Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Các cuộc phát kiến địa lí thế kỉ XV XVII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.79 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để
tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hố xã hội lồi người. Các yếu tố của văn minh
có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể
từ khi lồi người hình thành cho đến thời điểm xét đến.
(Theo “Văn minh”-Wikipedia)
Như vậy, Lịch sử văn minh thế giới là lịch sử phát triển của loài người qua
nhiều thế kỷ, từ khi con người xuất hiện đầu tiên trên Trái Đất cho đến nay. Bắt
đầu từ những hoạt động sơ khai như săn bắt, hái lượm bằng các công cụ thơ sơ, thì
con người, nhờ vào trí tuệ và sức sáng tạo của mình, đã tìm tịi và tạo ra nhiều thứ
cần thiết cho cuộc sống của họ. Vì vậy, cũng có thể nói rằng, lịch sử những nền văn
minh thế giới chính là lịch sử của trí tuệ và sức sáng tạo của loài người vậy.
Chúng ta đã biết đến về lịch sử văn minh thế giới qua tài liệu lịch sử. Trong
mỗi thời đại, xã hội loài người nổi lên một số vùng, mà ở đó xã hội cư dân ở điểm
tập hợp được các giá trị tiên tiến vượt trội trong nhiều lĩnh vực - hình thành nền
văn minh. Riêng thời Cổ Đại có tám nền văn minh lớn được thống kê gồm: nền
văn minh Ai Cập cổ đại, nền văn minh Hy Lạp, nền văn minh La Mã, nền văn
minh Tây Á, nền văn minh Ấn Độ, nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh Maya
và nền văn minh Andes.
Tuy nhiên, nói đến thành tựu khoa học trong lịch sử văn minh thế giới thời kỳ
Phục Hưng, chúng ta cũng phải nhắc đến sự đóng góp quan trọng của những cuộc
phát kiến địa lí châu Âu. Qua những cuộc phát kiến địa lí, con người đã bắt đầu mở
rộng vã vẽ thêm vào bản đồ thế giới những vùng đất mới, những miền đất hứa. Và
cũng từ đó, con người đã bắt đầu chinh phục thế giới tới những miền đất xa xôi, và
kết quả xuất hiện giai cấp tư sản và vô sản. Như vậy, những cuộc phát kiến này là
một trong những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.Vậy, những tiền đề của
các phát kiến lớn về địa lí, quá trình phát kiến địa lí, và hậu quả của nó ra sao?
Thông qua bài tiểu luận “Các cuộc phát kiến địa lí thế kỉ XV-XVII”, tơi sẽ
giới thiệu và làm rõ hơn về vấn đề này.
1



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Hậu kỳ trung đại là giai đoạn
Chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng suy vong và quan hệ tư
bản nảy sinh. Giai đoạn này được mở đầu bằng các cuộc phát kiến lớn về địa lí.
Bởi vì phát kiến địa lí mở đường cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và mở đầu cho
sự ra đời của chủ nghĩa thực dân cận đại.
Ðây cũng là thời kỳ chính quyền quân chủ chuyên chế được xây dựng ở một
số nước (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,…)
Lúc này là giai đoạn quá độ, khi mà các đẳng cấp phong kiến cũ đã suy thoái
và giai cấp tư sản đã hình thành từ tầng lớp thị dân trung đại, và khi mà giữa hai
bên đối địch nhau chưa bên nào thắng bên nào, lúc ấy quý tộc phong kiến bắt tay
với tư bản để tiêu trừ phong kiến cát cứ và phong trào nông dân đang lên mạnh.
Ðây cũng là thời kỳ bắt đầu những cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa
sâu sắc (đấu tranh giữa hai ý thức hệ tôn giáo phản động và ý thức hệ tư sản tiến
bộ), biểu hiện qua các phong trào cải cách tơn giáo, văn hóa phục hưng.
Trong giai đoạn này, do tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội và tư
tưởng mới, phong trào của nông dân và thị dân nổ ra rất mạnh mẽ, biến thành cuộc
chiến tranh nơng dân thực sự, mang tính chất hoàn toàn mới là thủ tiêu chế độ
phong kiến và vương quyền.
Tất cả những điều đó đã làm cho giai đọan các thế kỷ XVI - XVII, trở thành
một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử, khác về chất với giai đoạn phong kiến phát
triển trước đó (thế kỷ XI-XV), cũng như với các thế kỷ tiếp theo của chủ nghĩa tư
bản công nghiệp (thế kỷ XVIII - XIX). Qui luật những quan hệ sản xuất tất yếu
phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất đã biểu hiện rất rõ ràng và đẩy
nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến.
2. Phát kiến
Phát kiến là tìm ra những gì cịn xa lạ chưa biết tới để phục vụ cho nhu cầu
khám phá khoa học, lợi ích kinh tê, tìm hiểu văn hóa, tơn giáo, hoạt động chính trị.

3. Phát kiến địa lý
Phát kiến địa lý là tìm ra những vùng đất mới, chưa từng có con người đặt
chân đến hay xa lạ chưa được biết tới, để phục vụ cho nhu cầu khám phá thế giới,
mở rộng thị trường, giao lưu quốc tế, trao đổi văn hóa giữa những nền văn minh

2


phương Đơng và phương Tây. Và từ đó, người ta cũng bổ sung, hoàn chỉnh vào
bản đồ địa lý thế giới.

3


CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU THỰC ĐỊA
I. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA NHỮNG CUỘC PHÁT KIẾN ĐỊA
LÍ Ở CHÂU ÂU THỜI TRUNG ĐẠI
Hồn cảnh xã hội: Văn hố Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế
tự cung tự cấp, sự giao lưu trao đổi rất hạn chế, văn hố vì vậy cũng phát triển
khơng đáng kể.
Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư
tưởng của giai cấp tư sản khơng cịn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi
thời, họ vận động khôi phục lại sự huy hồng của văn hố Tây Âu thời cổ đại. Họ
tìm thấy trong nền văn hoá cổ đại những yếu tố phù hợp với mình, có lợi cho mình
để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hố trung cổ.
Bước vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, xã hội
Tây Âu nảy sinh nhiều mâu thuẫn về kinh tế, xã hội. Một mặt, do sự phát triển của
sản xuất nên nhu cầu về nguyên liệu, vàng bạc ngày một tăng. Các nước Tây Âu
đòi hỏi phải mở rộng thị trường để trao đổi mua bán với các vùng trên thế giới.

