Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Miệt mài đào tạo nhân tài cho cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.44 MB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

12 Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội Số 284 - 2014 13


Miệt Mài đào tạo



nhân tài cho cách Mạng



L

ớp lớp các học trò trực hệ của GS
Cao Xuân Huy thống nhất tơn vinh
người thầy của mình là vị sư biểu.
Chữ này lấy từ truyền thống phương
đông: “Vi nhân sư biểu” là người thầy
mẫu mực.


Theo Từ điển Văn học (Bộ mới), GS.
Cao Xuân Huy sinh năm 1900, tại làng
Thịnh Mĩ, tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu,
nay thuộc xã Diễn Thịnh, huyện Diễn


Châu, tỉnh Nghệ An, trong một gia tộc
đại trí thức của triều Nguyễn. Ông nội
Giáo sư là Cử nhân Cao Xuân Dục (1843
- 1923) là một nhà giáo dục, nhà văn hóa,
nhà sử học, nhà văn nổi tiếng cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, từ một vị huyện quan,
bằng tài năng và đức độ đã thăng dần
các chức Tổng đốc, Thượng thư bộ học,
Cơ mật viện đại thần, Phụ chính đại thần,
Tổng tài quốc sử quán. Ngài Cao Xuân
Dục là tác giả và chủ trì nhiều cơng trình
lịch sử, địa lí, pháp luật, giáo dục, văn hóa
quan trọng và sáng tác nhiều tác phẩm


thơ văn xuất sắc để lại cho hậu thế. Cha
Giáo sư là Phó bảng Cao Xuân Tiếu (1865
- 1939) cũng làm đến chức Thượng thư
và Tổng tài quốc sử quán triều Nguyễn.
Cô ruột Giáo sư là nữ sĩ Cao Ngọc Anh
(1878-1970), một nhà văn thời cận hiện
đại Việt Nam, ủng hộ phong trào Đông
du và Đông kinh nghĩa thục, chống Pháp,
mở trường dạy văn võ cho phụ nữ tại Hà
Nội và bị thực dân pháp đóng cửa, thơ
văn của ơng chất chứa nỗi u sầu của một
người dân mất nước.


Thuở nhỏ, GS. Cao Xuân Huy trui rèn
chữ Hán cổ và Nho học ngay trong thư
viện Long Cương của ông nội ở làng
quê cùng với việc tu luyện Pháp văn.


Mười lăm tuổi đi thi Hương tại trường
thi Nghệ An nhưng không đậu, bèn vào
học Trường trung học Pháp-Việt và đậu
Thành chung vào năm 1922 rồi thi vào
học Trường Cao đẳng Sư phạm Đông
Dương danh giá, đến năm 1925 thì tốt
nghiệp trường này, đi dạy trường Quốc
học Huế.


Năm 1926, ở tuổi 26, Giáo sư tham
gia Đảng cách mạng Tân Việt. Năm
1927, Giáo sư bị thực dân Pháp bắt, bị


giải chức khỏi ngạch giáo dục và phải đi
đày ở Lao Bảo, sau đó giải về nhà lao
Nghệ An và 1929 được tha tù. Giáo sư
lập gia đình và chuyên chú trước thuật,
nghiên cứu nhưng công việc không
suôn sẻ. Trong 6 năm trời đó cũng là
thời gian Giáo sư nghiền ngẫm tinh hoa
tư tưởng, triết học Trung Hoa và Đông
phương. Năm 1934, Giáo sư vào Biên
Hòa rồi Sài Gòn dạy học tại Trường Paul
Doumer và Trường Chấn Thanh. Năm
1938, Giáo sư về lại Huế dạy học và dốc
hết tâm trí nghiên cứu Lão Tử và sớm
nổi danh là “Nhà Đạo học”. Ơng cộng
tác viết luận cho tạp chí giáo dục Revue
Pesdagogique ở Huế.


Cách mạng tháng Tám thành công


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

12 Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội Số 284 - 2014 13


năm 1945, Giáo sư được mời ra giảng
dạy môn triết học phương Đông tại
Trường Đại học Việt Nam do chế độ mới
thành lập. Chiến tranh Pháp Việt ngày
càng leo thang, Giáo sư về Diễn Châu
các năm 1946 - 1949 làm Hiệu trưởng
Trường Trung học Tư thục Nguyễn Xuân
Ôn, đào tạo nhân tài cho vùng tự do.
Năm 1949, Giáo sư là giáo viên Trường


trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc
Kháng kiêm Giáo sư triết học của lớp Đại
học Văn khoa đầu tiên mở ở Liên khu
IV. Năm 1951 - 1954, Giáo sư giảng dạy
triết học tại Trường dự bị Đại học Việt
Nam mở ở Thanh Hóa. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, Giáo sư được phân công
giảng dạy môn Triết học phương Đơng,
Lơ gich học, và Tâm lí học ở hai lớp Đại
học Văn khoa và Đại học sư phạm Văn
khoa. Năm 1956, Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội được thành lập, Giáo sư làm
việc tại Khoa Ngữ văn của trường. Năm
1957, Ggiáo sư được điều động sang
giảng dạy tâm lí học tại khoa Ngữ văn
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Năm
1959, Viện Nghiên cứu Văn học được
thành lập, Giáo sư là một trong những
thành viên đầu tiên. Năm 1965, GS. Cao
Xuân Huy được bổ nhiệm Giáo sư chính
lớp Đại học Hán học đầu tiên của chế độ
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1970
- 1974, Giáo sư được điều sang làm Ủy
viên Ban Hán Nôm, trực thuộc Ủy ban
Khoa học xã hội Việt Nam. Giáo sư được
Trường Đại học Tổng hợp và Trường Đại
hoc Sư pham luôn mời làm Giáo sư thỉnh
giảng, đào tạo liên tục các thế hệ sinh
viên. Giáo sư chính thức nghỉ hưu năm
1974 nhưng vẫn tham gia đào tạo các

lớp Hán Nôm cho khoa Ngữ văn trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội. Giáo sư mất


năm 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
GS. Cao Xuân Huy để lại trước thuật
không nhiều nhưng đặc biệt tinh túy.
Suốt đời Giáo sư là một nhà giáo dục
miệt mài đào tạo nhân tài cho cách
mạng, cho tổ quốc, cho chế độ. Sau
này, vào năm 1995, các thế hệ học trò
của Giáo sư đã tập hợp tư liệu, bài giảng
in thành công trình Tư tưởng phương
Đơng, gợi những điểm nhìn tham chiếu.
Ngồi ra ơng cịn có các cơng trình
nghiên cứu, hiệu đính, biên chú về Lê
Q Đơn, Nguyễn Trường Tộ.


Sự tích tụ của hiện tượng Cao Xuân
Huy có thể thấy qua các phương diện:


Thừa hưởng trí thơng minh thiên
bẩm từ dòng dõi gia tộc, được rèn cặp
nghiêm khắc theo phong cách cổ học
phương Đông, sống đằm mình trong
khơng khí học thuật, trong thư viện gia
đình với phong phú tối đa về từ thư, sách
vở. Phong cách khảo cứu và khái qt
hóa tư liệu từ một gia đình 2 đời là Tổng
tài quốc sử quán đã tạo điều kiện cho tri
thức, trí tuệ của Giáo sư sớm phát triển,


sớm định hình. Học phong và quá trình
tu luyện bản thân là nền tảng cho tư duy
xuất sắc của Giáo sư. Học phải có dịng
là vậy.


Cái thứ hai làm nên GS. Cao Xuân
Huy phải là sự tiếp xúc sớm với tư tưởng
và triết học phương Tây. Chính điều này
làm Giáo sư có cơ sở tham chiếu để vững
tâm đi vào con đường nghiên cứu hình
nhi thượng triết học.


Điều thứ ba, đó là sự lựa chọn triết học
phương Đông phong phú và phức tạp,
khó minh giải, đặc biệt với Phật giáo và


Đạo giáo, hai hệ thống triết học cao cấp
và chính danh nhất tạo ra thế giới quan
Đơng phương, làm mục tiêu tiếp cận
của mình để tham chiếu với Tây phương.
Sự lựa chọn này là sớm và độc đáo, đầy
khó khăn vì khơng phải ai cũng có điều
kiện quan tâm sâu sắc.


Cái thứ tư làm nên nhân cách Giáo sư
là tấm lịng u nước thiết tha, khơng
chịu cam tâm làm vong quốc nô. Giáo
sư sớm tham gia Đảng cách mạng Tân
Việt hoạt động chống Pháp, và sau này
đứng hẳn về lục lượng kháng chiến kiến


quốc, xây dựng chế độ dân chủ cộng
hòa, đấu tranh bảo vệ tổ quốc.


Cái thứ năm làm nên nhân cách của
Giáo sư là tư tưởng cách mạng. Sinh
ra và lớn lên trong gia tộc đại trí thức
phong kiến nhưng cũng như nhiều trí
thức đầu thế kỉ XX, sớm tiếp thu ánh
sáng Tự do- Bình đẳng- Bác ái của cách
mạng tư sản Pháp và sau này tiếp thu
Biện chứng pháp của Các Mác, tư tưởng
GS. Cao Xuân Huy là tư tưởng mang
tính cách mạng trong học thuật, trong
thực tiễn truyền dạy triết học, văn hóa.


Cái thứ sáu đó là đạo đức và nhân
cách của con người giáo dục, dạy người
không biết mỏi trong mọi điều kiện khó
khăn nhất của chiến tranh và đời sống
kinh tế, ung dung tự tại của người nắm
trong tay tri thức tối thượng để tư duy và
nhìn nhận thời cuộc.


Kỷ NIệM 32 NăM NGày NHà GIáo VIệT NAM (20/11/1982 - 20/11/2014)


GI



áo



D






C



</div>

<!--links-->

×