Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

ThS. Phạm Quốc Việt: Một số suy nghĩ về lãi suất cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.71 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ LÃI SUẤT CƠ BẢN</b>



ThS. PHẠM QUỐC VIỆT


<b>1. Lãi suất cơ bản trên thế giới</b>


Lãi suất cơ bản ở Canada và Mỹ (Prime rate hoặc Prime lending rate) là lãi


suất mà các ngân hàng thương mại lớn sử dụng để cho vay các khách hàng ưu
đãi, có độ tín nhiệm cao. Lãi suất này được các tổ chức tín dụng tham khảo
trong việc tính tốn lãi suất cho vay các tổ chức và cá


nhân trong nền kinh tế.


Ở Mỹ, lãi suất cơ bản thường cao hơn 3 điểm phần trăm so với lãi suất
cho vay bù đắp dự trữ bắt buộc (federal funds rate1<sub>). Tạp chí Wall Street</sub>
Journal cơng bố theo định kỳ lãi suất cơ bản ở các nuớc (riêng ở Mỹ, lãi suất
này tính trên lãi suất cơ bản do 30 ngân hàng lớn nhất của Mỹ công bố).


Bảng 1: Các lãi suất cơ bản trên thế giới


Đơn vị tính: phần trăm
52 tuần qua


Mới nhất Tuần trước Cao Thấp


Mỹ 3.25 3.25 3.25 3.25


Canada 2.25 2.25 2.50 2.25


Khu vực châu Âu 1.00 1.00 1.25 1.00



Nhật Bản 1.475 1.475 1.475 1.475


Thụy Sĩ 0.53 0.53 0.55 0.51


Anh 0.50 0.50 0.50 0.50


Úc 4.25 4.00 4.25 3.00


Hồng Kông 5.25 5.25 5.25 5.00


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ở Malaysia, các ngân hàng sử
dụng thuật ngữ Base Lending Rate
(BLR) để chỉ lãi suất cơ bản. Lãi
suất này được tính bằng chi phí huy
động vốn cộng với các chi phí quản
lý, và là như nhau đối với các ngân
hàng lớn. Lãi suất cơ bản thường
xuyên được các ngân hàng điều
chỉnh, nhưng không là đối tượng
điều chỉnh của pháp luật. Lãi suất cơ
bản hiện nay ở Malaysia là 5,8% (có
hiệu lực từ ngày 09/3/2010)2<sub>.</sub>


Trong hoạt động tín dụng
ngân hàng trên thế giới, lãi suất cơ
bản thường được sử dụng làm cơ sở
để tính tốn lãi suất thả nổi cho các
khoản vay ngắn hạn (như cho vay
qua thẻ tín dụng, cho vay thế chấp,


cho vay cá nhân…), theo đó lãi suất
cho vay bằng lãi suất cơ bản cộng
thêm một tỷ lệ lãi suất cố định,
tương ứng với rủi ro tín dụng.


Như vậy, có thể rút ra một số
nhận xét quan trọng về lãi suất cơ
bản trên thế giới:


- Lãi suất cơ bản là cơ sở để
tính lãi suất cho vay, có thể là giá
vốn của khoản vay (trường hợp
Malaysia), hoặc lãi suất cho vay
khách hàng có rủi ro thấp nhất
(trường hợp Mỹ).


- Lãi suất cơ bản do từng ngân
hàng quy định, không là đối tượng
điều chỉnh trực tiếp3<sub> của pháp luật.</sub>


<b>2. Lãi suất cơ bản ở Việt</b>
<b>Nam</b>


Lãi suất cơ bản ở Việt Nam
xuất hiện lần đầu tiên trong Luật


Ngân hàng nhà nước (1997), theo
đó, “Lãi suất cơ bản là lãi suất do
Ngân hàng Nhà nước cơng bố làm
cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn


định lãi suất kinh doanh”4<sub>. Tuy</sub>
nhiên, mãi đến năm 2000, Ngân
hàng nhà nước mới có quy định cụ
thể về việc áp dụng lãi suất cơ bản,
cụ thể là:


- Ngân hàng nhà nước
(NHNN) công bố lãi suất cơ bản trên
cơ sở tham khảo mức lãi suất cho
vay thương mại đối với khách hàng
tốt nhất của nhóm các tổ chức tín
dụng được lựa chọn theo quyết định
của Thống đốc NHNN trong từng
thời kỳ5<sub>.</sub>


