Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.47 MB, 207 trang )

■■

:

'--•!

-; s / í s g ỵ s '&'!* đ ỉ^ ” • *

TRẦN PHƯƠNCx THẢO

ẵSSS

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
TRONG TỐ TỤNG DÂN sự VIỆT

ssss

LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC
r £• v ■
‘ỉ A

'

^ •rỗ

^

1 •#$

ÍĨÀ NỘI - 28*1


. V ị

~í^


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

B ộ TU PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








TRÀN PHƯƠNG THẢO

BIỆN PHẤP khẩn CỈP tạm thời
TRONG TÁ TỤNG DÂN sự VIỆT HAM






Chuyên ngành : Luật Dân sư
M ã số: 62.38.30.0*1


LUẬN ÁN TIẾN S Ĩ LUẬT HỌC

N gười hướng dẫn khoa học:

1. TS ĐINH TRUNG TỤNG
2. TS TRẦN VĂN TRƯNG
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG BẠ! HỌC LUẬT HÀ NỘI ị
PHÒNG SỌC ■

A j f ì ) * > -[

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các so liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa tùng được ai công
bổ trong bất kì cơng trình nào khác.
Hà nội, ngày

thảng

năm 2012

Tác giả luận án


TRẦN PHƯƠNG THẢO


D A N H M ỤC CÁC CHŨ VIÉT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tổ tụng dân sự năm 2004

H Đ XX

: Hội đồng xét xử

H Đ TPTA N D TC

: Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao

LSHTT

: Luật sở hữu trí tuệ

LTC T A N D

: Luật tổ chức tòa án nhân dân

L TCV K SN D


: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

NQ

: Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của

số

02/2005/NQ-

HĐ TP

Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự

PLTTG QCVA DS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PL T TG Q C V A K T

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTG Q C TC LĐ

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

TAND


: Tòa án nhân dàn tối cao

TA N D TC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

PLTTDS

: Pháp luật tố tụng dân sự

VVDS

: Vụ việc dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

VKS

: Viện kiểm sát

VK SN D

: Viện kiểm sát nhân dân


V K SN D TC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


M ỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN c o BẢN VÈ BIỆN PHÁP KHẲN

13

CẤP TẠM THỜI TRONG TÓ TỤNG DÂN s ự
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời

13

trong tố tụng dân sự
1.2. Một sô vân đê cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự về biện pháp


43^

khẩn cấp tạm thời
chương

2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TÓ TỤNG DÂN s ự

74

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÈ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI VÀ THỤC
TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời và thực tiễn áp dạng

74

2.2. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và thực tiễn áp dụng

101

2.3. Trách nhiệm của các chủ thể do yêu cầu, áp dụng biện pháp

136

khẩn cấp tạm thời không đúng và thực tiễn áp dụng

CHƯƠNG 3: YÊU CẰU VÀ KIÉN NGHỊ HỒN THIỆN PHÁP LUẶT

146

TĨ TỤNG DÂN SỤ VIỆT NAM VÈ BIỆN PHÁP KHẨN CÁP TẠM THỜI

3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

146

về biện pháp khẩn cấp tạm thời
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về biện

154

pháp khẩn cấp tạm thời

KỂTLƯẬN

19Ỉ

DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

194

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

195


MỎ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIÉT CỦA VIỆC NGHIÊN c ứ u ĐÈ TÀI

Bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong tố tụng dân sự
(TTDS) luôn là mục tiêu hướng đến trong các hoạt động giải quyết các vụ việc dân

