức tạp, những hoạt
động đảm bảo quá trình sản xuất liên tục và hiệu quả (lao động gián tiếp). Họ
là những người quản lý, nghiên cứu, chuyên gia…, được đào tạo mang tính
hàn lâm, coi trọng lý thuyết và có khả năng chuyển sang làm các công việc
của LĐKT thì phải bổ sung hoặc nâng cao kỹ năng thực hành qua chương
trình đào tạo liên thông.

10
Sơ đồ 1.1: Phân loại LLLĐ


















- Dạy nghề (đào tạo nghề): Hiện nay, trong tất cả các văn bản pháp quy
của nhà nước, thuật ngữ “DN” hoặc “đào tạo nghề” được dùng rất phổ biến,
đã có truyền thống, điều này cũng phù hợp với tình hình thực tế đất nước, xã
hội đòi hỏi cần phải nhấn mạnh vai trò to lớn của đào tạo nghề nghiệp, trước
yêu cầu đào tạo NNL trực tiếp lao động sản xuất có tay nghề, đáp ứng yêu cầu
phát triển KT - XH. Hơn nữa, cụm từ “đào tạo nghề” thực chất là viết gọn của
cụm từ “giáo dục kỹ thuật và DN" đã được sử dụng ở nền giáo dục nước nhà
từ lâu đời và rất quen thuộc với nhà giáo trong hệ thống giáo dục. Mới đây,
thuật ngữ “DN” theo Điều 5, Luật DN được khái niệm là “hoạt động dạy và
học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
LLLĐ
LĐKT
(thực hành)
Lao động không CMKT

(giản đơn)
LĐKT
(có bằng/chứng chỉ)

LĐKT
(chưa bằng/chứng chỉ)
Dạy nghề
Sơ cấp nghề

Trung cấp nghề

CĐ nghề


Thị
trường
lao
động
(lao
động
trực
tiếp
SXKD)
Lao động chuyên môn
( hàn lâm)


11
người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn
thành khoá học”.

Còn thuật ngữ “đào tạo LĐKT” tuy mới xuất hiện cách đây khoảng 5
năm, nhưng ngày càng làm sáng tỏ hơn chiến lược phát triển giáo dục nghề
nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập, phát triển kinh tế tri
thức. Trong trường hợp còn sử dụng thuật ngữ “DN” hoặc “đào tạo nghề” thì
phải hiểu với nội dung mới, đó là “đào tạo LĐKT” trong hệ thống đào tạo kỹ
thuật thực hành [11, tr.29].
Như vậy, theo các cách tiếp cận và phân tích nêu trên, LĐKT được “nhận
dạng” bởi một số đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, được đào tạo và cấp bằng hoặc chứng chỉ trong phân hệ giáo
dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất. Thực chất đây là
đặc trưng điều kiện để được gọi là LĐKT. Vấn đề đặt ra là trong hệ thống
giáo dục quốc dân thống nhất cần phải phân hệ và có chức năng, nhiệm vụ rõ
ràng cho từng phân hệ. Phân hệ giáo dục nghề nghiệp chủ yếu là đào tạo
LĐKT thực hành ở nhiều cấp trình độ, có thể bao gồm cả ĐH kỹ thuật, công
nghệ, đào tạo ra những kỹ sư thực hành. Mặt khác, bằng cấp, chứng chỉ của
LĐKT phải được công nhận, đánh giá bởi hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề
chuyên nghiệp, có giá trị sử dụng trong phạm vi toàn quốc, khu vực và thế
giới trong xu thế hội nhập kinh tế sâu hơn hiện nay.
Thứ hai, có kiến thức, kỹ năng thực hành kỹ thuật, nghề nghiệp. Đây là
đặc trưng cơ bản của LĐKT và cũng là điều kiện cần để LĐKT có thể tìm
được việc làm phù hợp trong thị trường lao động. Các doanh nghiệp tuyển
dụng LĐKT vào làm việc không chỉ biết nghề, mà đòi hỏi LĐKT phải có kỹ
năng nghề, thực hành, điều khiển máy móc, thiết bị, công nghệ ở mức độ
phức tạp khác nhau trong doanh nghiệp, mà không phải đào tạo lại quá lâu,
gây lãng phí cho doanh nghiệp và xã hội.
Thứ ba, Có khả năng, năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng
của công nghệ trong thị trường lao động. Trong thực tế đời sống xã hội, sự