Thời gian này thị trường của giai cấp tư sản Tây Âu chỉ trong phạm vi Châu Âu và
thông qua vùng phụ cận với phương Đông. Việc buôn bán với phương Đông mà
người Châu Âu mới tiến hành còn rất hạn chế.
Các tầng lớp vua chúa, quý tộc tầng lớp giàu có lúc bấy giờ cũng mong có
nhiều tiền, vàng để ăn chơi hoang phí, và nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp
có nguồn gốc từ phương Đơng như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm (dâu tằm tơ),
ngà voi... tăng vọt hẳn lên. Phương Đơng trong trí tưởng tượng của họ được tô vẽ
thành một thế giới thần tiên giàu có trong các cuốn truyện Ngàn lẻ một đêm- cuốn
sách những chuyện kì lạ. Vì vậy việc tìm đường sang phương Đông, khám phá
những vùng đất mới và cướp đoạt vàng và gia vị được hình thành.
Mặt khác, con đường thương mại giữa châu Âu và châu Á đang bị bế tắc do
sự chiếm giữ của người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kì và người Hồi giáo. Người Ả Rập
độc chiếm con đường thương mại từ phía nam châu Âu qua Địa Trung Hải sang Ấn
Độ hoặc đi qua Ai Cập, Hồng Hải…tạo nên một hàng rào kiểm soát chặt chẽ giữa
4


Ấn Độ và châu Âu khiến cho không một thuyền buôn châu Âu nào neo đậu được
trên Hồng Hải. Do đó, hàng hóa từ châu Á sang đã được thương nhân Ả Rập nâng
giá lên gấp 8 – 10 lần. Ngoài ra, một con đường thương mại khác đến Trung Quốc
bằng cách dùng lạc đà chở tơ lụa và các sản phẩm hương liệu, gia vị, trầm
hương…của Trung Quốc xuyên qua sa mạc, những hẻm núi của Tây Á đến châu
Âu (con đường tơ lụa) cũng bị thương nhân Afghanistan chiếm giữ. Hơn nữa, giữa
thế kỉ XV, đế quốc Byzantium bị tiêu diệt, người Thổ Nhĩ Kì chiếm ln Tiểu Á,
Bankals, Constantinople, Crưm và kiểm sốt tồn bộ Bắc Hải. Người Thổ Nhĩ Kì
cướp đoạt tàn bạo hàng hóa của thương nhân châu Âu. Do đó, con đường này hầu
như cũng bị cắt đứt. Trước tình hình đó, thương nhân châu Âu phải mua lại hàng
hóa của thương nhân Ả Rập với giá đắt hơn từ 8 – 10 lần. Vì thế, việc tìm ra một
con đường mới sang phương Đông là một nhu cầu cấp bách của thương nhân châu
Âu.

Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu.
Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt
đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự
quyết tâm cho những thuỷ thủ dũng cảm.
Vào thời gian ấy, khoa học –kỹ thuật có những tiến bộ đáng kể. Các nhà hàng
hải bắt đầu nghiên cứu các dòng hải lưu và hướng gió, bước đầu hiểu biết địa lí của
các đại dương. Sự tiến bộ về kiến thức địa lý, thiên văn, và kỹ thuật hàng hải đã tạo
ra những điều kiện đảm bảo cho những chuyến đi dài ngày trên biển. Người ta đã
xác định được hướng con tàu khơng chỉ bằng cách quan sát chiều gió, hải lưu, màu
nước hoặc chim biển mà còn bằng biện pháp xác định vị trí của tàu khơng cần vật
chuẩn. Đá mặt trời, la bàn, thước đo góc ngược và thước trắc tinh được sử dụng
trong việc định hướng giữa các đại dương bao la. Trước kia người ta chỉ đóng
thuyền nhỏ, thành thấp đáy bằng để đi sơng và ven biển, nay cũng đã vẽ được
những bản đồ và hải đồ có ghi các bến cảng. Kỹ thuật đóng tàu có những bước tiến
mới: tàu có bánh lái, có hệ thống buồm lớn lợi dụng gió vượt đại dương với tốc độ

5


mỗi giờ 10km, có sàn và boong để có thể đặt đại bác. Những kiểu tàu mới đã xuất
hiện. Ca-ra-ven trở thành loại tàu vượt đại dương đầu tiên trong lịch sử thế giới.
Những cuộc hành trình của người Châu Âu sang phương Đông và tài liệu ghi
chép của một số người đi trước (như Mác-cô Pô-lô, người I-ta-li-a) cũng giúp cho
các cuộc phát kiến địa lí ở các thế kỉ XV – XVII có điều kiện dễ dàng hơn.
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều ở cực tây nam Châu Âu tiếp giáp với Đại
Tây Dương, và bờ biển có nhiều thủy thủ gan dạ và một tầng lớp quý tộc thượng
võ, hiếu chiến đã được rèn luyện. Hơn nữa trong khi các nước Tây âu còn đang bận
rộn trong cuộc nội chiến, khơi phục chiến tranh thì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha
đã hồn thành cơng cuộc khơi phục và có kì vọng phát triển thành một cường quốc.
Giai cấp thống trị các nước này ủng hộ những chuyến đi tìm đất mới mong chiếm

đựợc nhiều của cải để trở thành giàu có, họ cịn đưa ra lời hứa hẹn sẽ phong vương
và ban thưởng cho những ai có nhiều cơng trạng trong các chuyến vượt biển.
Cho đến trước thế kỷ XV, người châu Âu chỉ biết có 3 đại lục: Âu, Á, Phi nối
liền nhau, chung quanh là biển. Nhưng đến thế kỷ XV những hiểu biết của người
châu Âu được bổ sung bằng thuyết qủa đất hình trịn, nhờ vậy mà họ biết rằng
muốn sang Ấn độ thì có thể đi bằng hai cách: Vịng châu Phi hoặc vượt đại dương
đi về phía Tây.
Lịch sử phát kiến địa lí là lịch sử của hàng loạt hoạt động thám hiểm dũng
cảm đưa lại những thành tựu to lớn. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha nằm trong
số những người đầu tiên và tích cực nhất tham giai vào các hoạt động thám hiểm,
vì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có vị trí thuận lợi. Trong thời kì diễn ra những
hoạt động thám hiểm, nền kinh tế hàng hóa của 2 nước này khá phát triển nhất là
các thành thị ven biển. Bồ dào Nha, Tây Ban Nha có những hạm đội lớn nhất lúc
bấy giờ, với những thủ thủy gan dạ. Hai nước này tiến hành cuộc đấu tranh mấy
trăm năm với người Ả Rập, đồng thời phải đấu tranh chống sự lũng đoạn bn bán
của người Italia. Cuộc đấu tranh đó đã sinh ra các tầng lớp quý tộc thượng võ, hiếu
chiến. Tầng lớp này tham gia vào những hoạt động thám hiểm nhằm bổ cứu cho sự
nghiệp kinh tế đã lung lay của họ rong cuộc chiến tranh lâu dài gây nên.
6


Những cuộc phát kiến địa lí lớn nhất do người Bồ Đào Nha, và Tây Ban Nha
lập nên, dĩ nhiên họ kế thừa những thành quả của nhiều cuộc thám hiểm trước đó.
Nhưng chỉ những phát kiến địa lí của người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mới dẫn
đến hậu quả kinh tế lớn nhất.
II. TIẾN TRÌNH PHÁT KIẾN ĐỊA LÍ
Cho đến trước thế kỷ XV, người châu Âu chỉ biết có 3 đại lục: Âu, Á, Phi nối
liền nhau, chung quanh là biển. Nhưng đến thế kỷ XV những hiểu biết của người
châu Âu được bổ sung bằng thuyết qủa đất hình trịn, nhờ vậy mà họ biết rằng
muốn sang Ấn độ thì có thể đi bằng hai cách: Vịng châu Phi hoặc vượt đại dương

