CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
2.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN:
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tín dụng ngân hàng:
2.1.1.1 Khái niệm:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ vay mượn giữa các chủ
thể trong nền kinh tế theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn, có
mục đích và bảo đảm tiền vay. Theo nghĩa nguyên thủy, tín dụng ( credit) là sự tin
tưởng, tín nhiệm mà cho vay mượn các loại vật tư, hàng hóa, tiền tệ. Như vậy, tín
dụng không chỉ là sự vay mượn thông thường mà là sự vay mượn với một mức tín
nhiệm nhất định; tức là khi thực hiện quyền cho vay, người cho vay tin vào khả
năng trả nợ của người đi vay. Hiểu theo nghĩa rộng, tín dụng là một loại quan hệ xã
hội biểu hiện mối liên hệ kinh tế, trước hết là dựa trên cơ sở niềm tin. Đặc điểm cơ
bản của hoạt động tín dụng thể hiện ở sự vận động mang tính hoàn trả của lượng
vốn tín dụng, có nghĩa là sau một thời gian cho vay nhất định người đi vay phải
hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay. Nói cách khác, hoạt động tín dụng chỉ
thay đổi quyền sử dụng vốn mà không làm thay đổi quyền sở hữu vốn của người
cho vay. Ngày nay, hoạt động tín dụng không chỉ dựa vào cơ sở niềm tin mà còn
được pháp luật bảo vệ nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của các
quan hệ tín dụng.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, các hình thức tín dụng ngày càng đa
dạng và phong phú. Trong đó, tín dụng ngân hàng (TDNH) được xem là hình thức
tín dụng cao nhất của nền kinh tế hàng hóa và giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín
dụng. TDNH biểu hiện mối quan hệ bằng tiền và được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng và cùng có lợi giữa một bên là ngân hàng với một bên là phần
còn lại của nền kinh tế. Khái niệm về TDNH ngày càng được mở rộng dưới nhiều
góc độ khác nhau nhưng có thể định nghĩa một cách tổng quát như sau: “ TDNH là
các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa ngân hàng với các chủ thể khác
trong nền kinh tế, theo nguyên tắc tín dụng”.
Xét về bản chất, TDNH chính là các quan hệ tín dụng được thực hiện bởi
chủ thể là hệ thống các ngân hàng do vậy TDNH mang đầy đủ đặc trưng cơ bản
của hoạt động tín dụng. Các quan hệ TDNH được biểu hiện trên bề mặt là sự
chuyển nhượng lượng vốn tín dụng qua các giai đoạn như: phân phối, sử dụng và
hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng giá trị vốn tín dụng khi quay về điểm
xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng thêm, dưới hình thức lợi tức,
thông qua cơ chế điều tiết lãi suất.
Xét về hoạt động của TDNH là một hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong đó,
đối tượng của TDNH là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân hàng thực
hiện nhiệm vụ đi vay vốn của những người có vốn để cho vay những người cần
vốn, được hưởng lợi nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và được pháp
luật bảo vệ. Với các chức năng và vị trí quan trọng của công cụ tiền tệ đã góp phần
đưa TDNH trở thành hình thức tín dụng phổ biến nhất trong nền kinh tế.
2.1.1.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức
tiền tệ.
Như chúng ta đã biết, tín dụng hình thành và phát triển gắn liền với quá
trình hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa(SXHH). SXHH càng phát
triển thì nhu cầu đầu tư và mở rộng cho sản xuất càng gia tăng. Trong khi các hình
thức tín dụng khác chỉ đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong một giới hạn nào đó
(VD như: tín dụng thương mại chỉ áp dụng với đối tượng cho vay là hàng hóa bán
chịu hay tín dụng nhà nước đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, các
NHTƯ) thì TDNH lại có khả năng đáp ứng phần lớn cho nhu cầu về vốn của các
hoạt động kinh tế, xã hội cả trong ngắn hạn và dài hạn. Xuất phát từ đối tượng kinh
doanh của ngân hàng chính là tiền tệ cho nên hầu hết các hoạt động của ngân hàng
đều liên quan đến tiền và hoạt động tín dụng cũng như vậy. Tiền là một công cụ có
khả năng lưu thông rất nhanh chóng, thuận lợi trong dữ trữ, thanh toán, và dễ dàng
chuyển đổi thành các hình thức khác như là hàng hóa hay là các công cụ tương
đương tiền. Với các chức năng đặc biệt như vậy, tiền và các công cụ tương đương
tiền đã góp phần đưa TDNH tham gia vào rất nhiều lĩnh vực hoạt động của nền
kinh tế. Bằng cơ chế lãi suất thích hợp và mạng lưới chi nhánh rộng khắp, các ngân
hàng có khả năng thu hút tối đa nguồn lực tài chính và phân phối chúng để đáp ứng
cho nhu cầu vay vốn của toàn xã hội.
Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian
tài chính trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn.
Ngân hàng hoạt động chủ yếu là dựa vào nguồn vốn huy động được từ nền
kinh tế. Để hoạt động kinh doanh của ngân hàng thực hiện hiệu quả thì cần phải
thực hiện tốt cả 2 hoạt động: huy động vốn và cho vay. Khi huy động vốn ngân
hàng thực hiện vai trò là người đi vay, còn khi ngân hàng thực hiện cấp tín dụng thì
ngân hàng thực hiện vai trò là người cho vay. Ngân hàng đứng ở vị trí trung gian
trong việc phân phối lại nguồn tài chính nhàn rỗi của những người thừa vốn( không
biết đầu tư vào đâu nên nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng với một mức lãi
suất nhất định), đến những người có nhu cầu vay vốn. Và người vay vốn cũng phải
trả một mức phí sử dụng vốn để cho ngân hàng trang trải các chi phí huy động vốn
và các chi phí khác. TDNH đã trở thành một cầu nối thuận lợi trong giải quyết nhu
cầu đầu tư của người cho vay và nhu cầu về vốn của người đi vay. Nhờ có TDNH
mà nguồn vốn của nền kinh tế được phân bố lại một cách có hiệu quả; hạn chế
được sự lãng phí các nguồn lực, nạn đầu cơ và sự phát triển của hình thức tín dụng
nặng lãi.
Qúa trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn
phù hợp với quy mô phát triển sản xuất hàng hóa.
Vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa. Nhưng
trong nhiều trường hợp vốn tín dụng ngân hàng không tham gia vào quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hóa mà chỉ tham gia vào những hoạt động phi sản xuất vật
chất như: cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cầm cố các loại công trái quốc
gia, các loại trái khoán của chính phủ. Những trường hợp trên tín dụng ngân hàng
có gia tăng nhưng quy mô sản xuất hàng hóa không tăng. Trường hợp khác sản
xuất hàng hóa tăng nhưng vốn tín dụng không đáp ứng kịp, mâu thuẫn này diễn ra
thường xuyên trong nền kinh tế thị trường. Những trường hợp trên chứng tỏ vận
động tín dụng ngân hàng có sự độc lập tương đối với sự vận động của quá trình tái
sản xuất xã hội.
2.1.1.3 Phân loại tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng có nhiều loại hay nhiều hình thức khác nhau. Nền kinh
tế càng phát triển các hình thức tín dụng càng phong phú. Việc phân loại tín dụng
nhằm hiểu rõ thêm sự khác biệt của từng loại tín dụng và qua đó ta có thể sử dụng
hoặc hiểu được tín dụng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tùy theo đối tượng và mục
đích ngiên cứu ta có thể phân loại tín dụng theo các hình thức như sau:
Phân loại theo mục đích:
+Cho vay bất động sản.
+Cho vay công nghiệp.
+Cho vay nông nghiệp.
+Cho vay các định chế tài chính.
+Cho vay cá nhân.
+Cho thuê.
Phân loại theo thời hạn cho vay:
+Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá
nhân.
+Cho vay trung hạn: là là khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm
được dung vào đầu tư TSCĐ và còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là ngững doanh nghiệp mới thành lập.
+Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối
đa có thể lên đến 20 đến 30 năm. Được dùng đáp ứng cá nhu cầu dài hạn.