12
phát triển, biến đổi mạnh mẽ của KH - CN và ứng dụng rộng rãi nó đã cho ra

đời nhiều sản phẩm có giá trị, suy cho đến cùng, nhân tố giữ vai trò quyết
định là trình độ, năng lực của con người, trong đó đội ngũ LĐKT phải là lực
lượng “xung kích”, đón đầu sự biến đổi đó.
Thứ tư, Có thể học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề ở các
trình độ cao hơn bằng chính sách học liên thông. LĐKT có thể nâng cao trình
độ từ bán lành nghề, đến lành nghề và trình độ cao hoặc có thể bổ sung những
phần chưa học để liên thông với phân hệ giáo dục ĐH và trên ĐH trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
1.1.2. Khái niệm và nội dung phát triển lao động kỹ thuật
Như trên đã phân tích, LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL. Phát triển
LĐKT chính là phát triển NNL ở giai đoạn người lao động trưởng thành.
Phát triển NNL là khái niệm rộng. Theo cách hiểu của các nhà kinh tế, là
phát triển tổng thể tiềm năng của con người, bao gồm cả giai đoạn giáo dục,
đào tạo cho con người chưa trưởng thành và đã trưởng thành. LĐKT là bộ
phận của NNL, phát triển đội ngũ LĐKT chỉ giới hạn ở giai đoạn đã trưởng
thành, bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ LĐKT theo hướng thực
hành, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến quan niệm: “Phát triển
LĐKT là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu LĐKT
ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động và của nền KT -
XH trong quá trình CNH, HĐH”[11, tr.37].
Để phát triển LĐKT đáp ứng thị trường lao động hiện nay, một mặt phải
nâng cao tính năng động xã hội của nó, mặt khác thông qua chính sách, cơ
chế và giải pháp, biện pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội để không
ngừng giải phóng tiềm năng vô tận của LĐKT, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế- xã hội. Như vậy, khi xem xét quá trình phát triển LĐKT phải được
xem xét trong mối quan hệ không thể tách rời với quá trình đào tạo, phân bố,
sử dụng hiệu quả và cả quản lý LĐKT.

13

“Phát triển LĐKT là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ
cấu LĐKT gắn với phân bố và sử dụng có hiệu quả đội ngũ này trong thị
trường, đáp ứng yêu cầu của nền KT - XH trong quá trình CNH, HĐH đất
nước và hội nhập nền kinh tế quốc tế”.
Phát triển LĐKT phải tác động vào các yếu tố hợp thành của LĐKT, làm
cho nó biến đổi theo hướng ngày càng đáp ứng tốt nhất yêu cầu của quá trình
phát triển KT - XH. Các yếu tố chủ yếu bao gồm: Số lượng, chất lượng, cơ
cấu, phân bố và sử dụng LĐKT.
Thứ nhất, phát triển về số lượng LĐKT.
Đây là nội dung rất quan trọng của phát triển LĐKT trong điều kiện của
nước ta tỷ lệ lao động qua đào tạo trong LLLĐ đạt thấp, quy mô đào tạo nhỏ.
Việt Nam hiện đang thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ chuyên môn, quản lý
cung cấp cho các khu công nghiệp, khu chế xuất trong các vùng trọng điểm
(chỉ đáp ứng khoảng 5-10% ), đặc biệt là đội ngũ công nhân lành nghề chưa
thoả mãn yêu cầu (đáp ứng khoảng 30-40%) [9, tr.43]. Rõ ràng, nước ta đang
“thiếu thầy, thiếu thợ”.
Phát triển về số lượng LĐKT ở Việt Nam hiện nay, một mặt phải tăng
nhanh đội ngũ LĐKT bán lành nghề, lành nghề để cung cấp cho các ngành
nghề đang sử dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động, mặt khác phải tăng
nhanh đội ngũ LĐKT có trình độ cao (nhân viên, kỹ thuật viên tin học, mạng,
công nghệ hoá dầu, công nghệ sinh học, vật liệu mới…) để đáp ứng đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thứ hai, phát triển về chất lượng LĐKT.
Đây là nội dung đáng quan tâm của phát triển LĐKT hiện nay. Chất lượng
giáo dục và đào tạo nói chung, đào tạo LĐKT nói riêng còn nhiều hạn chế. “Phát
triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH chưa cân đối với giáo dục THPT.
Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng” [19, tr.170-171].
Trong thực tế, lao động qua đào tạo ở các trường DN, về cơ bản chưa
đáp ứng, thoã mãn yêu cầu của các nhà doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.


