Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.48 KB, 31 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
1. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp là hoạt động nhằm giải quyết các mối
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp bao gồm những hoạt động cơ
bản là: Tạo vốn và phân bổ vốn, phân chia lợi ích cho các chủ thể liên quan để đáp
ứng tốt nhu cầu và sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động tài chính
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp
và có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành, tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vai trò đó thể hiện ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, trong việc thiết lập
các dự án đầu tư ban đầu, dự kiến hoạt động, gọi vốn đầu tư, …
1.2. Nguyên tắc hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tắc cơ bản là: có
mục đích, sử dụng tiết kiệm và có lợi, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử
dụng đồng vốn một cách hợp pháp. Nghĩa là doanh nghiệp sử dụng vốn của mình
theo đúng mục đích, tuân thủ theo các kỷ luật tài chính, kỷ luật tín dụng và kỷ luật
thanh toán của Nhà nước đã ban hành. Cấp phát và chi tiêu theo đúng chế độ thu
chi của Nhà nước, không chỉ sai phạm vi quy định, không chiếm dụng vốn của
ngân sách, ngân hàng và của các doanh nghiệp khác.
1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ của quản lý tài chính doanh nghiệp
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hoá giá trị của doanh nghiệp. Vấn
đề tài chính liên quan đến mọi hoạt động của doanh nghiệp vì các quyết định quản
lý hầu như được đưa ra sau những cân nhắc kỹ càng về tài chính. Vì vậy, mặc dù
quản lý tài chính là một trong các chức năng của quản lý doanh nghiệp nhưng mục
tiêu của quản lý tài chính có tính chất bao trùm các mục tiêu khác trong quản lý
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của quản lý tài chính là:
* Dài hạn: Hoạch định các giải pháp tối ưu trong từng chu kỳ của hoạt động
tài chính, đảm bảo sự liên kết chặt chẽ trong chu trình tài chính khép kín.
* Ngắn hạn: Luôn đảm bảo năng lực thanh toán của doanh nghiệp với nguồn


tài chính tối ưu - thoả mãn điều kiện đủ về số lượng, đúng về thời hạn.
Một cách cụ thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện các thủ tục
phân tích, đánh giá và hoạch định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết
định đúng đắn cũng như kiểm soát hữu hiệu quá trình thực hiệncác quyết định về
mặt tài chính với 3 nguyên tắc “vàng”:
- Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo năng lực thanh toán.
- Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao.
- Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí sử dụng vốn thấp.
1.4. Vị trí của quản lý tài chính trong quản lý doanh nghiệp
Quản lý tài chính có nhiều chức năng: quản lý sản xuất, quản lý nhân lực,…,
trong đó quản lý tài chính là một trong các chức năng của quản lý doanh nghiệp.
Trong sơ đồ tổ chức doanh nghiệp, bộ phận quản lý tài chính luôn được coi là một
bộ phận quan trọng bên cạnh người lãnh đạo cao cấp nhất của doanh nghiệp và
luôn có ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa ra những quyết định quan trọng đối với
doanh nghiệp. Tính chất quan trọng này là do vấn đề tài chính bao trùm mọi hoạt
động của doanh nghiệp và thông tin tài chính của doanh nghiệp luôn được quan
tâm bởi mọi chủ thể liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2. PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
2.1. Khái niệm và mục đích của phân tích tài chính
Phân tích tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số
liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua việc phân tích tài chính, người
sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro
của doanh nghiệp trong tương lai.
Phân tích tài chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp và đồng
thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại
thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt
được trong hoàn cảnh đó.
Mục đích của phân tích tài chính là giúp người sử dụng thông tin đánh giá
chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp.

Bởi vậy phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp là mối quan tâm của
nhiều nhóm người khác nhau như Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị, các nhà đầu
tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng chính, những người cho vay, các nhân
viên ngân hàng, các nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý,… kể cả các cơ quan
chính phủ và bản thân người lao động.
Mỗi một nhóm người có những nhu cầu thông tin khác nhau và do vậy, mỗi
nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính
của một doanh nghiệp. Mặc dầu mục đích của họ khác nhau nhưng thường liên
quan với nhau, do vậy, họ thường sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản giống
nhau để phân tích tài chính.
Mục đích tối cao và quan trọng của phân tích tài chính là giúp những người
ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực
trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tài chính
có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều phía.
2.2. Ý nghĩa của phân tích tài chính
- Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị: Mối quan tâm hàng đầu của
họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra họ còn quan tâm đến nhiều
mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp
nhiều sản phẩm với chi phí thấp, trả lương cao cho cán bộ công nhân viên, … Tuy
nhiên, một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được các mục tiêu này khi nó thực hiện
được hai mục tiêu cơ bản là kinh doanh có lãi và thanh toán được các khoản nợ.
Mặt khác, chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp là những người có
đầy đủ thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp hơn ai hết nên họ có nhiều lợi thế để
phân tích tài chính tốt nhất.
- Đối với các nhà đầu tư: Các cổ đông - là các cá nhân hoặc doanh nghiệp -
quan tâm trực tiếp đến tính toán của doanh nghiệp vì họ đã giao vốn cho doanh
nghiệp và có thể phải chịu rủi ro. Do đó, mối quan tâm của các nhà đầu tư hướng
vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán
vốn, …
Thu nhập của cổ đông là tiền chia lợi ích cổ phần và giá trị tăng thêm của