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, câm cố
hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách
hàng.
+Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên các cơ sở đảm bảo như thế
chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Phân loại theo phương pháp hoàn trả:
+Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng.
+Cho vay không có thời hạn cụ thể: với hình thức này ngân hàng có thể yêu
cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ vào bất kì lúc nào, nhưng phải báo trước 1
thời hạn hợp lí, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng:
+Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: là các khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh
toán.
Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
- Chiết khấu thương phiếu: người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn
trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp cho
khách hàng 1 khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng. Khi
chứng từ đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh
phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng.
- Mua các phiếu bán hàng trả góp: Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh
nghiệp thực hiện bán hàng hóa theo hình thức trả góp. Tuy nhiên nguồn vốn có hạn
nên cần có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua việc nhượng lại các phiếu bán
hàng trả góp. Định kì người mua sẽ thanh toán tiền cho ngân hàng.
- Nghiệp vụ thanh tín (nghiệp cụ factoring) là nghiệp vụ mua các khoản nợ
thương mại(các khoản phải thu), trong đó bên mua(factor) nhận việc thu nợ và
chấp nhận rủi ro tín dụng.
2.1.1.4 Ưu , nhược điểm của tín dụng ngân hàng:
+ Ưu điểm:
- Về khối lượng tín dụng: tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng những
khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng.
- Về thời hạn tín dụng: thông thường người có vốn muốn cho vay ngằn hạn
hơn là cho vay dài hạn bởi vì thời hạn ngắn thì đồng tiền ít rủi ro hơn và ít tổn thất
về khả năng thanh khoản, nhưng người đi vay thường có nhu cầu vay dài hạn. Còn
ngân hàng có thể “đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn”. Chính nhờ, khả năng
chuyển hóa thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều kiện cho nhu cầu người tích
lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp.
- Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn cũng
như cho vay rất lớn, liên quan đến rất nhiều chủ thể và các lĩnh vực khác nhau
trong nền kinh tế. Bởi vậy, nó thích hợp với nhiều đối tượng xin vay cũng như cho
vay.
+ Nhược điểm:
Hạn chế cơ bản của TDNH là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền với
chính những ưu điểm của TDNH, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn
nhiều so với số vốn tự có hoặc sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng rất
rộng.
2.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ và điều hòa vốn
giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Việc tập trung và tích lũy vốn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế
đang phát triển như nước ta. Đứng trước các yêu cầu cấp bách cho sự phát triển
kinh tế đòi hỏi 1 lượng vốn lớn tập trung cho việc phát triển các ngành và các vùng
kinh tế. Hiện nay, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được nắm giữ ở các chủ thể khác
nhau trong nền kinh tế là rất lớn. Nhưng nhiều người tích lũy không muốn đầu tư
bởi vì họ bị hạn chế về khả năng và kiến thức tài chính. Trong khi đó, hệ thống tín
dụng ngân hàng có đủ độ tin cậy do tính chuyên môn hóa cao và làm giảm bớt rủi
ro các cá nhân của những người tích lũy. Do đó, TDNH làm cho quá trình tập trung
vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả, tăng khả năng cung ứng vốn cho
nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng
đầu và việc tính toán sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với chi phí bỏ ra bao gồm
cả chi phí cơ hội. Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ lãng phí
và tốn kém chi phi cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu sinh lợi. Khi ấy,
vốn cần được đem cho vay hay phân phối lại từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi
thiếu hụt vốn. Ngược lại, khi thiếu hụt vốn cần có sự bổ sung kịp thời nhằm đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục hoặc tăng trưởng như
hoạch định. Nhờ có TDNH, việc điều hòa hay phân phối lại nguồn vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu có thể được thực hiện 1 cách nhanh chóng kịp thời, tránh hiện tượng
tồn đọng nguồn vốn gây lãng phí cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa
phát triển.