14
Phát triển về chất lượng LĐKT không phải đơn thuần là không ngừng
nâng cao kỹ năng, khả năng hành nghề của người lao động ở các trình độ
tương ứng độ phức tạp công việc trong đời sống sản xuất xã hội mà còn phải
trau dồi đạo đức nghề nghiệp, tác phong, kỷ luật lao động. Học một nghề ra
thực hành được nghề đó trong thị trường lao động đã khó, nhưng hiểu về nghề
đó, say mê nó thì càng khó hơn.
Phát triển về chất lượng LĐKT còn phải gắn chặt hệ thống chuẩn mực,
đánh giá của thế giới. Chất lượng ở đây phải mang tính “sánh vai” cùng với lực
lượng LĐKT của khu vực và thế giới và tất nhiên hệ thống văn bằng, chứng chỉ
của LĐKT trong nước phải được công nhận ở cấp quốc gia và thế giới.
Thứ ba, biến đổi về cơ cấu LĐKT.
Sự biến đổi cơ cấu LĐKT gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế đặt ra áp lực
chuyển đổi cơ cấu LĐKT cho hợp lý. Nghiên cứu biến đổi cơ cấu LĐKT ở
Việt Nam hiện nay trong bối cảnh cuộc cách mạng KH - CN bùng nổ, quá
trình toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng thấy, đất nước lại đứng
trước yêu cầu phải rút ngắn quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hiện đại, vấn đề đặt ra hình thành cơ cấu LĐKT phải thật hợp lý,
phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển KT - XH từng thời kỳ đất nước.
Mặt khác, xem xét biến đổi cơ cấu LĐKT trong phát triển đội ngũ LĐKT
còn phải gắn với phân bố LĐKT cho từng ngành, nghề, vùng kinh tế, mọi sự
phân bố không hợp lý đội ngũ LĐKT, gây ra dư thừa ngành này, thiếu hụt
LĐKT ngành khác sẽ không mang lại hiệu quả KT - XH lớn nhất và gây lãng
phí cho xã hội.
Thực trạng đối với nước ta, đội ngũ lao động CMKT hiện phân bố còn
bất hợp lý giữa các cấp, ngành, vùng kinh tế, nông thôn, thành thị. Đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật lại phân bố không đồng đều, phần lớn làm việc ở
các cơ quan trung ương (94,4%); trong các doanh nghiệp số lao động có trình

độ CĐ trở lên chỉ chiếm 32% (trong khi đó ở Hàn Quốc là 48%, Nhật Bản

15
64,4%, Thái Lan 58,2%). Riêng lao động ở nông thôn chiếm 71% cả nước,
nhưng chỉ có 10% qua đào tạo, trong đó đào tạo nghề chỉ có 0,44%. LLLĐ
khoa học kỹ thuật được đào tạo cho ngành nông nghiệp thì 89,9% làm việc ở
cơ quan trung ương, cấp tỉnh chỉ có 8,9%, còn cấp huyện 1,8%, ở cấp xã và cơ
sở hầu như không có. Ngành luyện kim hơn 32% công nhân không có tay nghề
chuyên môn, ngành xây dựng có tới 63%, hơn 11% chỉ có tay nghề bậc 1 và bậc
2. Số công nhân học hết tiểu học là 12,72%, hết THCS là 39,51%, hết THPT là
30,75%. Số nhân viên đã tốt nghiệp ĐH chỉ chiếm 10,18% [9, tr.44-45]. Với
chất lượng lao động và phân bố như vậy, Việt Nam khó có thể áp dụng thành
công những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, sử dụng hiệu quả LĐKT.
Hiệu quả của việc sử dụng LĐKT phải được thể hiện trước hết trong việc
giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ về cung - cầu lao động trong các
ngành, lĩnh vực sản xuất KT-XH. Có thể coi đây là vấn đề có tính then chốt
trong tổ chức, quản lý và sử dụng LĐKT.
Hiệu quả của việc sử dụng LĐKT còn đồng nghĩa với việc phải tạo ra
được một tỷ lệ nhất định về lực lượng LĐKT tương ứng với từng ngành, lĩnh
vực để có thể đáp ứng được với tính chất và yêu cầu về LĐKT trong từng
ngành và lĩnh vực đó. Tuỳ vào tính chất công việc của từng ngành, lĩnh vực
mà yêu cầu về tỷ lệ lực lượng LĐKT có thể cao thấp khác nhau. Nhìn chung
trong xu thế phát triển của các ngành KT-XH hiện nay, để sử dụng có hiệu
quả nguồn lao động thì yêu cầu về một đội ngũ những người lao động có
CMKT ngày càng cao có thể đáp ứng được các yêu cầu của công việc trong
tất cả các ngành nghề, lĩnh vực KT-XH đang đặt ra hết sức bức thiết.
Hiệu quả sử dụng LĐKT còn phụ thuộc vào việc bố trí, sử dụng LĐKT.
Thực chất của bố trí, sử dụng LĐKT là quá trình tổ chức, sắp xếp lại lực
lượng LĐKT một cách hợp lý, tạo điều kiện cho người lao động phát huy