- Các ngân hàng thương mại
(NHTM) chuyển từ việc áp dụng trần
lãi suất cho vay sang cho vay theo lãi
suất cơ bản cộng biên độ (cho vay
ngắn hạn là 0,3%/tháng, cho vay
trung dài hạn là 0,5%/tháng)6<sub>.</sub>


Danh sách các tổ chức tín
dụng được lựa chọn để cung cấp
thông tin tham khảo cho NHNN về
lãi suất cho vay ban đầu gồm 15
ngân hàng, trong đó có 4 NHTM nhà
nước, 5 NHTM cổ phần đô thị, 2
NHTM cổ phần nông thôn, 2 ngân
hàng liên doanh và 2 chi nhánh ngân


hàng nước ngoài tại Việt Nam7<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

bản vẫn tiếp tục được duy trì, nhưng
chỉ để tham khảo và định hướng đối
với lãi suất thị trường8<sub>. Đến năm</sub>
2008, khi các dấu hiệu của khủng
hoảng tài chính thế giới đã rõ rệt, và
hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nước lâm vào tình trạng
khó khăn, NHNN trở lại với cơ chế
điều hành lãi suất cho vay theo lãi
suất cơ bản, theo đó lãi suất kinh
doanh của NHTM (lần này bên cạnh
lãi suất cho vay, có bổ sung thêm lãi
suất huy động) không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do NHNN
cơng bố9<sub>. Danh sách các tổ chức tín</sub>
dụng được lựa chọn để cung cấp
thông tin cho NHNN lên đến 25
ngân hàng, trong đó có 20 NHTM cổ
phần, 2 ngân hàng liên doanh và 3
ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam10<sub>. Cơ chế cho vay này</sub>
được thực hiện đến đầu năm 2010,
nhưng khơng có tác động tích cực
đối với thị trường tín dụng, nên đã
được điều chỉnh theo hướng áp dụng
lãi suất thỏa thuận đối với cho vay
tiêu dùng từ tháng 1/200911<sub>, và đối</sub>
với cho vay kinh doanh trung dài


hạn, từ tháng 2/201012<sub>. Và đến đầu</sub>
tháng 4/2010, NHNN lại quay trở về
với cơ chế điều hành lãi suất thỏa
thuận13<sub>.</sub>


Một điều cần lưu ý, theo Bộ
Luật dân sự 2005, điều 476 có quy
định về lãi suất trong hợp đồng vay
tài sản trong xã hội như sau: “1. Lãi
suất vay do các bên thoả thuận
nhưng không được vượt quá 150%


của lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố đối với loại cho
vay tương ứng. 2. Trong trường hợp
các bên có thoả thuận về việc trả lãi,
nhưng không xác định rõ lãi suất
hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp
dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố tương ứng với
thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.
Trong Bộ luật dân sự 2005, khơng có
điều khoản nào loại trừ hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng ra
khỏi phạm vi điều chỉnh của Bộ luật
này14<sub>.</sub>


Qua xem xét cơ chế điều hành
lãi suất cho vay của NHNN từ khi có
Luật NHNN cho đến nay, nổi lên


một số vấn đề sau:


(1) Vì sao cơ chế điều hành lãi
suất theo hướng lãi suất cơ bản cộng
biên độ không đi vào thực tiễn tín
dụng ngân hàng ở Việt Nam, trong
khi lại tương đối phổ biến ở các
nước khác?


(2) Việc các NHTM áp dụng
lãi suất thỏa thuận với khách hàng,
mà trong nhiều trường hợp vượt quá
mức quy định của Bộ luật dân sự
phải chăng là hợp pháp?


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>của ngân hàng sẽ có lãi suất cao hơn</i>
lãi suất cơ bản.


Bên cạnh đó, nếu xét từ góc
độ chi phí, lãi suất cơ bản được tính
từ giá vốn, cộng thêm phần bù rủi ro
tín dụng của khách hàng tốt nhất và
lợi nhuận dự kiến của ngân hàng, tức
là lãi suất cơ bản > giá vốn. Mặt
khác, do tất cả các khoản tiền gửi mà
NHTM nhận được từ khách hàng
đều phải chịu dự trữ bắt buộc (hiện
từ 1-3%, gửi tại NHNN) và dự trữ
tùy ý (để đảm bảo thanh tốn cho
chính bản thân NHTM), nên giá vốn


= lãi suất huy động/(1 – tỷ lệ dự trữ),
suy ra lãi suất huy động < giá vốn.
Kết hợp lại, ta có bất đẳng thức:


Lãi suất huy động < lãi suất cơ
bản < lãi suất cho vay.