vốn đầu tư. Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh
nghiệp. Trong thực tế các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi
của doanh nghiệp. Vì vậy họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình
hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp.
Đồng thời các nhà đầu tư cũng quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu
quả của công tác quản lý. Những điều đó nhằm bảo đảm sự an toàn và tính hiệu
quả cho các nhà đầu tư.
- Đối với người cho vay: Mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng
trả nợ của doanh nghiệp, vì vậy họ đặc biệt chú ý đến lượng tiền và các tài sản
khác có thể chuyển đổi nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết
được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó
của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả. Ngoài ra, họ cũng rất quan
tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu vì số vốn của chủ sở hữu này là khoản bảo
hiểm của họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Nếu là những khoản cho
vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời
của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi vay dài hạn sẽ tuỳ thuộc vào khả
năng sinh lời này. Tuy nhiên, dù cho đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người
cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh
nghiệp đi vay.
- Đối với những người được hưởng lương trong doanh nghiệp: Khoản tiền
lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập duy nhất của người
hưởng lương.
- Đối với các nhà cung cấp: Họ phải quyết định có cho phép khách hàng sắp
tới được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay không. Cũng như những người cho
vay, họ cũng cần biết được khả năng thanh toán hiện tại và sắp tới của khách hàng.
Ngoài những đối tượng trên còn có nhiều nhóm người khác quan tâm đến
thông tin tài chính của doanh nghiệp như: các cơ quan tài chính, thuế, thống kê, các
nhà phân tích tài chính, … Họ đều có nhu cầu thông tin về cơ bản giống như những
người ở trên vì nó liên quan đến quyền lợi, trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và
tương lai của họ.

3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
3.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích
kinh tế. Khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý các nguyên tắc sau:
- Chọn tiêu chuẩn so sánh: Tiêu chuẩn so sánh là tiêu chuẩn lựa chọn làm
căn cứ để so sánh, được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà chọn
gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh thích hợp có thể là:
+ Số liệu kỳ trước.
+ Các mục tiêu đã dự kiến trước.
+ Các chỉ tiêu trung bình của ngành, khu vực kinh doanh.
- Điều kiện để so sánh được: Để tránh khập khiễng trong trình so sánh cần
chú ý một số điểm sau:
+ Các số liệu phản ánh cùng một nội dung kinh tế.
+ Các số liệu phải có cùng phương pháp tính toán.
+ Các số liệu phải tính toán theo cùng đơn vị đo.
+ Số liệu thu thập phải ở cùng phạm vi không gian và thời gian.
- Kỹ thuật so sánh: là một yếu tố quan trọng góp phần làm tăng hiệu quả của
việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu thường sử
dụng các kỹ thuật sau:
+ So sánh bằng số tuyệt đối: Để thấy được sự biến động về khối lượng, quy
mô của hiện tượng kinh tế.
+ So sánh bằng số tương đối: Thấy được kết cấu của mối quan hệ, tốc độ
phát triển, mức độ biến đổi của các hiện tượng kinh tế.
+ So sánh bằng số bình quân: Phản ánh đặc điểm chung của một đơn vị, một
bộ phận hay một tổng thể chung có cùng tính chất.
+ So sánh bằng mức độ biến động tương đối: Mức biến động tương đối là
chênh lệch giữa trị số của kỳ phân tích với trị số của kỳ gốc những đã điều chỉnh
theo quy mô phân tích. Trị số kỳ gốc phải được điều chỉnh mới đảm bảo điều kiện
so sánh.
+ So sánh theo chiều dọc: Là quá trình so sánh nhằm xác định tỷ lệ tương