được trình độ chuyên môn và năng lực sáng tạo của mình trong quá trình sản
xuất. Ở đây vấn đề cần lưu ý là phải căn cứ vào công việc để xếp người, tức là

16
phải trên cơ sở yêu cầu của công việc để tìm người bố trí, sắp xếp. Người có
đào tạo ở chuyên ngành nào phải được làm đúng chuyên ngành được đào tạo,
người có trình độ tay nghề cao được làm việc ở những khâu, những công đoạn
phức tạp, người có trình độ lao động thấp sẽ nhận được khoản thù lao tương
xứng với công sức mình bỏ ra. Điều đó không những góp phần vào việc nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, mà quan trọng là khuyến khích
người lao động có ý thức nâng cao trình độ, người được đào tạo có điều kiện
cống hiến, thể hiện năng lực của mình trong quá trình sản xuất.
Nói tới vấn đề hiệu quả sử dụng LĐKT còn phải nói tới các chế độ, chính
sách đối với người lao động. Bởi, thông qua chế độ, chính sách đối với người
lao động nếu đặt ra một cách phù hợp, kịp thời sẽ tạo ra khả năng có thể khai
thác tính tích cực, năng động, sáng tạo đối với từng người lao động trong từng
cương vị của mình. Chế độ, chính sách đối với người lao động được thể hiện
ra trên nhiều phương diện như chính sách về tiền lương, các chế độ quyền lợi
được hưởng (cả về vật chất và tinh thần) của người lao động. Để phát huy tối
đa động lực tích cực trong các hoạt động của người lao động đối với công
việc, đòi hỏi các chế độ, chính sách này phải được ban hành đầy đủ, kịp thời,
đảm bảo giải quyết hài hoà về mối quan hệ giữa khả năng cống hiến và các
quyền lợi chính đáng được hưởng thụ của người lao động.
Sử dụng có hiệu quả LĐKT đòi hỏi phải tạo lập thị trường lao động để
mọi người có cơ hội lựa chọn việc làm đúng với năng lực, sở trường của
mình. Nhờ có thị trường lao động mà cung - cầu về LĐKT có điều kiện gặp
nhau. Thông qua thị trường lao động, người sở hữu sức lao động có thể bán
nó đúng giá trị như nó vốn có, ngược lại người bỏ tiền thuê sức lao động cũng
có thể thuê được sức lao động phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình.
Thông qua thị trường lao động, các nhu cầu về cung - cầu LĐKT được đáp

ứng tối đa, mọi sự giao dịch, trao đổi sức lao động không đúng với giá trị vừa
chậm đáp ứng vừa gây lãng phí đều được loại trừ.

17
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, để dụng hiệu
quả nguồn LĐKT còn nhất thiết phải tạo lập được hệ thống các thiết bị, các
phương tiện lao động (nhà xưởng, máy móc, công nghệ, các trang thiết bị và
các phương tiện bảo hộ lao động…) tương ứng để có thể khai thác hết khả
năng và năng lực của từng người lao động. Thực tế ở nước ta hiện nay nói
chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng cho thấy việc tạo lập môi trường sản
xuất hiện đại (quá trình sản xuất với sự hỗ trợ của hệ thống các phương tiện
máy móc, trang thiết bị hiện đại) có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
việc tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sử dụng LĐKT. Bởi nhờ có
công nghệ máy móc hiện đại đã góp phần làm cho năng suất lao động hiện có
của người lao động được tăng lên, các trang thiết bị, các phương tiện bảo hộ
lao động phù hợp sẽ làm cho quá trình lao động của người lao động trở nên an
toàn hơn, tránh được sự rủi ro không cần thiết ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình
lao động. Chính vì vậy để đảm bảo tính hiệu quả cho quá trình sử dụng nguồn
LĐKT thì việc đầu tư các phương tiện, máy móc, trang thiết bị, tạo môi trường
sản xuất, kinh doanh hiện đại trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết.
1.1.3. Vai trò của lao động kỹ thuật và phát triển lao động kỹ thuật
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
CNH, HĐH ở nước ta là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý KT - XH từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao
động xã hội cao” [29, tr.502].
LĐKT là là lực lượng to lớn, xung kích của NNL, là nhân tố quan trọng
nhất của lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản sẽ trở thành

một nước công nghiệp thì phải phát huy, huy động mọi nguồn lực, trong đó
nguồn lực con người, đặc biệt là NNL chất lượng cao mà đội ngũ LĐKT là
lực lượng đại diện cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tư duy đóng một vai
trò hết sức to lớn.