đi về phía Tây.
Ði đầu trong việc tiến hành những cuộc thám hiểm vĩ đại vào thế kỷ XV là hai
quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
1. Các chuyến đi của hoàng tử Henri
1.1.Tiểu sử

Henri nhà hàng hải
Trong khoảng các năm từ 1385 tới năm 1435, nước Bồ Đào Nha có Vua John
I cai trị. Hồng tử Henri d'Aviz thấy mình đứng thứ ba trong thứ tự kế vị nên đã từ
bỏ Chính Trị mà quay sang lãnh vực Khoa Học và Thám Hiểm. Henri đã đặt cơ sở
khảo cứu trên mỏm cực nam của xứ Bồ Đào Nha và mỏm đất này như thể một bao
lơn nhìn ra ngồi đại dương bát ngát
Henri thành lập trường hàng hải tại Sagres, miền Nam Portugal. Ơng đã tụ tập
chung quanh mình một số học giả và những người đi biển. Những người này đã
giúp ông chuẩn bị những cuộc thám hiểm bằng cách thành lập các toán chuyên về
7


hàng hải, thiên văn và họa đồ địa lý. Ông đã cho vẽ ra những bản đồ mới. Henri
còn cho xây cất một đài thiên văn để giúp các nhà thủy thủ lái tàu bằng cách xác
định vị trí nhờ các vì sao. Từ 1420, mỗi năm ơng đều cho đồn thám hiểm tìm hiểu
đại dương, phát xuất từ Sagres đi về hướng Nam.
Các con tàu của Hoàng Tử từ phương đông trở về đã chất đầy vải lụa, hương
liệu, còn nếu từ châu Phi, mang theo vàng, ngà voi và các nô lệ da đen. Nhưng mặc
dù rất đắt tiền, các hàng hóa kể trên đều khơng được Hồng Tử ưa thích bằng các
bài tường trình về những miền đất chưa quen biết và về các vùng biển chưa từng
có thuyền bè nào lui tới. Hồng Tử Henri cịn tặng nhiều tiền thưởng cho những tin
tức liên quan tới bờ biển phía tây của châu Phi, tới hướng gió và các luồng nước
chảy trên Đại Tây Dương. Ơng chính là người đã mở đầu những chuyến đi của
người Bồ Đào Nha.

"Henri, nhà Hàng Hải" mặc dù có biệt hiệu của ông như vậy nhưng ông chưa
từng đi tàu mặc dù ơng có tinh thần của một nhà hàng hải.
1.2. Cuộc hành trình các con tàu của Hồng tử Henri

Cuộc hành trình các con tàu của Hồng tử Henri



Người Bồ Đào Nha khám phá Châu Phi



Người Bồ Đào Nha xi thuyền hướng về Châu Á
8




Người Bồ Đào Nha đến sinh sống tại Brésil, Nam Mỹ

Năm 1415, người Bồ đã chiếm được pháo đài Ceuta trên bờ biến châu Phi, từ
đó hầu như năm nào họ cũng tổ chức những đoàn thám hiểm đi về phía Nam dọc
theo bờ biển châu Phi.
Khi tìm đường đi sang Ấn Độ, các thủy thủ Bồ đã khám phá ra các nhóm đảo
Canaries, Madeira, Azores. Một thuyền trưởng của Hồng Tử Henri đã tới hịn đảo
lớn Canaries rồi trở về Bồ Đào Nha và mơ tả lại những dịng nước chảy mạnh
chung quanh đảo. Sự việc này khiến cho Hoàng Tử Henri cử Goncalo Velho, một
hiệp sĩ quý phái, đi "tìm ngun nhân của dịng nước". Như vậy "Henri, nhà Hàng
Hải" là người đầu tiên tìm hiểu các giới hạn của đại dương.
Năm 1419, họ chiếm được hòn đảo Porto Xanto do người Ý tìm ra trước kia

và biến đảo này thành thuộc địa.
Năm 1445, họ đến được Cap Vert (mũi Xanh).
Năm 1472, họ đến Vịnh Guinée, và bắt đầu khai thác những lớp đất có vàng,
sau đó họ biến nơi nầy thành nơi buôn bán ngà voi, vàng, nô lệ và một phần gia vị.
Họ đem áo dài vải gai, hạt cườm vũ khí và rượu bán cho người da đen ở đây. Khi
đến vịnh Guinée, họ tưởng đây là mõm cực nam của châu Phi, nên năm 1482 họ
cho xây dựng ở đây đồn Mina để cướp bóc.
Henri đã dùng những điều hiểu biết do các thủy thủ đem về để vẽ bản đồ, với
mục đích sử dụng trong các cuộc thám hiểm sau. Đồng thời với những kiến thức
ngày một nhiều, cách đóng tầu thuyền cũng tiến bộ. Một thứ tầu biển mới được chế
tạo có tên là Caravelle, đã cho phép các thủy thủ Bồ Đào Nha có thể đi xa hơn
trước.

9


Tàu Caravelle
Từ năm 1416, mỗi năm đều có một đồn thám hiểm ra đi nhưng mỗi đoàn chỉ
đi được một quãng ngắn rồi quay trở về. Năm sau, trên cơ sở kết quả đã thu được,
đoàn khác lại đi xa hơn một ít. Những tiến bộ đó thật chậm chạp, Người Bồ Đào
Nha phải mất tới 82 năm mới đến được Ấn Độ (1416-1498). Trong các chuyến đi
đó có hai cuộc thám hiểm lớn là của B. Dias (1450-1500) và Vasco da Gama
(1469-1524).
2. Các chuyến đi của Bartolomeu Dias (1450 - 1500)
a. Giới thiệu

Bartolomeu Dias
10



Bartolomeu Dias (1450 - 1500), nhà hàng hải Bồ Đào Nha. Năm 1457,
Bartolomeu Dias được sinh ra ở Bồ Đào Nha. Bartolomeu Dias đến từ một gia đình
quý tộc Bồ Đào Nha và cha của ơng tham dự tịa án Bồ Đào Nha. Người ta tin rằng
Dias đến từ một gia đình của các thủy thủ và nhà thám hiểm bao gồm Joao Dias
người đi thuyền quanh Cape Bojador năm 1434 và Diniz Dias người phát hiện ra
các quần đảo Cape Verde.
Bartolomeu Dias đã được giáo dục tốt nhất và với trình độ của mình Ơng đã
có thể được dạy một số ngơn ngữ, vật lý, hình học, tốn học và thiên văn học.
Ơng là thành viên của tịa án Bồ Đào Nha hoàng gia và tổ chức tiêu đề của
Sailing Master của con người của cuộc chiến Sao Cristovao Bồ Đào Nha (San
Christovao).
b. Cuộc hành trình của Bartolomeu Dias