sự (VV DS) của tòa án nhân dân (TAND). Để đạt được mục tiêu này, trong những
trường họp cần thiết, TAND có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT)
theo quy định của pháp luật. BPKCTT được pháp luật tố tụng dân sự (PLTTDS) ghi
nhận từ khá lâu và hiệu quả nổi bật của nó đã được kiểm chứng qua thực tiễn TTDS
của rât nhiêu nước trên thế giới. Với BPKCTT, tòa án có thể giải quyết ngay nhu cầu
câp bách chính đáng của đương sự, bảo vệ ngay tức khắc bằng chứng dùng để giải
quyết VVDS hay bảo tồn nhanh chóng tài sản nhằm đảm bảo cho khả năng thi hành
án dân sự, từ đó bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích họp pháp của đưong sự khi mà VVDS
chưa có phán quyết chính thức giải quyết về nội dung.
Việt Nam hiện nay đã và đang khẩn trương thực hiện công cuộc cải cách tư
pháp và thủ tục tố tụng theo tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
và ngay sau đó là Nghị quyết số 49-NỌ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra.
Thực tiễn thực hiện cải cách tư pháp, cải cách thủ tục tố tụng cộng với thực tiễn của
việc hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua cho thấy TTDS của Việt Nam mà trước
hết là PLTTDS Việt Nam cần phải đáp ứng được hai đòi hỏi cơ bản đó là tính nhanh
chóng và tính bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự trong việc bảo vệ
quyền lợi của họ tại tòa án [80, tr. 86]. Một chế định của PLTTDS có khả năng đáp
ứng tương đổi tốt hai đòi hỏi cơ bản này chính là chế định BPKCTT. Chế định
BPK CTT mà cơ bản là các quy định về BPKCTT trong Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) đã ghi nhận, tạo cơ sở pháp lý họp pháp để trong những trường hợp
quyền, lợi ích họp pháp của đương sự trong TTDS cần được tòa án can thiệp, bảo vệ
ngay tức khắc, T A N D có quyền sử dụng một biện pháp tố tụng tương đối đặc biệt là
BPK CTT - một biện pháp có ý nghĩa bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích họp pháp của
đương sự, “góp phần bảo đảm tính thực tế, thiết thực cho việc giải quyết vụ án” của
TAND [21, ừ. 116].


2

Hiện nay, chế định BPKCTT được quy định chủ yếu tại chương VIII BLTTDS

gồm 28 điều luật cụ thể với nhiều nội dung khác nhau. Mặc dù so với các văn bản
PLTTDS trước đây, khi Việt Nam chưa có BLTTDS thì chế định BPKCTT được quy
định trong BLTTDS đã có một bước phát triển tương đối dài, rất đáng ghi nhận, tuy
nhiên, qua khoảng thời gian 6 năm (từ năm 2005 khi BLTTDS bắt đầu có hiệu lực
cho đến nay) thực tiễn thực hiện các quy định này đã cho thấy nhiều quy định bộc lộ
những bất cập, vướng mắc, chưa thực sự phù họp với đòi hỏi của thực tiễn TTDS.
Chính thực trạng pháp luật cịn nhiều vướng mắc, bất cập đã là nguyên nhân rất cơ
bản làm các tịa án ít áp dụng BPKCTT. Kết quả khảo sát thực tiễn áp dụng
BPK.CTT trong TTDS 6 năm qua cho thấy tỉ lệ trung bình các VADS được tịa án áp
dụng BPKCTT là rất thấp, chỉ là 0,13% trên tổng số các VADS được tòa án thụ lý
(xem bảng 1 trang 95 của luận án). Ngay cả đối với phía đương sự, mặc dù họ được
pháp luật công nhận quyền u cầu tịa án áp dụng BPKCTT nhưng khi có quyền, lợi
ích hợp pháp cần được tịa án bảo vệ khẩn cấp, đương sự cũng rất e dè, hoặc không
tự tin để đưa ra yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT. Tại nhiều tòa án nước ta, từ khi
việc giải quyết vụ án dân sự (VADS) được thực hiện theo quy định của BLTTDS
đến nay vẫn chưa hề có VADS nào có áp dụng BPKCTT. Rõ ràng, xét về mặt lý
luận, chế định BPKCTT có ý nghĩa rất thiết thực, BPKCTT rất cần được áp dụng để
bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích họp pháp của đương sự, nhung thực tiễn TTDS ở Việt
N am trong thời gian qua lại cho thấy chế định BPKCTT chưa phát huy được hiệu
quả như nó vốn có, biện pháp tố tụng này rất ít khi được áp dụng.
Nhận biết được nhiều quy định của BLTTDS (trong đó có các quy định về
BPKCTT) cịn bất cập, hạn chế, cần phải được khắc phục, hoàn thiện, Uỷ ban
thường vụ quốc hội đã phân công cho Tịa án nhân dân tối cao (TANDTC) chủ trì,
phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLTTDS. Trong q trình thực hiện Dự án, đã có nhiều quan điểm, ý kiến
có giá trị được đưa ra nhằm sửa đổi, bổ sung, hồn thiện BLTTDS trong đó có hồn
thiện chế định BPKCTT. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
mới đưọc thông qua ngày 29 tháng 3 năm 2011 cho thấy phần các quy định về
BPKCTT khơng có nội dung nào được sửa đổi, bổ sung và như vậy Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS vẫn chưa cải thiện được hiệu quả điều chỉnh của