18
Đối với các nước đang phát triển như đất nước ta, muốn rút ngắn quá
trình CNH, HĐH phải xem giải pháp phát triển đội ngũ LĐKT là giải pháp
mang tính đột phá, đặc biệt trong điều kiện các nguồn lực khác như nguồn lực
tài chính còn hạn hẹp. Vị trí, vai trò của LĐKT được thể hiện ở tất cả các mặt,
lĩnh vực, các quan hệ trong đời sống KT - XH, an ninh, quốc phòng của quốc
gia, đặc biệt có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, nâng cao khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế trong bối cảnh của toàn cầu hoá kinh tế và của nền kinh
tế tri thức.
Thứ nhất, LĐKT với tăng trưởng kinh tế.
Bài toán tăng trưởng kinh tế của bất cứ một quốc gia nào, dù nước đó
giàu hay nghèo cũng đều được giải đáp bằng việc phát huy, sử dụng có hiệu
quả bốn thông số, đó là NNL, nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn và công
nghệ. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, sử dụng, phát huy định
lượng, tỷ trọng và định tính các nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở mỗi
quốc gia là rất khác nhau và trình độ kết hợp chúng hiệu quả cũng đem lại kết
quả tăng trưởng kinh tế khác nhau.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, “ vốn, nguyên vật liệu, công nghệ - đều có
thể mua hoặc vay được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có thể mua
những thiết bị thông tin viễn thông, máy tính, máy phát điện và máy bay
chiến đấu hiện đại nhất. Thế nhưng những hàng hoá vốn này chỉ có thể được
sử dụng và duy trì hữu hiệu bởi những người công nhân có kỹ năng và được
đào tạo. Trình độ văn hoá, sức khoẻ, kỷ luật được nâng cao và gần đây nhất là
khả năng sử dụng máy tính đã làm cho năng suất lao động tăng thêm rất

nhiều” [42, tr.311-312].
Nhiều nước phát triển trong khu vực và các nước ASEAN trong thập
niên cuối của thế kỷ 20 đã trở thành những “con rồng”, “con hổ”, thực chất là
các quốc gia đó đã biết điều chỉnh chiến lược tăng trưởng theo hướng khai
thác tối đa nguồn lực con người và coi đào tạo NNL là quốc sách hàng đầu.

19
Đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ to lớn, là điều
kiện đi đầu cho việc chống tụt hậu về kinh tế, rút ngắn quá trình CNH, HĐH
đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu
quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của
nhân dân. Đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năn 2020” [19, tr.185-186].
Song, trong chiến lược tăng trưởng kinh tế, không được xem nhẹ các
nguồn lực vật chất khác mà phải lồng ghép để đạt được hiệu quả cao nhất.
Đây là bài toán kinh tế vĩ mô cần giải quyết, nhất là trong điều kiện cụ thể của
nước ta, lao động dư thừa lớn, buộc phải cân nhắc lựa chọn công nghệ hợp lý.
Áp dụng công nghệ cao để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển, nhưng
cũng đồng nghĩa với việc nhiều người sẽ không có việc làm do có máy móc,
công nghệ tự động thay thế, hệ số co giãn về việc làm do tăng 1% GDP đến mức
tiềm năng trong điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại thì việc làm sẽ giảm.
Chính vì vậy, phát triển đội ngũ LĐKT ở nước ta phải đồng thời phát
triển nhanh đội ngũ LĐKT ở trình độ cao và đội ngũ LĐKT bán lành nghề,
lành nghề để cung cấp cho các ngành kinh tế áp dụng dụng công nghệ sử
dụng nhiều lao động.
Thứ hai, LĐKT với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có mối quan hệ biện chứng với nhau.

Cơ cấu kinh tế luôn ở trạng thái động, hình thành, biến đổi rất khách quan
theo yêu cầu của thị trường, thuộc quyền định đoạt của các chủ thể đầu tư,
kinh doanh, sản xuất trực tiếp và đặc biệt chịu sự tác động mạnh của áp dụng
công nghệ mới. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh hơn cơ cấu
lao động, thị trường lao động cần loại lao động nào, số lượng, chất lượng, cơ
cấu đào tạo, tay nghề ra sao trong một thời gian đều do xu hướng chuyển dịch