Bất kì 1 doanh nghiệp SXKD nào cũng có nhu cầu về vốn đầu tư cho quá
trình sản xuất và tái sản xuất phát triển. Chính vì vậy, hiện tượng thừa thiếu vốn
tạm thời là hiện tượng diễn ra thường xuyên tại các doanh nghiệp. Điều đó ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất; và nếu không chủ động được nguồn vốn kịp
thời sẽ gây mất khả năng thanh toán có thể dẫn tới phá sản đối với từng doanh
nghiệp. TDNH với việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp thời, đã giúp các doanh
nghiệp thỏa mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi, đảm bảo tính liên tục của quá trình
sản xuất kinh doanh, không để tồn đọng vốn trong quá trình luân chuyển. Bên cạnh
đó, vốn tín dụng tạo điều kiện những người muốn đầu tư có được khả năng vay
vốn để đầu tư vào quá trình SXKD tạo thêm sản phẩm, hàng hóa cho nền kinh tế
quốc dân.
Ngày nay. các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất cao
đòi hỏi các doanh nghiệp phải cải tiến cơ sở vật chất, mở rộng sản xuất, ứng dụng
công nghệ hiện đại và nâng cao năng lực của máy móc tiến tới giảm giá thành và
nâng cao chất lượng sản phẩm. TDNH góp phần tạo điều kiện cho doanh nghiệp có
thể thực hiện được các dự án đầu tư lớn, tạo ra những bước nhảy vọt về năng lực
do được tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh, ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Xu hướng của các nhà đầu tư hiện nay là đầu tư vào những ngành, lĩnh vực
thu lại lợi nhuận cao đặc biệt là 1 số ngành như công nghệ thông tin, hay chứng
khoán… trong khi đó nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ
giữa các ngành và các vùng, cần phải có những ngành then chốt, mũi nhọn để tạo
đà cho nền kinh tế phát triển. TDNH đã cung cấp nguồn vốn cho tất cả các thành
phần, các ngành kinh tế và bên cạnh đó còn tham gia vào các chương trình dự án
lớn phát triển kinh tế đất nước. Qua đó nâng cao cơ sở hạ tầng, hình thành các
ngành then chốt và các ngành kinh tế trọng điểm, góp phần hình thành cơ cấu kinh
tế tối ưu.
Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện các chính sách tiền tệ
thích hợp để ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn. Với các
công cụ trực tiếp như: hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá đồng thời thiết lâp và bước
đàu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị
trường mở… đã góp phần giúp nhà nước tăng cường phạm vi và hiệu quả điều tiết
kiểm soát tiền tệ. góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển
thị trường tiền tệ.
Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính
sách xã hội của nhà nước.
Với hệ thống ngân hàng rộng khắp, TDNH giúp cho mọi người dân có thể
tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ đó có điều kiện nâng cao thu nhập và chất
lượng cuộc sống. Gắn trách nhiệm của người dân đối với nguồn vốn vay, tạo sức
ép buộc chủ thể kinh doanh phải thiết lập và phát triển các dự án kinh doanh có
hiệu quả để vừa có thể trả lãi ngân hàng đồng thời kinh doanh có lãi, tái sản xuất
sức lao động, làm giàu cho mình và cho xã hội.
Nhà nước sử dụng TDNH không chỉ là 1 công cụ thực hiện các chính sách
điều tiết kinh tế mà còn hướng tới các mục tiêu xã hội nhằm giải quyết các vấn đề
cấp bách đang diễn ra hiện nay là xóa đói giảm nghèo, dân số, việc làm…Với việc
áp dụng các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay cho các đối tượng
chính sách và các hộ nghèo, TDNH đã đóng vai trò rất quan trọng trong thực hiện
xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng đội
ngũ cán bộ cho địa phương giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và
thành thị.
Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Trong nền kinh tế mở, nhu cầù vay vốn nước ngoài trở thành nhu cầu bức
thiết đối với nhiều quốc gia. Việt Nam là một đất nước đang phát triển cho nên
nguồn vốn vay từ nước ngoài là một nguồn lực rất quan trọng trong thúc đẩy phát
triển kinh tế. Tận dụng được nguồn vốn vay từ nước ngoài nước ta có điều kiện
nâng cao năng lực sản xuất, tiếp cận trình độ công nghệ hiện đại và kinh nghiệm
quản lí của các nước trên thế giới. Đồng thời mở rộng các quan hệ hợp tác và
khẳng định được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bởi vì, khi thực hiện cho
vay đặc biệt là cho vay xuyên quốc gia thì cần phải căn cứ vào khả năng trả nợ của
mỗi đất nước do vậy một đất nước có tài chính kém phát triển thì rất khó trong
thực hiện vay vốn nước ngoài.
Xu thế hiện nay là mở rộng quan hệ hợp tác xuyên quốc gia về mọi mặt
trong đó chú trọng về hợp tác về kinh tế và tài chính. Bởi vậy, sự giao lưu hợp tác
quốc tế giữa các ngân hàng là hoạt động không thể thiếu của mỗi quốc gia. Thông
qua hoạt động của các ngân hàng, TDNH thúc đẩy quan hệ hợp tác giao lưu, trao
đổi hàng hóa giữa các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ ngoại thương và thu hút
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.3 Lãi suất tín dụng:
2.1.3.1 Khái niệm và ý nghĩa của lãi suất tín dụng:
Lãi suất tín dụng (LSTD) là một chỉ tiêu gắn liền với hoạt động của ngân
hàng, của thị trường tài chính và toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, LSTD được hình
thành dựa trên nền tảng cơ bản là lợi tức tín dụng và các cơ sở của nền kinh tế hàng
hóa. Về thực chất, LSTD là sự cụ thể hóa lợi tức tín dụng (LTTD) dưới hình thức
giá trị tương đối; được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa LTTD thu được với tổng
số vốn cho vay của ngân hàng trong một khoảng thời gian xác định. Trong đó,
LTTD là chi phí cơ hội mà người cho vay có được do chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn cho người đi vay. Nhìn nhận theo góc độ của ngân hàng thì LTTD là
phần chênh lệch giữa thu nhập đạt được và chi phí mà ngân hàng bỏ ra trong hoạt
động tÝn dông. Do vậy, LSTD hay LTTD đều là một hình thái biểu hiện giá trị sản
phẩm thặng dư của tín dụng. Hơn thế nữa, LSTD còn là công cụ tác động trực tiếp
đến lợi tức tín dụng mà ngân hàng thu được trong tương lai và quyết định của các
nhà đầu tư trong nền kinh tế, vì vậy một sự thay đổi của LSTD có thể gây biến
động lớn tới toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Qua đó, LSTD không những là
thước đo hiệu quả hoạt động của các ngân hàng mà còn là một công cụ đo lường
sức khỏe của nền kinh tế. Bên cạnh đó, LSTD cũng đóng một vai trò rất quan trọng
trong thực hiện các điều chỉnh của NHTƯ đối với nền kinh tế vĩ mô và vi mô khi
cần thiết góp phần ổn định tiền tệ, bình ổn giá và thực hiện các mục tiêu tăng
trưởng kinh tế đất nước.
Công thức tính của LSTD được xác định như sau:
Lãi suất tín dụng =
Tổng lợi tức tín dụng thu được trong kỳ
Tổng doanh số cho vay trong kỳ
Mặc dù, LSTDNH giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhưng nó
là một biến số rất nhạy cảm và chịu nhiều tác động từ các yếu tố khác nhau bao
gồm cả yếu tố kinh tế và phi kinh tế. Xét về mặt lý thuyết, LSTDNH cũng là một
loại giá của tiền tệ vì nó là cái giá phải trả để có được quyền sử dụng vốn vay. Đã
là giá cả của hàng hóa thì luôn luôn phải chịu sự tác động của các quy luật cung
cầu trên thị trường. Khi nhu cầu vốn thị trường tăng lên mà khả năng cung cấp vốn
không thể đáp ứng được thì lãi suất cho vay có xu hướng tăng lên và ngược lại.