3

PLTTDS về BPKCTT, chưa cải thiện đưọ'c thực trạng pháp luật hiện nay về
BPKCTT. Điều này có nghĩa là tình trạng “ngại” áp dụng BPKCTT tại các tòa án sẽ
vẫn tiêp diễn. Luật sửa đối, bổ sung một số điều của BLTTDS chưa đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn áp dụng BPKCTT trong TTDS. Trong tình hình hiện nay, việc
nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về các quy định của PLTTDS về BPKCTT, về thực
tiễn áp dụng các quy định của PLTTDS về BPKCTT để nhận biết được những thành
công về lập pháp dẫn đến những kết quả đã đạt được thực tiễn áp dụng BPKCTT
cũng như những bất cập, hạn chế trong công tác lập pháp để từ đó đưa ra các kiến
nghị nhằm hồn thiện hon nừa chế định BPKCTT, nâng cao hơn nữa hiệu quả của
việc áp dụng BPKCTT là vô cùng cần thiết, cần được thực hiện ngay. Việc nghiên
cứu đề tài này sẽ góp phần thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng của công
cuộc cải cách tư pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ,
bình đẳng, cơng khai, minh bạch” [17, tr. 5] và tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị
quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị: “hoàn thiện các thủ tục tố tụng
tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, cơng khai, minh bạch, tơn trọng và bảo vệ
quyền con người” [18, tr. 3].
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐÊ TÀI

Trong thời gian qua, Việt Nam mới có một sổ ít cơng trình nghiên cứu có đề
cập đến vấn đề này. Có thể một trong những lý đo cơ bản dẫn đến thực trạng này là
các văn bản PLTTDS trước đây có q ít quy định về BPKCTT, chỉ là một, hai điều
luật tương đối đon giản trong các văn bản dưới luật như Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
(PLTTGQCTCLĐ). Thực tiễn các hoạt động tố tụng giải quyết các VADS, lao động,

thưong mại trong suốt một thời gian dài trước khi có BLTTDS cũng cho thấy
BPKCTT khơng được các tịa án chú trọng áp dụng nên BPKCTT cũng chưa thể
hiện được hiệu quả vốn có của nó trong thực tiễn giải quyết các VADS. Như vậy, với
sổ điều luật ít ỏi và với hiệu quả áp dụng trong thực tiễn TTDS không nổi bật nên
BPKCTT trong TTDS chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Trong suốt một thời gian dài trước khi ban hành BLTTDS rất ít cơng trình nghiên


4

cứu về BPKCTT. Chỉ sau khi Nhà nước ta ban hành BLTTDS, vấn đề BPKCTT
trong TTDS mới phần nào thu hút hơn sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu và
cán bộ làm công tác thực tiễn. Sau đây việc điểm qua một số cơng trình nghiên cứu
trong nước cũng như ngoài nước trong khoảng thời gian hon một thập kỷ qua sẽ đưa
lại một cái nhìn tổng thể hon về tình hình nghiên cứu về BPKCTT trong TTDS Việt Nam:
- Trước khi ban hành BLTTDS gần như không có cơng trình nghiên cứu riêng,
chun sâu nào về vấn đề BPKCTT trong TTDS. Có chăng chỉ là một số cơng trình
nghiên cứu về một số nội dung cơ bản của PLTTDS, trong đó có đề cập sơ qua đến
BPKCTT. Trong một sổ cơng trình nghiên cứu đó, cuốn sách “Luật tố tụng dân sự
Việt N am (lược giải) của tiến sĩ luật khoa, luật sư Nguyễn Mạnh Bách do nhà xuất
bản Đ ồng Nai xuất bản năm 1996 có đề cập sâu hon về BPKCTT so với những cơng
trình khác. Ví dụ tại điểm B Đoạn 2 Chương II của cuốn sách, tác giả có viết về
quyền hạn của Chánh án tịa án cấp sơ thẩm, trong đó có quyền quyết định áp dụng
BPKCTT. Trong cuốn sách này tác giả viết tới 5 trang về BPKCTT theo quy định tại
Điều 41, Điều 42 PLTTGQCVADS nhưng sự nhìn nhận của tác giả về BPKCTT
trong TTDS bị chi phối nhiều bởi PLTTDS cũ trước đó và tác giả chỉ tiếp cận
BPK CTT dưới góc độ thuộc quyền ban hành của Chánh án. Tác giả đă phân chia
thẩm quyền của Chánh án theo hai loại: quyền ban hành các án lệnh phê đơn và
quyền ban hành các án lệnh cấp thẩm để phân tích và chỉ ra điểm khác nhau giữa hai
loại quyền hạn này. Nhận xét một cách khách quan, tác giả đã tiếp cận BPKCTT