Cuộc hành trình của Bartolomeu Dias
Ngày 10 tháng 10 Năm 1486: Vua John II của Bồ Đào Nha bổ nhiệm
Bartolomeu Dias vào một đoàn thám hiểm để lãnh đạo để đi thuyền vịng quanh
mũi phía nam của châu Phi với hy vọng tìm ra một tuyến đường thương mại sang
Ấn Độ. Bartholomeu Dias, người đã từng trông coi các kho của hoàng gia ở Lisbon
và đã đi một chuyến tàu caravel xuống bờ biển châu Phi. Sau mười tháng chuẩn bị
lâu ngày, tổ chức kỹ lưỡng, với vốn đầu tư lớn vào tháng bảy hoặc đầu tháng Tám,
1487, với hai caravels vũ trang, mỗi caravels năm mươi tấn và một tàu cung cấp
11


Dias chuẩn bị rời Lisbon.Dias mang theo sáu người châu Phi đã từng có mặt trong
các chuyến thám hiểm Bồ Đào Nha trước đây. Dias cho họ ăn uống tử tế, cho mặc
đồ theo kiểu người Âu, rồi rải họ ở một số nơi dọc bờ biển, cùng với những mẫu
hàng hóa như vàng, bạc, gia vị và các sản phẩm châu Phi khác, để họ dùng kiểu
"buôn bán câm" chỉ cho những người bản xứ biết người Bồ Đào Nha cần những
loại hàng hóa nào. Sau khi đã rải hết những sứ giả châu Phi này, các con tàu của

Dias gặp phải một cơn bão chuyển thành một cuồng phong dữ dội. Những con tàu
phải hạ buồm chạy trước cơn gió bắc trên biển sóng lớn trong 13 ngày và bị gió
đưa đi xa ra ngồi khơi rồi xuống phía nam của biển cả. Đồn thủy thủ vừa mới bị
sức nóng thiêu đốt của xích đạo, giờ đây trở thành hoảng loạn. "Và vì các tàu khá
nhỏ và biển thì càng lúc càng lạnh hơn và khơng giống như lúc họ còn ở Guinea,...
họ chỉ nằm trên tàu chờ chết". Nhưng cơn bão đã qua đi và Dias căng tất cả các
cánh buồm và quay về phía đơng, nhưng sau nhiều ngày vẫn không thấy đất đâu
cả. Quay lên phía bắc 150 hải lý, ơng bất ngờ thấy những dãy núi cao. Ngày 3
tháng 2, 1488, ông bỏ neo ở vịnh Mossel, nằm vào khoảng 30 dặm phía đơng chỗ
ngày nay gọi là Mũi Town. Có vẻ do ý trời, cơn bão đã thực hiện được điều mà
không một kế hoạch nào có thể thực hiện, vì nó đã đưa Dias vòng qua mũi cực
nam của châu Phi. Khi đoàn người thám hiểm lên bờ, họ bị dân bản xứ ném đá
đuổi đi, Dias dùng cung bắn chết một người bản xứ khiến họ phải bỏ đi. Ông đi
theo bờ biển, đi thêm ba trăm dặm nữa đến cửa của Great Fish River và vào vịnh
Algoa.
Dias muốn đi tiếp vào Ấn Độ Dương, để hoàn thành niềm mong đợi của nhiều
thế kỷ, nhưng đồn thủy thủ khơng muốn. "Mệt mỏi và kinh hồng vì biển cả dữ
dội mà họ đã đi qua, tất cả đều cùng nhau bắt đầu lẩm bẩm kêu ca và yêu cầu
không được đi xa thêm nữa". Lương thực cịn rất ít và chỉ có cách quay nhanh trở
về tàu lương thực còn ở xa tít phía sau. Sau khi hội ý với các thuyền trưởng và mọi
người đều ký vào quyết định quay trở về, Dias đã đồng ý.
Trên đường về, họ trở lại chiếc tàu lương thực mà họ đã để lại cách đây chín
tháng với 9 người trên tàu. Chỉ cịn ba người sống sót và một trong ba người này
12


"quá vui khi gặp lại các bạn nên đã chết một cách đột ngột, vì đã quá đuối sức vì
bệnh tật". Người ta dỡ hàng từ chiếc tàu lương thực rồi đốt bỏ nó, chỉ cịn hai con
tàu caravel quay về Bồ Đào Nha vào tháng 12 năm 1488, sau mười sáu tháng và
mười bảy ngày lênh đênh trên biển. Khi hai chiếc tàu caravel tan nát vì thời tiết về

tới cảng Lisbon, Christopher Colơmbơ đã có mặt ở đó để đợi đồn thám hiểm. Dạo
ấy Christopher Colơmbơ chưa có tiếng tăm gì. Ơng rất quan tâm đến kết quả
chuyến đi của Dias. Tháng12 năm 1488, Dias trở về Lisbon.Sau khi vắng mặt,Ông
đã thể hiện được cách để Vasco da Gama ông năm 1497 mà đi kèm, nhưng ở một
vị trí cấp dưới, như xa như là Cape Verde Islands, Việc phát hiện ra các đoạn xung
quanh châu Phi là quan trọng bởi vì, lần đầu tiên, người châu Âu có thể thương mại
trực tiếp với Ấn Độ và các phần khác của châu Á, bỏ qua các tuyến đường bộ qua
Trung Đông.
Dias ban đầu được đặt tên là Mũi Hảo Vọng là "Mũi bão" (Cabo das
Tormentas). Sau đó nó được đổi tên thành bởi vua John II của Bồ o Nha n
Cape of Good Hope (Cabo da Boa Esperanỗa) bởi vì nó đại diện cho việc mở một
tuyến đường phía đơng.và với các thơng tin vơ giá cho chuyến đi thăm dò tương lai
của Bồ Đào Nha. Những cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha đã được lãnh đạo
bởi Christopher Columbus , Vasco da Gama và Pedro Alvares Cabral tất cả những
người sử dụng các bảng xếp hạng do Bartolomeu Dias. Sử dụng kinh nghiệm của
mình với du lịch thám hiểm, Dias đã giúp trong việc xây dựng các Gabriel Sao và
tàu anh em của mình, Rafael Sao đã được sử dụng bởi Vasco da Gama đi vòng
quanh Cape và tiếp tục con đường đến Ấn Độ. Dias chỉ tham gia vào chân đầu tiên
của chuyến đi da Gama, cho đến quần đảo Cape Verde . Sau đó ơng bị một trong
các thuyền trưởng của chuyến thám hiểm Ấn Độ thứ hai, đứng đầu là Pedro
Alvares Cabral . Đội tàu này đạt tới trước bờ biển của Brazil , có tính sở hữu của
nó trong 1500, và sau đó tiếp tục hướng về phía đơng tới Ấn Độ. Dias thiệt mạng
gần Cape of Good Hope rằng ơng presciently có tên là Cape của bão. Bốn tàu gặp
phải một cơn bão lớn đi mũi và bị mất, bao gồm cả Dias, ngày ngày 29 tháng 5
năm 1500. Dias không bao giờ được vua thưởng công xứng đáng và ông trở thành
13


con người của Kỷ Nguyên Khám Phá của Bồ Đào Nha bị qn lãng. Ơng có trơng
coi việc đóng những tàu cho Vasco da Gama, nhưng không dự phần trong chuyến

hành trình cao điểm của Gama tới Ấn Độ.
Người ta đã trơng chờ cơng trình thám hiểm của Dias được tiếp nối mau
chóng, nhưng nó đã bị trì hỗn do những vấn đề nội bộ ở Bồ Đào Nha, do việc kế
vị ngôi vua bị gián đoạn và nhất là do cuộc tranh giành xảy ra khiến Bồ Đào Nha
và Tây Ban Nha đang đứng bên bờ của một cuộc chiến.
3. Vasco da Gama(C.1460-1524)