Đây là vấn đề mang tính quy luật trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
LSTDNH là một loại hàng hóa đặc biệt. Đặc điểm làm nên sự khác biệt của
LSTDNH so với các loại giá cả thông thường khác ở chỗ, giá cả của các hàng hóa
thông thường được hình thành trên cơ sở giá thành là chủ yếu; các yếu tố về quan
hệ cung cầu trên thị trường có ảnh hưởng nhất định đến sự tăng giảm giá của giá cả
trên thị trường nhưng không phải là quyết định; thường có tính chất tạm thời và
phạm vi ảnh hưởng, tác động của nó là không lớn. Trong khi đó, LSTDNH thường
được xác định bằng “giá mua vào” tức là “giá vốn” trên thị trường và chi phí sử
dụng vốn. Giá vốn và chi phí sử dụng vốn thì luôn luôn chịu sự chi phối của các
quy luật cung cầu về vốn, mà các quan hệ cung cầu trên thị trường vốn thì thường
xuyên có sự biến động và gắn liền với đặc điểm kinh tế - xã hội nơi các ngân hàng
hoạt động. Vì vậy, các quy luật cung cầu trên thị trường vốn là yếu tố tác động
mang tính chất quyết định đối với sự biến động của LSTDNH. Ngoài ra, LSTD còn
chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác như: tỷ lệ lạm phát hàng năm, kỳ hạn ngân
hàng hay các chính sách tài khóa và tiền tệ của Nhà nước.
2.1.3.2. Các loại lãi suất tín dụng:
Nếu căn cứ vào tính chất chỉ đạo của Nhà Nước, lãi suất tín dụng được chia
thành:
+ Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng nhà nươc trung ương công bố
dưới các dạng như lãi suất chiết khấu, lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản…
làm cơ sở để ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho
vay.
- Lãi suất sàn, lãi suất trần là mức lãi suất thấp nhất hoặc cao nhất trong 1
khung lãi suất nào đó, mà ngân hàng trung ương quy định để can thiệp vào hoạt
động tín dụng nhằm bảo vệ quyền lợi của người cho vay hoặc người đi vay.
- Lãi suất cơ bản bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất liên
ngân hàng.
● Lãi suất tiền gửi là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi
trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
● Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi theo tính chất
của khoản vay và thời gian vay vốn.
● Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho
nhau vay nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
+ Lãi suất kinh doanh: là lãi suất do từng hệ thống nâng hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng xác định trên cơ sở lãi suất chỉ đạo của ngân hàng nhà nước.
Nêu căn cứ vào thời gian vay mượn:
+ Lãi suất ngắn hạn.
+ Lãi suất trung hạn.
+ Lãi suất dài hạn.
Nếu căn cứ vào giá trị của tiền tệ:
+ Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được xác định cho 1 kì hạn gửi hoặc vay
chưa tính đến sự giảm giá trị của tiền khi có lạm phát.
+ Lãi suất thực là lãi suất được xác định giá trị thực của khoản lãi có tính
đến sự giảm giá trị của tiền.
Nếu phân loại theo tiền vay:
+ Lãi suất nội tệ là lãi suất để huy động vốn hoặc cho vay bằng đồng nội tệ
trên thị trường vốn trong nước.
+ Lãi suất ngoại tệ là lãi suất dung để huy động vốn hoặc cho vay bằng dồng
ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
2.1.4 Chất lượng tín dụng:
2.1.4.1 Khái niệm:
Trong bất kì một hoạt động kinh doanh nào chất lượng hoạt động, chất
lượng sản phẩm luôn là yếu tố quyết định tới sự thành công của mỗi doanh nghiệp,
đối với ngân hàng cũng như vậy.
Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín
dụng là sản phẩm đặc biệt và chiếm vị trí chủ yếu trong mọi hoạt động của ngân
hàng. Chính vì vậy chất lượng hoạt động ngân hàng được thể hiện rõ nét nhất qua
chất lượng của hoạt động tín dụng.
Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng bao hàm nhiều nội
dung về khả năng tài chính ngân hàng, mức độ thích nghi với sự thay đổi môi
trường, khả năng thu hút khách hàng, tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ quá hạn, trình độ
quản lí, trình độ cán bộ CNV …Chất lượng tín dụng thể hiện ở khả năng đáp ứng