trong TTDS dưới lăng kính của một nhà nghiên cứu rất hiểu biết PLTTDS trước đây,
khi tnà TTDS Việt N am chịu ảnh hưởng rất rõ nét của PLTTDS Pháp. Tác giả cũng
đã phân tích về yếu tố khẩn cấp, về thủ tục xin án lệnh phê đơn cũng như thủ tục cấp
thẩm. Tuy nhiên, PLTTGQCVADS năm 1989 đã khơng cịn phân chia quyền hạn
của Chánh án theo hai trường hợp như tác giả nêu. Vì vậy, cuốn sách trên của tác giả
Nguyễn Mạnh Bách có thể dùng để tham khảo về PLTTDS trước khi có
PLTTG QCVA DS.
- Luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành dân sự “Biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tổ tụng dân sự Việt N am ” của tác giả Nguyễn Văn Pha, mã số 50507 năm 1997
nghiên cứu về BPKCTT. Có thể khẳng định, trước khi có BLTTDS, đây là cơng
trình nghiên cứu hiếm hoi, có ý định nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về BPKCTT.


5

Trong luận văn của mình, tác giả đã chú trọng nghiên cứu về một số vấn đề lý luận
của BPKCTT như khái niệm, ý nghĩa của BPKCTT, sơ lược quá trình phát triển của
chế định BPKCTT trong PLTTDS, tham khảo một số quy định của PLTTDS một số
nước về BPKCTT. Đặc biệt, tác giả đã tìm hiểu và phân tích các quy định của
PLTTG QCVADS, chỉ ra những vướng mắc, bất cập của luật hiện hành, trên cơ sở đó
m ạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
PLTTGQCVADS... Tuy nhiên, tính cho đến nay, cơng trình nghiên cứu của tác giả
này về BPKCTT đã được thực hiện cách đây nhiều năm, nội dung được nghiên cứu
dựa trên các quy định của PLTTGQCVADS năm 1989 - một văn bản đã bị thay thế
bởi BLTTDS nên mặc dù luận văn này vẫn có giá trị tham khảo về một số vấn đề lý
luận nhưng phân tìm hiểu về các quy định của PLTTDS khơng cịn phù hợp, một số
kiến nghị khơng cịn tính thời sự, khơng cịn khả năng đáp ứng địi hỏi của thực tiễn.
- Trong nội dung của cuộc Hội thảo khoa học “N hũng điểm mới và những vấn
đề đặt ra trong thực tiễn thi hành BLTTDS” tổ chức vào tháng 12/2004 của Học viện
tư pháp cũng có nội dung đề cập đến BPKCTT trong BLTTDS nhưng chỉ dưới góc

độ tỉm hiểu những điểm mới của BLTTDS, trong đó có chế định BPKCTT. Những
nghiên cứu được công bố trong hội thảo chỉ là những điểm mới trong quy định của
BLTTDS so với PLTTGQCVADS về BPKCTT mà khơng đi sâu tìm hiểu các vấn đề
lý luận về BPKCTT như khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất, đặc điểm cũng như
các yêu cầu đặt ra về mặt lý luận đối với BPKCTT.
- Các sách chuyên ngành đã xuất bản như Giáo trình Luật TTDS của khoa Luật
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản năm 1995, Giáo trình Luật TTDS của
Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007, Giáo trình
Luật TTDS của Trường Đại học Luật H à Nội do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản
năm 2010 đều có phần về BPKCTT. Vì là giáo trình nên các vấn đề như khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa của BPKCTT trong TTDS, các quy định của BLTTDS về
B P K C T T ... chỉ được đề cập ở mức độ đại cưong.
- Cuốn sách tham khảo Luật TTDS Việt Nam - Nghiên cún và so sánh của tác
giả Tống Quang Cường do Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
xuất bản năm 2007 cũng có viết một phần về BPKCTT trong TTDS. Mặc dù cuốn
sách này không viết riêng về BPKCTT trong TTDS nhưng trong cuốn sách này, với