Vasco da Gama
Vasco da Gama là bá tước thứ nhất của Vidigueira, là một nhà thám hiểm
người Bồ Đào Nha, một trong những nhà hàng hải châu Âu thành công nhất của
Kỷ nguyên khám phá và là thuyền trưởng hạm đội đầu tiên đi thẳng từ châu Âu
đến Ấn Độ.
3.1. Tiểu sử
Vasco da Gama sinh khoảng năm 1460 hoặc 1469 tại Sines ở bờ biển phía Tây
Nam của Bồ Đào Nha, có lẽ là trong một ngơi nhà gần nhà thờ Nossa Senhora das
Salas.
Cha của Vasco da Gama là Estêvão da Gama, một kỵ sĩ trong đội gia binh của
Công tước xứ Viseu, Dom Fernando vào khoảng những năm 1460. Dom Fernando
cử ơng làm Alcaide-Mór (thủ hiến) xứ Sines và cho phép ông giữ lại một phần thuế
thu từ việc làm xà phòng ở Estremoz. Estêvão da Gama kết hôn với Quý cô Isabel
Sodré, con gái của João Sodré.

14


Người ta biết rất ít cuộc đời Vasco da Gama khi cịn nhỏ, có giả thiết cho rằng
ơng học trong một thị trấn trên đất liền ở Évora, ở đó có lẽ ơng đã học Tốn học và
nghề hàng hải, người ta cũng biết rằng da Gama hiểu biết sâu về Thiên văn học là
nhờ được học từ nhà thiên văn nổi tiếng Abraham Zacuto.
Năm 1492 vua João II của Bồ Đào Nha phái ơng tới cảng Setúbal, phía Nam

Lisbon, và tới Algarve, tỉnh cực Nam của Bồ Đào Nha để chiếm lấy những con tàu
Pháp nhằm trả đũa việc cướp bóc tàu thuyền Bồ Đào Nha trong thời bình, Vasco da
Gama đã hồn thành rất nhanh chóng và hiệu quả cơng việc được giao.
3.2. Bối cảnh
Năm 1460, Hồng Tử Henri qua đời. Sự kiện này đã làm tiêu tan động lực thúc
đẩy các nhà thám hiểm Bồ. Nhưng việc tìm hiểu các miền đất mới đã khơng ngừng
lại. Đường Xích Đạo được Lopo Goncalves băng qua vào năm 1473 mà không một
thủy thủ nào bị cháy thành than! Các thám hiểm vẫn tiếp tục nhưng số lượng vàng bạc
mang về xứ khơng được nhiều như trước, người thời đó đành hy vọng ở các hương
liệu. Câu hỏi đặt ra cho họ là làm sao tới được Ấn Độ và muốn vậy, châu Phi phải là
một lục địa tròn trong khi bờ biển của lục địa này vẫn tiếp tục trải dài hướng về phía
nam.
Sau Bồ Đào Nha, nước Tây Ban Nha bắt đầu chiếm được một số hải cảng trên
các miền bờ biển châu Phi. Đã xảy ra một số tranh chấp giữa hai nước lân bang
này. Để dành riêng châu Phi cho mình và giải quyết mọi tranh chấp, nước Bồ đã
trơng cậy vào vị Giáo Hồng. Trong nhiều thế kỷ, giáo hội Thiên Chúa đã từng là
trọng tài của các quốc gia theo Thiên Chúa giáo, nhưng ảnh hưởng của Giáo
Hoàng đã bị kém dần. Tuy thế, từ năm 1455, nước Bồ Đào Nha đã nhận được một
loạt các cơng bố của Giáo Hồng cho họ tất cả các hải đảo và miền đất phía nam
Cape Bojador. Năm 1478, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella của các vương
quốc Aragon và Castile, đã xin Giáo Hoàng đặc quyền buôn bán với xứ Guinea và
đã bị từ chối trong khi tàu buôn Tây Ban Nha vẫn tiếp tục đáp vào vịnh Guinea để
tìm bắt nơ lệ. Tại bến cảng Seville, các con tầu mang về dân nô lệ da đen là những
hình ảnh quen thuộc, chứng tỏ các hoạt động thám hiểm của người Tây Ban Nha
tới các miền đất của châu Phi.
15


Sau đó, nước Anh cũng xin phép Giáo Hồng được quyền tới châu Phi và
buôn bán. Trước những cạnh tranh của các quốc gia khác nhau, Vua Bồ Đào Nha

John II bèn ra lệnh cho Diego Cao thực hiện một loạt các thám hiểm để tìm đường
đi tới Ấn Độ. Các tầu viễn du của Diego Cao được cung cấp các cột mốc bằng đá,
có ghi rõ bằng tiếng La Tinh, tiếng Bồ và tiếng Ả Rập để đánh dấu những nơi tìm
ra và nhận chủ quyền về cho nước Bồ Đào Nha. Diego Cao đã đóng một cột đá tại
cửa sông Congo vào năm 1483 và một cột khác tại Cape Cross, 22 độ phía nam
của Xích Đạo. Nhà thám hiểm Cao đã đi dọc bờ biển được 1,500 dặm, từ Cape St.
Catherine tới Cape Cross nhưng lục địa châu Phi vẫn tiếp tục trải dài vô tận về phía
nam.
Năm 1487, Vua John lại phái Bartolomeu Dias với ba tàu biển, chủ đích đi
vịng lục địa châu Phi và nếu có thể thì bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ Prester John.
Kết quả của các lần đi thám hiểm của Dias vẫn được giữ kín như trước kia và sau
này, người ta được biết rằng Bartolomeu Dias đã tới được địa điểm mà ngày nay là
Luderitz, 520 dặm về phía tây bắc của Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope). Một
trận bão đã thổi con tầu của Dias vòng qua Mũi Hảo Vọng và khi cơn gió dịu đi,
Dias đã tìm nơi trú ẩn trong vịnh Mossel rồi sau đó, dương buồm tới địa điểm có
tên hiện nay là Port Alfred. Trên đường về, nhà thám hiểm đã gọi mũi đất nhơ ra
biển nhiều nhất của phần phía nam của châu Phi là Mũi Phong Ba (Cape of
Storms) và về sau, Vua John đã đổi tên là Mũi Hảo Vọng, với hy vọng ở tương lại
tốt đẹp.
Tới lúc này, Xích Đạo đã được các tầu biển Bồ Đào Nha vượt qua nhiều lần
và không một thủy thủ nào bị đốt cháy thành than. Các truyền thuyết cổ về những
hiểm nguy đã bị bác bỏ và đã có tầu biển vòng qua được mỏm cực nam của châu
Phi. Người Tây phương khi bước lên bờ, thám hiểm các miền đất mới, đã gặp các
loại thổ dân khác nhau. Hỏa lực, gươm giáo và áo giáp của họ đã cho phép họ
chiếm đoạt bất kể món hàng nào mà họ muốn có, ngay cả khi thổ dân thù nghịch,
chống cự.