20
cơ cấu kinh tế quyết định và chi phối, không phải do bất cứ một mệnh lệnh
hành chính nào từ phía nhà nước.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không thể nhanh và bền vững
được theo hướng CNH, HĐH và hội nhập một khi cơ cấu lao động quá lạc
hậu và không phù hợp, đây chính là lực cản lớn nhất trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đẩy nhanh việc
chuyển dịch cơ cấu lao động, mặt khác chuyển dịch cơ cấu lao động tạo điều
kiện và tiền đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát huy tiềm năng, thế
mạnh của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế trong sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta với một tư duy mới là nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh, lựa chọn những ngành hàng, những sản phẩm và dịch vụ có thể tạo ra
bước đột phá trong tốc độ phát triển nền kinh tế, mà ở đó LĐKT là bộ phận
của cơ cấu lao động, là lực lượng nòng cốt, tiên phong; phát triển đội ngũ
LĐKT là điều kiện, tiền đề để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tổng thể.
Với ý nghĩa đó, đội ngũ LĐKT có vai trò hết sức to lớn với việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Sự thiếu hụt về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động,
bao gồm cả lao động chuyên môn, lao động quản lý, nhà nghiên cứu, các
chuyên gia và đặc biệt là đội ngũ LĐKT có trình độ cao là một cản trở lớn đối
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Thành tựu 20 năm đổi mới đất nước vừa qua là đáng ghi nhận và tự hào, tuy
nhiên “cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm”, “tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP

còn thấp”, “các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được các thế mạnh”, “các
thành phần kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng” [19, tr.164-165]. “Năng lực
cạnh tranh của từng sản phẩm, của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh
tế…vẫn còn khá thấp so với các nước trong khu vực và thế giới…chính vì chi
phí sản xuất (bao gồm chi phí vật chất và chi phí quản lý và dịch vụ) cho một
chu trình sản xuất một sản phẩm còn khá cao; bên cạnh đó, chất lượng lao
động và năng suất lao động thấp” [38, tr.173].

21
Rõ ràng, cách nhìn nhận, đánh giá này rất đúng với thực trạng đất nước
chúng ta. Một mặt chúng ta phải chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu
sang cơ cấu kinh tế mới, hiện đại hơn, nhưng lại đối mặt với cơ cấu lao động lạc
hậu, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn rất thấp, sự mất cân đối nghiêm trọng
về cơ cấu đào tạo lao động cần phải được điều chỉnh, chuẩn bị kịp thời. Theo
kinh nghiệm của các nước phát triển, cơ cấu đào tạo lao động phù hợp là 1: 4:
15, tức là 1 lao động CĐ, ĐH, 4 lao động trung cấp và 15 công nhân kỹ thuật.
Tuy nhiên, nước ta hiện có cơ cấu đào lao động tương ứng là 1: 0,98: 2,66 [6].
Do vậy, bài toán đặt ra là phải tăng nhanh đào tạo đội ngũ LĐKT để khắc
phục sự lạc hậu đó nhưng cũng phải tính đến cung cấp cho các ngành kinh tế
mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm đội ngũ LĐKT có kỹ năng nghề nghiệp cao
đáp ứng yêu cầu áp dụng công nghệ cao và sự đến gần của nền kinh tế tri thức.
Thứ ba, LĐKT với nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng đi vào chiều sâu, diễn
ra nhanh chóng, khách quan, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Chất
lượng nguồn nhân lực nói chung, đội ngũ LĐKT nói riêng đóng vai trò quyết
định nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua đã đem lại
cho nền kinh tế Việt Nam những thành quả đáng khích lệ. Việt Nam đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với 169 nước, đã tham gia vào các tổ chức, diễn đàn

quốc tế lớn như: ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, mở rộng quan hệ buôn
bán với 224/225 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký 87 hiệp định
thương mại song phương, 350 hiệp định hợp tác phát triển với các nhà tài trợ,
48 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 42 hiệp định tránh đánh thuế hai
lần, 37 hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và tổ chức
quốc tế. Việc gia tăng quan hệ kinh tế thương mại, gia tăng kim ngạch xuất
khẩu đã góp phần tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm qua. Từ một nước
có mức tăng trưởng kém, đến nay, Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng hơn

22
7%, đứng thứ hai sau Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu đã đóng góp 50%
GDP năm 2004…[46, tr.124-125].
Song, theo đánh giá của thế giới, năng lực cạnh tranh nền kinh tế là vấn
đề thách thức, đáng lo ngại nhất hiện nay. Ngày 26 tháng 9 năm 2006, Diễn
đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 77 trên tổng
số 125 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng năm 2006, tụt 3 bậc so với năm
2005. Kết quả này dựa trên kết quả khảo sát đối với 11.000 doanh nghiệp
quốc tế và xem xét các nền kinh tế trên 9 tiêu chí: định chế, cơ sở hạ tầng,
kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục phổ thông, đào tạo ĐH, hiệu quả thị trường,
mức độ sẵn sàng về công nghệ, sự thông hiểu về quản lý kinh doanh, và tính
sáng tạo [25]. Trong 9 tiêu chí đó, các chỉ tiêu giáo dục ĐH, mức độ hài lòng
của doanh nghiệp và đặc biệt là chỉ tiêu độ sẵn sàng về công nghệ cũng như
chỉ tiêu hiệu quả của thị trường được xếp thứ hạng thấp.
Tuy những chỉ số này để tham khảo, nhưng không được phép coi nó là
bình thường. Về mặt lượng của một nền kinh tế có thể là tăng trưởng cao,
nhưng tụt hạng năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với tụt hậu xa hơn về mặt chất
của nền kinh tế.
Còn theo báo cáo giám sát giáo dục toàn cầu năm 2005 của UNESCO thì
chỉ số đánh giá tổng hợp về chất lượng NNL, Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm,
thuộc vào nhóm yếu kém nhất, xếp thứ 11 trong 12 quốc gia Châu Á được so