6

phân viết về áp dụng BPKCTT trong TTDS, tác giả đã chỉ ra được một số vấn đề lý
luận về BPKCTT trong TTDS như khái niệm, đặc điểm của BPKCTT, làm nổi bật
được một số nội dung cơ bản của PLTTDS Việt Nam hiện nay về BPKCTT như các
loại BPK.CTT, thẩm quyền và thủ tục ra quyết định áp dụng BPKCTT, hiệu lực của
quyết định và hậu quả pháp lý của quyết định áp dụng BPKCTT. Tuy nhiên, vì cuốn
sách đưọc viết theo tinh thần đề cập tới toàn bộ các vấn đề cơ bản của PLTTDS,
phần viết về áp dụng BPKCTT chỉ là một nội dung nhỏ, chiếm rất ít số trang trong
cn sách đó, mặt khác với mục đích chủ yếu là tìm hiểu các quy định của PLTTDS
hiện hành về áp dụng BPKCTT, chỉ ra một vài điểm mới nổi bật trong quy định của
BLTT DS với PLTTGQCVADS và đưa ra nhận xét về những điểm mới đó nên tác

giả đã khơng đi sâu giải quyết các vấn đề lý luận về BPKCTT. Vì thể, mặc dù tác giả
có đưa ra khái niệm, đặc điếm của BPKCTT nhung lại chưa lý giải cơ sở lý luận và
cơ sở thực tiễn của việc xây dụng nên khái niệm và đặc điểm của BPKCTT, cũng
như chưa lột tả được bản chất của BPKCTT, của việc áp dụng BPKCTT trong
TTDS. Với tiêu đề “áp dụng BPKCTT”, tác giả chỉ tập trung vào việc áp dụng
BPKCTT và một vài chỗ tác giả cuốn sách không phân biệt rõ giữa vấn đề áp dụng
BPKCTT với vấn đề BPKCTT trong TTDS, vỉ thế một vài nhận xét của tác giả về
đặc điểm của BPKCTT cần được bàn luận thêm.
- Cuốn sách tham khảo “Những vấn đề cơ bản của BLTTDS” của Vụ công tác
lập pháp do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2004 viết về những nội dung cơ bản
của BLTTDS, trong đó có đề cập đến các quy định của BLTTDS về BPKCTT. Với
mục đích tìm hiểu những vấn đề cơ bản của BLTTDS, phần viết về BPKCTT chỉ nêu
sơ lược, vắn tắt các quy định của BLTTDS về BPKCTT, nêu ra một vài điểm mới
trong quy định của BLTTDS về BPKCTT, vì thế chủ yếu là người đọc chỉ tham khảo
được sơ lược quy định của BLTTDS về BPKCTT.
- Cuốn sách tham khảo “Bình luận khoa học một số vấn đề của PLTTDS và
thực tiễn áp dụng” của Tiến sĩ Lê Thu Hà do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản bình
luận về nhiều vấn đề trong PLTTDS Việt Nam, trong đó có bình luận về BPKCTT.
Trong cuổn sách này, ở một mức độ nhất định, tác giả có giải thích về khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của BPKCTT, đặc biệt chú trọng đi sâu phân tích điểm mới của
BLTTDS về BPKCTT, chỉ ra hướng áp dụng trong thực tiễn TTDS. Từ phần viết


7

này, người đọc vừa có thể hình dung được thực chất BPKCTT có ý nghĩa gì, các đặc
điểm của nó ra sao, PLTTDS đã có sự phát triển như thể nào về chế định BPKCTT,
kh i áp dụng những điểm mới đó vào thực tiễn tố tụng thì áp dụng như thể nào cho
đúng. Tuy nhiên, cũng như những cuốn sách tham khảo khác, cuốn sách này viết về
nhiều vấn đề cơ bản của PLTTDS nên tác giả đã không có điều kiện đề cập sâu, đầy

đ ủ tồn bộ các nội dung của chế định BPKCTT cũng như một số vấn đề lý luận khác
v ề BPKCTT.
-