quan giữa các chỉ tiêu trong một kỳ của từng báo cáo tài chính.
+ So sánh theo chiều ngang: Nhằm xác định, đánh giá chiều hướng biến
động của từng chỉ tiêu trên báo cáo nhiều kỳ.
3.2. Phương pháp phân tích nhân tố
Là phương pháp phân tích các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích nhân tố tác
động nên các chỉ tiêu đó.
- Phân tích nhân tố thuận: là phân tích các chỉ tiêu tổng hợp sau đó phân tích
các nhân tố tác động lên nó.
- Phân tích nhân tố nghịch: Trước hết phân tích từng nhân tố của chỉ tiêu rồi
trên cơ sở tiến hành phân tích chỉ tiêu tổng hợp.
Trong đó phân tích nhân tố thuận mang tính xác định và phân tích trong
không gian tĩnh, không xét đến các vấn đề biến động. Phân tích nhân tố nghịch là
phân tích mối quan hệ mang tính xác suất và xem xét biến động của các nhân tố
theo thời gian. Phân tích thuận là việc tiến hành phân tích các hiện tượng đã diễn ra
trong quá khứ tại thời điểm hiện tại, còn phân tích nhân tố nghịch là tại thời điểm
hiện tại nghiên cứu cho tương lai.
3.3. Phương pháp cân đối
Trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp có nhiều mối quan hệ cân đối
như: Cân đối giữa Tài sản và nguồn hình thành tài sản, cân đối giữa nhu cầu và khả
năng thanh toán.
Thông qua phương pháp cân đối, các nhà phân tích có thể đánh giá toàn diện
các quan hệ cân đối qua các mặt, cân đối trong từng mặt trong các quan hệ cân đối
chung đó, nhằm phát hiện những sự mất cân đối cần giải quyết, những tiềm năng
sẵn có của doanh nghiệp cần được khai thác.....
3.4. Phương pháp chi tiết
Mọi quá trình và kết quả kinh doanh đều có thể và cần thiết chi tiết theo
nhiều hướng khác nhau nhằm mục đích đánh giá khái quát kết quả đạt được.
Phương pháp phân tích cụ thể bằng nhiều biện pháp khác nhau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu.
- Chi tiết theo thời gian.

- Chi tiết theo thời điểm và phạm vi kinh doanh.
3.5. Phương pháp phân tích hệ số
Là một phương pháp quan trọng và thường được sử dụng trong phân tích tài
chính. Thông qua việc tính toán, so sánh và phân tích các hệ số tài chính cho phép
ta xác định rõ cơ sở, các mối quan hệ kết cấu và xu hướng quan trọng của tình hình
tài chính doanh nghiệp.
Các phương pháp phân tích rất quan trọng. Nếu ta nắm vững các phương
pháp phân tích kinh tế thì chúng ta mới có thể đánh giá một cách khách quan kết
quả quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó đề ra các giải pháp và
có các quyết định đúng đắn, kịp thời trong quá trình quản lý doanh nghiệp.
4. NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
4.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp
Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định về tình
hình tài chính của doanh nghiệp - giúp cho ta có được những thông tin khái quát về
tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay không khả quan.
Trước hết cần đánh giá quy mô vốn của doanh nghiệp sử dụng trong kỳ và
khả năng huy động vốn của doanh nghiệp thông qua việc so sánh tổng số tài sản và
tổng số nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm. Việc tăng giảm tổng nguồn vốn và
tổng tài sản giữa cuối kỳ so với đầu năm là ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
- Sự tăng giảm của TSLĐ và ĐTNH.
- Sự tăng giảm của TSCĐ và ĐTDH.
- Trong sự tăng giảm của TSLĐ và ĐTNH là do sự tăng giảm của các nhân
tố:
+ Tiền: Phản ánh số tiền mặt và ngân phiếu của doanh nghiệp có tại thời
điểm lập báo cáo gồm cả tiền Việt Nam và ngoại tệ, giá trị vàng bạc, đá quý......(đã
quy đổi theo đồng ngân hàng nhà nước Việt Nam) đang giữ tại quỹ của doanh
nghiệp. Lượng tiền mặt giữ quá nhiều trong quỹ làm cho đồng vốn hoạt động kém
linh hoạt, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Tuy nhiên lượng tiền mặt trong quỹ
của doanh nghiệp quá ít làm cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ thấp.
+ Các khoản phải thu: Việc cắt giảm các khoản phải thu phản ánh khả năng