sánh, chỉ đứng trên Inđônêxia và kém xa so với Philíphin, Thái Lan và
Malaysia. Theo đánh giá chung, các nền kinh tế có chất lượng lao động dưới
35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Như vậy,
với 32/100 điểm, Việt Nam đang bị giảm về khả năng cạnh tranh trong nền
kinh tế thế giới [33].
Như vậy, Việt Nam đang cố gắng trong cải cách giáo dục, môi trường
đầu tư, thể chế kinh tế với việc ban hành nhiều luật, văn bản liên quan có chất
lượng, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả của quản lý kinh tế vĩ
mô, phòng chống tham nhũng…, đó là những nỗ lực tạo ra khả năng cạnh

23
tranh ở cấp quốc gia, nhưng sẽ không có ý nghĩa nhiều trong năng lực cạnh
tranh nền kinh tế thế giới, nếu những lĩnh vực khác chưa cải cách hoặc cải
cách chậm trễ, nhất là đào tạo nhanh đội ngũ LĐKT có kỹ năng nghề cao, sẵn
sàng sáng tạo, áp dụng những thành quả công nghệ hiện đại vào trong sản
xuất, tạo ra những sản phẩm, hàng hoá có chất lượng, giá cả rẻ, giá trị gia tăng
lớn. Muốn cải thiện thứ bậc năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam,
thu hẹp được khoảng cách so với các nước trong khu vực và thế giới, không
còn con đường nào khác là phải nâng cao chất lượng NNL, nhất là tập trung
đào tạo đội ngũ LĐKT có chất lượng cho các ngành, nghề mang tính đột phá
(công nghệ thông tin, tự động hoá, công nghệ vật liệu mới…), đảm bảo chi
phí lao động trong giá thành sản phẩm, dịch vụ thấp, đủ khả năng cạnh tranh
với khu vực và quốc tế.
Thứ tư, LĐKT với tiếp cận kinh tế tri thức.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam không thể đi theo con đường truyền
thống và kéo dài được, một mặt phải có quy trình, trình tự hợp lý nhưng đồng
thời phải có bước nhảy vọt, đi tắt, đón đầu hợp lý và mạnh dạn, táo bạo đi
ngay vào trình độ hiện đại để có những bước bứt phá mạnh mới khắc phục
tình trạng tụt hậu xa hơn về kinh tế, rút ngắn, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
đất nước theo hướng hiện đại. Vì vậy, phát triển kinh tế tri thức được xem là

rất cần thiết ở nước ta.
Sự phát triển kinh tế tri thức làm tăng nhu cầu cung cấp NNL chất lượng
cao, đòi hỏi người lao động phải có kiến thức, kỹ năng, năng lực tiếp thu tri
thức mới, có khả năng hội nhập và thích ứng nhanh với môi trường toàn cầu
hoá về kinh tế. Đào tạo NNL chất lượng cao, mà trong đó phát triển lực lượng
LĐKT “cổ trắng” để tạo ra tri thức, sử dụng tri thức vào quá trình sản xuất để
tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn cho xã hội, có sức cạnh tranh nổi
trội là động lực chủ yếu của phát triển nền kinh tế tri thức. Vì vậy, phải đầu tư
mạnh vào giáo dục, đào tạo LLLĐ, đầu tư vào nghiên cứu KH - CN, phát
triển con người.