Trong những năm qua, và cho
đến thời điểm này (lãi suất cho vay
thỏa thuận từ 14 – 17%/năm, lãi suất
tiết kiệm trên 11%/năm, còn lãi suất
cơ bản là 8%/năm), lãi suất cơ bản
do NHNN công bố thấp hơn lãi suất
huy động và lãi suất cho vay của các
NHTM, vì vậy, có thể suy đốn là lãi
suất cơ bản được cơng bố khơng theo
biến động lãi suất trên thị trường tín
dụng. NHTM là tổ chức kinh doanh,
vì vậy, họ phải quan tâm đến chênh
lệch lãi suất được tạo ra từ hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Khi lãi suất cơ
bản cộng biên độ vẫn chưa đảm bảo
được chênh lệch lãi suất cần thiết so
với lãi suất huy động, các NHTM có
động cơ tìm kiếm thêm phần chênh
lệch lãi suất bổ sung như cho vay


vượt trần, thu các loại phí (phí thẩm
định, phí quản lý tài sản, phí thu xếp
tín dụng…), hoặc khách hàng phải


ký quỹ một phần tiền vay… và do đó
làm méo mó lãi suất thị trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

hạn trường hợp các cơng ty tài chính
cho vay trả góp, hoặc các cửa hiệu
cầm đồ). Điều này cho thấy, nếu
muốn hạn chế cho vay nặng lãi
trong xã hội thì không thể duy trì
mức lãi suất trần nói trên.


<b>3. Một số kiến nghị</b>


Quan điểm của tác giả là vẫn
phải có quy định về lãi suất trần
trong Bộ Luật dân sự để tránh tệ cho
vay nặng lãi trong xã hội, đồng thời
các NHTM vẫn phải tuân thủ quy
định này trong hoạt động tín dụng
của mình. Từ đó xin có hai kiến nghị
dưới đây:


<i>Một là, lãi suất cơ bản cần</i>
<i>được tính tốn theo sát mặt bằng lãi</i>
<i>suất thị trường. Nếu Luật NHNN đã</i>


giao cho NHNN nhiệm vụ tính tốn


mức lãi suất cơ bản thì NHNN nên
công khai nguồn số liệu tính tốn.
Tuy nhiên, tốt hơn cả là giao nhiệm


vụ này cho Hiệp hội ngân hàng, vì
đây khơng phải là cơng cụ của chính
sách tiền tệ, mà chỉ là kết quả quan
hệ cung – cầu trên thị trường tín
dụng mà thôi.


<i>Hai là, Quốc hội cần xem xét</i>
<i>lại mức trần 150% của Bộ Luật dân</i>
<i>sự. Cần phải có nghiên cứu khảo sát</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

1 <i><sub> Fed fund rate là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt</sub></i>


<i>buộc trên cơ sở thương lượng, thời hạn vay chủ yếu là qua đêm</i>


2 <i><sub> Theo </sub><sub>www.blr.my</sub></i>


3 <i><sub> Ngân hàng trung ương có thể tác động đến lãi suất cơ bản thơng qua các cơng cụ của</sub></i>


<i>chính sách tiền tệ như thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…, nhưng tác</i>
<i>động này là không trực tiếp.</i>


4 <i><sub> Điều 9, Luật Ngân hàng nhà nước 1997.</sub></i>


5 <i><sub> Điều 2, Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000</sub></i>


6 <i><sub> Điều 2, Quyết định số 242/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000</sub></i>


7 <i><sub> Điều 1, Quyết định 153/2001/QĐ-NHNN ngày 27/2/2001</sub></i>


8 <i><sub> Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002</sub></i>



9 <i><sub> Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008</sub></i>


10 <i><sub> Điều 1, Quyết định 17/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008</sub></i>


11 <i><sub> Thông tư 01/2009/TT-NHNN ngày 23/1/2009</sub></i>


12 <i><sub> Thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010</sub></i>


13 <i><sub> Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 </sub></i>


</div>

<!--links-->

×