16



Cũng vào năm 1487 khi sai Dias đi thám hiểm miền biển cực nam của châu Phi,
Vua John của Bồ Đào Nha cịn gửi đi hai phái đồn cùng tới Aden theo đường bộ, một
đồn với chủ đích tìm ra con đường dẫn đến các nơi giàu có của phương đơng, đồn kia
tìm cách bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ Prester John. Peroda Covilha được lệnh đi qua
Arabia để tới Ấn Độ. Ơng này đã tìm thầy con đường biển mà các con tầu Hồi giáo
thường chuyên chở hương liệu vượt qua Ấn Độ Dương để tới châu Phi. Nhà thám hiểm
thứ hai cũng thông thạo tiếng Ả Rập như Covilha, là Afonso de Paiva. Đoàn thám hiểm
này đi sâu vào lục địa châu Phi từ phía đơng bắc, lục tìm tại xứ Ethopia ngày nay.
Cũng giống như các điều tìm thấy của Bartolomeu Dias, khám phá của hai đồn
thám hiểm kể trên được giữ kín. Covilha đã tới Calicut, là một thành phố ở phía tây của
xứ Ấn Độ (Calcuta ở phía đơng). Tại nơi này, các con thuyền gỗ của Trung Hoa và của
miền đông Ấn Độ chuyên chở tới nào hương liệu, vàng bạc, nào tơ lụa và đồ sứ... Các
mặt hàng quý giá này sau đó được chuyển tới vịnh Ba Tư và tới miền đông của châu
Phi.
Covilha thực ra không phải là người châu Âu đầu tiên tới được xứ Ấn Độ.
Trước đó đã có các thương nhân từ Cairo đi theo biển Hồng Hải, rồi cịn có những
lái bn khác từ các thành phố Venice, Genoa..., từ các xứ Pháp và Hòa Lan.
Covilha sau đó đã đi ngược về vịnh Ba Tư và tới Sofala, phía nam của Beira thuộc
châu Phi. Tại nơi này, ông ta đã nghiên cứu thấy rằng Ấn Độ Dương tiếp nối với
Đại Tây Dương và như vậy, từ châu Âu có thể dùng đường biển để đi vịng phía
dưới châu Phi tới Ấn Độ.
Khi tới Cairo vào năm 1490, Covilha mới biết tin nhà thám hiểm Paiva đã
chết. Lệnh của Vua John II bắt ông phải đảm nhiệm sứ mạng của Paiva bỏ dở.
Covilha tìm đường tới được triều đình của vua xứ Ethopia và đã thấy rõ khơng có
vị Vua Giáo Sĩ nào là Prester John cả. Năm 1520 có một phái đồn khác của triều
đình Bồ Đào Nha tới được xứ Ethopia và đã gặp lại ông Covilha già nua tại triều
đình của xứ này vì Vua Ethopia đã không cho phép ông ta ra đi, nhưng chắc chắn
là các báo cáo của Covilha cũng đã tới được tay của Vua John II của Bồ Đào Nha.

17



Sau khi vị vua này chết năm 1495, vua kế tiếp là Manuel vẫn tiếp tục chính sách
mở đường tới Ấn Độ.
Khi de Gama được 10 tuổi, kế hoạch trên bắt đầu cho những kết quả cụ thể.
Bartolomeu Dias đã quay trở lại sau khi đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng (Cape of
Good Hope), ông cũng thám hiểm sông Rio do Infante (nay là sông Fish ở Nam
Phi) và xác định rằng đường bờ biển chưa được biết tới chạy thẳng về hướng Đông
Bắc.
Những cuộc thám hiểm trên bộ trong thời kì trị vì của vua Jỗo II của Bồ Đào
Nha cũng củng cố thêm lý thuyết cho rằng có thể đi tới Ấn Độ bằng đường biển từ
Đại Tây Dương. Pero da Covilhã và Afonso de Paiva đã đi theo tuyến đường từ
Barcelona, qua Naples, Rhodes đến Alexandria, và từ đó đến Aden, Hormuz và Ấn
Độ tin vào lý thuyết này.
Việc còn lại cho các nhà thám hiểm là phải xác nhận được mối liên hệ giữa
những phát hiện của Dias và những chứng cớ của da Covilhã và de Paiva, và kết
nối được những đoạn rời rạc của con đường thương mại đầy tiềm năng với Ấn Độ
Dương. Nhiệm vụ này đầu tiên được giao cho cha của Vasco da Gama, sau đó đã
được vua Manuel I của Bồ Đào Nha giao cho da Gama nhờ những thành tích của
ơng trong việc bảo vệ những trạm giao dịch dọc bờ biển châu Phi khỏi sự cướp phá
của người Pháp.
3.3. Chuyến du hành đầu tiên

Hải trình chuyến du hành đầu tiên của Vasco da Gama (1497 - 1499)

18


Ngày 8 tháng 7 năm 1497 hạm đội 4 tàu của Vasco da Gama rời cảng Lisbon.
4 tàu bao gồm:

1. Chiếc São Gabriel: do đích thân Vasco da Gama làm thuyền trưởng, một chiếc
carrack nặng 178 tấn, dài 27 mét, rộng 8,5 mét, buồm rộng 372 mét vuông, 150 thủy
thủ
2. Chiếc São Rafael: do Paulo da Gama anh trai của Vasco da Gama làm
thuyền trưởng; kích thước tương tự chiếc São Gabriel.
3. Chiếc caravel Berrio: nhỏ hơn một chút so với hai chiếc đầu, do Nicolau
Coelho làm thuyền trưởng.
4. Một chic tu d tr khụng rừ tờn: do Gonỗalo Nunes làm thuyền trưởng,
sau đó mất tích gần vịnh São Brás, dọc bờ biển phía Đơng châu Phi.
Có lẽ do lời khun của Dias, hải trình kỳ này đã khơng theo sát bờ biển của
miền tây châu Phi mà vòng ra xa để tránh các giịng nước khơng thuận tiện và các
bãi đất ngầm. Da Gama đã lợi dụng được luồng gió mùa và sau ba tháng, vượt hơn
4,000 dặm, đồn tầu đã tới được bờ biển châu Phi tại vịnh St. Helena, phía bắc của
Cape Town. Sau đó đồn thám hiểm tiếp tục đi qua Cape Agulhas, tới vịnh Mossel.
Tại vịnh này, Da Gama cho đóng một cột ghi dấu rồi lại tiếp tục dương buồm về
hướng đông. Trên đường đi, Da Gama đã đặt tên cho các địa điểm như Natal với ý
nghĩa là Ngày Sinh của Chúa, hay giịng sơng "Các Điềm Lành" (the River of
Good Omens). Khi tới hải cảng Mozambique, Da Gama đã gặp các thương nhân có
hình dáng kỳ dị, các người Ả Rập và thổ dân bn bán trên bến cảng. Sau đó, đồn
thám hiểm tới Mombasa, một hải cảng Ả Rập sầm uất rồi tới Malindi, nơi đã có
một cộng đồng người Ấn Độ cư ngụ. Một số người theo Thiên Chúa giáo tại nơi
này đã khiến cho Da Gama tin rằng Vua Giáo Sĩ Prester John ở khơng xa đó, sâu
vào trong đất liền.
3.3.1. Vòng qua mũi Hảo Vọng
Ngày 16 tháng 12 năm 1497, hạm đội vượt qua sông White (Nam Phi) nơi
Dias đã quay trở lại, họ tiếp tục đi vào một vùng nước người châu Âu chưa hề biết
tới. Vì gần đến Lễ Giáng sinh, họ đặt tên cho bờ biển này cái tên Natal.
19