24
1.2. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LAO
ĐỘNG KỸ THUẬT
Quá trình phát triển LĐKT chịu nhiều yếu tố tác động. Một yếu tố tác
động đến nhiều nội dung của phát triển LĐKT, một nội dung phát triển LĐKT
lại chịu nhiều yếu tố tác động. Ở góc độ hẹp, quá trình phát triển LĐKT chịu
tác động của các nhân tố như nguồn tuyển chọn, nhu cầu thị trường lao động,
mức đầu tư… (đầu vào), cơ sở vật chất nhà trường, đội ngũ giáo viên, chương
trình, giáo trình, điều kiện thực hành…(khâu tổ chức quá trình đào tạo), thị
trường lao động, lương, thưởng, chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài…(đầu
ra). Nhưng ở góc độ bao quát hơn, trước yêu cầu trình độ ngày càng cao của
nền KT - XH, trên cơ sở xác định các nội dung của quá trình phát triển
LĐKT, quá trình đó chịu tác động của tổng hợp các yếu tố, cả yếu tố nội lực
thuộc khả năng bên trong của LĐKT và môi trường KT - XH, nơi LĐKT
được đào tạo, duy trì, sử dụng và phát triển.
1.2.1. Tác động của yếu tố khoa học - công nghệ
Ngày nay, chúng ta chứng kiến cuộc cách mạng KH - CN mà đại diện
đỉnh cao của nó là công nghệ thông tin và tri thức (hay còn gọi là “cách mạng
số”) đã làm cho thế giới trở nên thu nhỏ lại, thậm chí siêu nhỏ và trở nên

“phẳng”. Thông tin và tri thức trở thành lực lượng sản xuất quan trọng hơn cả
yếu tố vốn, tài nguyên và lao động. Sự bùng nổ thông tin, công nghệ, đặc biệt
là công nghệ cao như công nghệ thông tin - viễn thông (internet, Hnet…), công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng, công nghệ tự
động hoá… đã làm kinh tế thế giới phát triển chưa từng có trong lịch sử xã hội
loài người. Chỉ tính riêng về của cải vật chất, trong 27 năm từ 1970 – 1997, loài
người đã làm ra khối lượng bằng 270 năm trước đó [35, tr.32]. Có thể nói rằng,
KH-CN đã tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống KT - XH, đưa đến sự
thay đổi không những trong nội tại quá trình sản xuất, kinh doanh mà ngay cả
trong tư duy quản lý, cách thức đối xử của các nền kinh tế trên thế giới.
Tiến bộ KH - CN đã thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo ra nhiều việc làm ở các ngành kinh tế

25
mới, làm thay đổi mối tương quan giữa lao động thủ công và lao động trí óc, giữa
lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, giữa LĐKT và lao động chuyên môn.
Các yếu tố KH - CN tác động đến phát triển LĐKT chủ yếu ở các điểm sau:
Thứ nhất, sự gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm cũng đồng
thời giảm hàm lượng lao động sống, lao động có trình độ CMKT thấp, hạn
chế số lượng LĐKT trong một số ngành áp dụng công nghệ cao, công nghệ hiện
đại do năng suất lao động cao, giảm chỗ làm việc trong một số ngành, nhưng lại
gia tăng công nhân trí thức (công nhân cổ trắng) ở các ngành, lĩnh vực.
Thứ hai, công nghệ mới, hiện đại sẽ làm cho chu kỳ sản xuất, kinh doanh
rút ngắn, sản phẩm thay đổi liên tục về mẫu mã, chủng loại theo yêu cầu của
thị trường, đòi hỏi thao tác của người lao động phải tuyệt đối chính xác, người
lao động điều khiển máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại phải có một
trình độ đào tạo nhất định ở các cấp đào tạo phù hợp với trình độ công nghệ,
có khả năng nắm bắt và áp dụng công nghệ mới vào công việc, có khả năng
cập nhật, xử lý thông tin, do vậy đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, hướng vào
đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có chất lượng là yêu cầu cấp thiết.

Thứ ba, Tốc độ ứng dụng cũng như phát triển KH - CN luôn đi trước tốc
độ đào tạo LĐKT, thậm chí tốc độ phát triển chóng mặt của một số công nghệ
(máy vi tính, công nghệ viễn thông, rôbốt…), nếu không có chiến lược giáo
dục nghề nghiệp đón đầu thì chưa kịp tốt nghiệp nghề đã không sử dụng, tiếp
cận được những máy móc, thiết bị quá mới, đặc biệt là nhập từ nước ngoài
các công nghệ mới chưa từng thấy, điều đó gây lãng phí xã hội rất lớn.
Thứ tư, các yếu tố KH - CN làm thay đổi thói quen làm việc của LĐKT,
làm việc trong môi trường đa văn hoá, làm việc theo nhóm, làm việc rất năng
động, văn minh hơn, người lao động không được chậm trễ, ỷ lại, trông chờ
mệnh lệnh hành chính mà phải theo mệnh lệnh của máy móc, công nghệ, quy
trình sản xuất nghiêm ngặt, điều đó yêu cầu LĐKT không chỉ giỏi nghề mà
còn phải thay đổi suy nghĩ, phong cách làm việc hiện đại, văn minh.
Thứ năm, việc phát triển và ứng dụng rộng rãi KH - CN sẽ làm thay đổi
cấu trúc LĐKT. Tốc độ biến đổi cấu trúc, cơ cấu LĐKT tỷ lệ thuận với tốc độ

×