thu hồi lại và lượng vốn mà doanh nghiệp còn phải thu của người mua và trả trước
cho người bán tại thời điểm lập báo cáo.
+ Hàng tồn kho: Hàng tồn kho quá nhiều phản ánh tình hình tiêu thụ hàng
hoá chậm khả năng thu hồi vốn bị kéo dài. Hàng tồn kho còn thể hiện sự tích trữ
hàng hoá của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Sự tăng giảm của TSCĐ và ĐTNH là do sự tăng giảm của:
+ Nợ phải trả là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ số nợ mà doanh thu có
trách nhiệm phải trả tại thời điểm lập báo cáo. Nợ phải trả phản ánh nguồn vốn mà
doanh thu có được do việc chiếm dụng của các doanh thu khác. Nợ phải trả giảm
về số tương đối và tỷ trọng trong khi tổng nguồn vốn tăng lên, trường hợp này
được đánh giá là tốt, thể hiện được khả năng thanh toán của doanh thu tăng lên.
Ngược lại nợ phải trả giảm do quy mô và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thu hẹp thì
được đánh giá là không tốt.
Hệ số tài trợ =
Nguồn vốn chủ sở hữuTổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn CSH: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ nguồn vốn CSH doanh
nghiệp. Sự tăng giảm của nguồn vốn CSH có ảnh hưởng lớn đến mức độ tự chủ về
mặt tài chính của doanh nghiệp. Nếu nguồn vốn CSH tăng và chiếm tỷ trọng cao
trong tổng nguồn vốn thì mức độ tự chủ, độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp
là cao và ngược lại nếu nguồn vốn CSH giảm về tỷ trọng và số tuyệt đối trong tổng
nguồn vốn khi đó ở mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp giảm.
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp cần tìm hiểu về
khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính.
Hệ số tài trợ là chỉ tiêu phản ánh mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh
nghiệp, nó cho biết nguồn vốn CSH chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn
vốn. Chỉ tiêu “Hệ số tự tài trợ” càng cao trong tổng số nguồn vốn và càng cao so
với kỳ trước chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao.
4.2. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Để kiểm soát các hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp cần xem xét tình hình biến động của các khoản mục trong báo cáo kết quả

kinh doanh. Khi phân tích, cần tính ra và so sánh mức tỷ lệ biến động giữa kỳ phân
tích so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu trong phần I “Lãi, lỗ” của báo cáo kết quả kinh
doanh. Với cách so sánh này, người phân tích sẽ biết được tình hình biến động cụ
thể của từng chỉ tiêu liên quan đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Để biết được hiệu quả kinh doanh, việc phân tích báo cáo kết quả kinh
doanh không dừng lại ở việc so sánh tình hình biến động của từng chỉ tiêu mà còn
so sánh chúng với doanh thu thuần (coi doanh thu thuần là gốc). Thông qua việc so
sánh này, người sử dụng thông tin sẽ biết được hiệu quả kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp so với các kỳ trước là tăng hay giảm hoặc so với các doanh nghiệp
khác là cao hay thấp. Ví dụ:
+ So sánh các khoản chi phí (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí
quản lý, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường với doanh thu thuần. Việc
so sánh này cho biết để có một đơn vị doanh thu thuần thì doanh nghiệp phải hao
phí bao nhiêu đơn vị chi phí.
+ So sánh các khoản lợi nhuận (lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi
nhuận sau thuế) với doanh thu thuần. Cách so sánh này cho biết cứ một đơn vị
doanh thu thuần thì đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đơn vị lợi nhuận.
Nếu mức hao phí trên một đơn vị doanh thu thuần càng giảm, mức sinh lợi
trên một đơn vị doanh thu thuần càng tăng so với kỳ gốc và so với các doanh
nghiệp khác thì chứng tỏ hiệu quả kinh doanh trong kỳ càng cao và ngược lại.
Chỉ tiêu doanh thu thuần có thể được tính theo 2 cách:
+ Lấy doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh: Theo cách này số liệu
doanh thu thuần làm gốc so sánh được căn cứ vào chỉ tiêu 1 (Mã số 10) trên phần
Lãi, lỗ của báo cáo kết quả kinh doanh. Cách này được sử dụng để phân tích hiệu
quả kinh doanh của hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
+ Lấy doanh thu thuần của tất cả các hoạt động kinh doanh: Theo cách này,
số liệu doanh thu thuần làm gốc so sánh được căn cứ vào chỉ tiêu 1 “Doanh thu
thuần (Mã số 10), chỉ tiêu 7 “Thu nhập hoạt động tài chính” (Mã số 31), chỉ tiêu 10
“Các khoản thu nhập bất thường” (Mã số 41) trên phần Lãi, lỗ của báo cáo kết quả
kinh doanh. Cách này được sử dụng để phân tích hiệu quả kinh doanh của tất cả

các hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp tiến hành trong kỳ (hoạt động kinh
doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường).

×