Những vùng đất do người Người Ả rập kiểm soát nằm trên bờ biển phía Đơng
châu Phi là một phần của con đường thương mại trên Ấn Độ Dương. Lo sợ những
người địa phương có thể sẽ căm ghét người theo đạo Thiên chúa giáo, da Gama đã
giả làm một người Hồi giáo để tiếp kiến Sultan của Mozambique. Chỉ mang theo
những hàng hóa tầm thường, Vasco da Gama đã không thể chuẩn bị được cống vật
cần thiết và người dân địa phương bắt đầu nhận ra trò lừa bịp của da Gama. Bị
buộc phải rời khỏi Mozambique, da Gama rời khỏi cảng và bắn đại bác vào thành
phố để trả đũa.
3.3.2. Mombasa
Khi tới gần địa phận nước Kenya ngày nay, đồn thám hiểm phải dùng tới
biện pháp cướp bóc những tàu bn Ả rập vốn ít khi được trang bị đại bác. Họ trở
thành những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến cảng Mombasa nhưng lại gặp
phải sự căm ghét của dân địa phương và phải nhanh chóng rời bến.
3.3.3. Malindi
Tháng 2 năm 1498, Vasco da Gama tiếp tục đi theo hướng Bắc, hạm đội của
ông ghé vào cảng Malindi, người dân ở đây có vẻ thân thiện hơn vì họ đang có
xung đột với Mombasa và ở đây lần đầu tiên đoàn thám hiểm ghi nhận được sự có
mặt của những nhà bn Ấn Độ. Họ th một nhà hàng hải và vẽ bản đồ người Ả
rập hiểu biết về gió mùa, người này đã giúp hạm đội đi nốt phần đường còn lại đến
Calicut (nay là Kozhikode) ở bờ biển phía Tây Nam Ấn Độ.
Vasco da Gama đặt chân đến Calicut ngày 20 tháng 5 năm 1498
3.3.4. Calicut, India
Đoàn thám hiểm đến Calicut ngày 20 tháng 5 năm 1498. Đôi khi họ phải đụng
độ dữ dội với những nhà bn người Ả rập để có thể thương lượng với nhà cầm
quyền địa phương. Cuối cùng thì da Gama cũng có thể kiếm được một lá thư
nhượng quyền trao đổi hàng hóa, nhưng ngay sau đó ơng cùng hạm đội phải rời
bến vì nhà cầm quyền cho rằng hàng hóa trên tàu của da Gama là đồ phạm pháp.
Vasco da Gama giữ được hàng hóa của mình nhưng phải để lại vài người Bồ Đào
Nha với mục đích mở một điểm giao dịch.
3.3.5. Trở về

20


Ngày 29 tháng 8 năm 1498, Vasco da Gama quyết định cho đoàn tầu rời
Calicut để trở về Bồ Đào Nha. Hải trình qua Ấn Độ Dương mất ba tháng và nhiều
thủy thủ đã mắc bệnh hoại huyết. Vì khơng đủ người, Da Gama đành phải hủy bỏ
con tầu Sao Raphael gần Mombasa, rồi cuộc trở về đã không gặp khó khăn. Tháng
9 năm 1499, đồn tầu của Vasco da Gama đã về tới bến cảng Lisbon sau hơn hai
năm đi biển, vượt qua được 24,000 hải lý với 44 thủy thủ sống sót trong số 170
người đã ra đi.
Paulo da Gama chết trên đường về ở vùng Azores còn Vasco da Gama đã
quay lại được Bồ Đào Nha vào tháng 9 năm 1499, ông được thưởng hậu hĩnh nhờ
việc hoàn thành tấm bản đồ mà những nhà thám hiểm Bồ đã phải vẽ trong 80 năm.
da Gama được phong "Đô đốc Ấn Độ Dương" (Admiral of the Indian Ocean) và
được quyền cai quản vùng Sines. Vua Manuel I cũng ban tước Quý ngài (Dom)
vĩnh viễn cho da Gama, các anh chị em của ông và tất cả con cháu. Ông trở thành
bá tước của Vidigueira, người Bồ Đào Nha đầu tiên khơng mang dịng máu hồng
tộc được phong chức này.
Chuyến du hành của Vasco da Gama cho thấy rõ rằng bờ biển phía Đơng của
châu Phi, vùng Contra Costa là cực kì quan trọng cho lợi ích sau này của Bồ Đào
Nha, các hải cảng ở vùng này cung cấp nước ngọt, lương thực dự trữ, bến tàu và
xưởng mộc để sửa chữa thuyền, và nơi trú chân khi thời tiết khơng thuận lợi. Ngồi
ra, việc trao đổi hương liệu cũng sẽ đóng góp chủ yếu cho kinh tế của Bồ Đào Nha.
3.4 Chuyến du hành thứ hai

Chuyến du hành đầu tiên của Vasco da Gama

21



Ngày 12 tháng 2 năm 1502, một lần nữa da Gama cùng hạm đội tàu chiến 20
chiếc khởi hành. Pedro Álvares Cabral đã được phái đến Ấn Độ hai năm trước đó
và phát hiện ra rằng những người Bồ được da Gama gửi lại đã bị giết chết, bản
thân Cabral cũng bị tấn công và ông ta phải bắn phá Calicut trước khi khởi hành
tới Cochin, một vương quốc nhỏ đã đón tiến Cabral rất nồng hậu.
Khi quay trở về vào tháng 9 năm 1503, da Gama được trao thêm quyền quản
lý cả Vidigueira và Vila dos Frades.
3.5 Chuyến du hành thứ ba

Đường tới Ấn Độ
Vasco da Gama được phái đến Ấn Độ lần thứ ba vào năm 1524 để giải quyết
những khó khăn của người Bồ Đào Nha ở đây. Ban đầu da Gama được chỉ định để
thay thế Eduardo de Menezes trong vai trò người đại diện của thuộc địa Bồ Đào
Nha trên đất Ấn Độ, nhưng ông đã mắc bệnh sốt rét không lâu sau khi đến Goa và
chết ở Cochin vào đêm Giáng sinh năm 1524.
Đầu tiên, da Gama được chôn ở nhà thờ St. Francis thuộc Kochi, sau đó hài
cốt của ơng được chuyển về Bồ Đào Nha và cải táng trong một ngôi mộ lớn ở
Vidigueira.
3.6. Thành quả

22


Vasco da Gama là người đã khởi đầu "kỷ nguyên vàng" cho Bồ Đào Nha Hải
cảng Vasco da Gama ở Goa được đặt theo tên của ông, tên ông cũng được đặt cho
một miệng núi lửa lớn trên Mặt Trăng. Có tới 3 câu lạc bộ bóng đá ở Brazil (trong
đó có Club de Regatas Vasco da Gama) mang tên của ông, câu lạc bộ Vasco Sports
Club ở Goa cũng được lấy theo tên nhà hàng hải này.
Da Gama được xếp thứ 86 trong danh sách 100 nhân vật ảnh hưởng nhất của lịch
sử.

Thành quả của Vasco da Gama trong chuyến đi vịng qua phía nam của châu
Phi để tới Ấn Độ đã khiến cho nhà hàng hải này được xếp hàng đầu trong các nhà
thám hiểm của mọi thời đại. Các khó khăn gặp phải và các may rủi đòi hỏi tới lòng
cam đảm và tài năng của một thuyền trưởng đã khiến cho Vasco da Gama được ca
tụng tương đương với Christopher Columbus.
Vasco da Gama đã mang lại cho người châu Âu các quan niệm mới về thế giới,
một nơi khơng cịn bị giới hạn bởi bốn lục địa. Thế Giới từ nay đã được mở rộng cho
nhiều người khác thám hiểm và khai thác nước này trở thành một trong những đế quốc
đầu tiên.
4. Các chuyến đi của Christopher Colombus (1451-1506)
4.1 Tiểu sử

Christopher Columbus
23


Christopher Columbus (1451-1506) là một nhà hàng hải lớn người Ý. Ông đã
sống nhiều năm ở Bồ Đào Nha, học tập và nghiên cứu nhiều kiến thức về địa lí và
hàng hải.Christopher Columbus được biết đến như một nhà thám hiểm vĩ đại của
thế kỷ XV. Cho đến nay Columbus vẫn được coi như là người đầu tiên phát hiện ra
châu Mỹ.Công cuộc thám hiểm bằng đường biển, chuyến đi quan trọng nhất và nổi
tiếng nhất của Christopher Columbus,được thực hiện vào năm 1492.
Cho đến cuối thế kỷ 15, các học giả về môn địa dư đều cho rằng nếu bằng
một con tầu biển đi về hướng tây ,người ta có thể tới được các xứ Trung Hoa và
Nhật Bản .Người thời đó chưa biết rằng sau Đại Tây Dương cịn có lục địa châu
Mỹ và một đại dương bao la là Thái Bình Dương.
Sáng sớm ngày 12 tháng 10 năm 1492, nhà hàng hải Christopher Columbus đã
bước lên bờ một hòn đảo thuộc châu mỹ, một miền đất chưa ai được biết đến.Đây
là một sự kiện lịch sử ,đã mở đầu một sự kiện lịch sử, đã mở đầu cho việc tìm hiểu
Tân Thế Giới và dẫn tới việc phổ biến nền văn minh tây phương trên lục địa này.

Lúc nhỏ Christopher cùng em trai phụ giúp cha trong việc chải len. Khi lớn
lên, Christopher đã theo các đoàn thuyền đánh cá đi tới các hải cảng Lisbon thuộc
Bồ Đào Nha,rồi tới nước Anh và miền Flander...Là một người biết nhìn xa trơng
rộng lại có nhiều kinh nghiệm hàng hải nhờ các chuyến viễn du.Sau nhiều năm
nghiên cứu với các dẫn chứng từ các học giả và từ những người đi biển danh tiếng,
Christopher columbus nhờ một số bạn bè có thế lực đệ trình kế hoạch thám hiểm
của mình lên Vua Ferdinand và Nữ Hồng Isabella.Lúc bấy giờ,do muốn tăng
cường thế lực của mình nên Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đã chấp thuận yêu cầu
giúp đỡ của columbus đi tìm vùng đất mới .
Sau khi giành được sự hỗ trợ của các quốc vương Tây Ban Nha ,nhà Vua và
Nữ Hoàng , Columbus là người đầu tiên thám hiểm vùng biển chưa được vẽ trên
hải đồ về phía tây.Trong bốn chuyến hành trình của ơng, ơng đã phát hiện ra các
vùng đất

Bahamas,Hispaniola,Cuba,Dominica,Jamaica,Trung Mỹ và Nam Mỹ.

Ông đã tìm được đường đi sang phương đơng theo hướng tây.
4.2. Hành trình của hải Christopher Columbus
24


Các cuộc thám hiểm của Christopher Columbus
Cuộc thám hiểm đầu tiên của Columbus là vào ngày 3 tháng 8 năm 1492,
đoàn thủy thủ tham dự buổi lễ cầu nguyện rồi columbus bước lên tàu Santa
Maria.Lên đường sang phía tây với ba chiếc thuyền lớn cùng 90 thủy thủ. Sau hơn
70 ngày lênh đênh trên mặt biển bao la tinh thần của các thủy thủ trên tầu dần bị
suy sụp, đã đòi hỏi Christopher Columbus quay trở về nhưng vào lúc 2 giờ sáng
ngày 12 tháng 10, họ đã thấy được vùng đất mới, Christopher Columbus và các
thủy thủ là những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo Caribe và hòn đảo
này là đảo Walting, thuộc Bahama của Salvador. Sau đó tiếp tục ra khơi và đã dừng

lại tại các hịn đảo mà ơng đặt tên là Santa Maria de la Conception, Fernandina và
Isabella.Vào ngày 6-12-1492, đoàn tầu dừng lại tại bờ biển phía bắc của đảo
Hispaniola.
Vào ngày 16-1-1493,Christopher Columbus đã quyết định cho tàu quay trở
về.Hai con tầu Nina và Pita chất đầy phẩm vật quý vàng bạc, nữ trang, cùng nhiều
thổ dân bị bắt cóc.Đến ngày 15-3-1493, cả hai con tầu cùng cập cảng Palos.
Christopher Columbus được Vua và Nữ Hồng Tây Ban Nha đón tiếp tại triều
đình Barcelona.
Columbus đã mơ tả về vài hịn đảo nhỏ nằm ngồi khơi mà ơng cho rằng vào
sâu bên trong là nước Trung Hoa. Do vậy Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đã đồng
ý cử Columbus đi thám hiểm một lần nữa để cố gắng tiếp xúc với triều đình Đại
25


×