M ột số ít các bài viết được đăng trên một số tạp chí pháp luật chuyên ngành

n h ư Tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội; Tạp chí Tịa án nhân dân
c ủ a TANDTC, Tạp chí N hà nước và pháp luật của Viện nghiên cứu Nhà nước và
P háp luật; Tạp chí K iểm sát của VKSNDTC hoặc một vài bài tham luận của một vài
tác giả trong các cuộc hội thảo về PLTTDS Việt Nam có đề cập tới BPKCTT trong
T TD S... Có thể nêu ra những tác giả điển hình có một số bài viết đề cập đến
BPK.CTT trong TTDS như tác giả Trần Anh Tuấn với các bài như “Chế định
B P K C T T trong BLTTDS Việt N am ”, “Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế” ...; tác giả Chu Xuân Minh với một số bài viết, bài
tỉham luận tại các cuộc hội thảo về PLTTDS như “Cần thống nhất tố tụng kinh
đloanh, thương mại với tố tụng dân sự”, “Tham luận về biện pháp khẩn cấp tạm thời
tirước khi khởi kiện” ...; Tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương với bài viết “Áp dụng
B P K C T T trong giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại tòa án: Những
v ấ n đề đặt ra cho việc hồn thiện BLTTDS” đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 3 năm 2010; bài viết của Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa “BPKCTT
tirong tổ tụng trọng tài” đăng trên Tạp chí Nghiên cửu Lập pháp số 23 tháng 12 năm
2010.... So với các vấn đề nghiên cứu khác, số bài viết về vấn đề BPKCTT trong
T T D S là khá ít ỏi. Vì chỉ dừng lại ở mức độ là một bài viết, một bài tham luận nên
c ác tác giả cũng chỉ tiếp cận BPKCTT dưới một góc độ nhất định, với một khía
c.ạnh, một nội dung cụ thể nhất định. Một điều cũng dễ nhận thấy là các tác giả có
bài viết về BPKCTT trong TTDS thường là những người có trình độ khá cao (tiến sĩ,
p>hó giáo sư hoặc là thạc sĩ). Điều này chứng tỏ BPKCTT trong TTDS là một vấn đề
nghiên cứu tương đối khó và vấn đề này chưa được xác định là một nội dung cơ bản
c ủ a TTDS. Có lẽ do cơ sở thực tiễn dựa vào để nghiên cứu là số điều luật quy định



về vấn đề này không nhiều, tài liệu để tham khảo nghiên cứu vấn đề này là rất ít nên
mặc dù sau khi có BLTTDS, bài viết về BPKCTT trong TTDS đã nhiều hơn nhưng
nhìn chung các bài viết này chưa đưa đến cho người đọc cái nhìn tồn cảnh về
BPKCTT.
Nguồn tài liệu ngun bản bằng tiếng nước ngồi có đề cập đến BPKCTT
(trong sách nước ngoài, dịch sang tiếng Anh, BPKCTT là Provisional measures) mà
nghiên cứu sinh tham khảo được là cuốn sách “On Civil Procedure” của tác giả
J.a.Jolowicz; cuốn “Compliance with Decisions o f the I Court o f Justice” ; cuốn
“Fifìty yeas o f the international court o f justice” . Ngoài ra một số cuốn sách đã được
dịch sang tiếng Việt cũng được nghiên cứu sinh tham khảo như Kỷ yếu của Dự án
VIE/95/017 về PLTTDS; một số tài liệu của các cuộc hội thảo về PLTTDS do Nhà
Pháp luật Việt - Pháp tổ chức tại Hà Nội... Nhìn chung, trong các tài liệu này,
BPKCTT cũng chỉ được đề cập dưới góc độ là một nội dung rất nhỏ với lượng thông
tin hạn chế.
T ừ việc điểm qua các cơng trình nghiên cứu về BPKCTT trong TTDS có thể
khẳng định cho đến hiện tại, trong nghiên cứu khoa học pháp luật TTDS chưa có
cơng trình nghiên cứu nào có thể mang đến cho người đọc cái nhìn tồn cảnh, sâu
sắc về BPKCTT trong TTDS. Vì thế luận án này được hoàn thành với tham vọng sẽ
là một cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chun sâu, tồn diện và có tính hệ
thống về vấn đề BPKCTT trong TTDS Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn. Luận án sẽ
là một tài liệu chuyên khảo, đề cập khá đầy đủ các khía cạnh khác nhau cũng như
các nội dung khác nhau của BPKCTT trong TTDS.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ NGHIÊN c ứ u ĐÈ TÀI

* Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về BPKCTT trong TTDS.
- L àm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong những quy định của PLTTDS Việt
Nam hiện hành về BPKCTT (chủ yếu là các quy định trong BLTTDS) và những
vướng m ắc trong quá trình áp dụng các quy định đó trong thực tiễn giải quyết các

VVDS tại TAND
- Đ ư a ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BPKCTT.


9

* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đê đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài phải thực hiện được các
nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng và nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về
BPKCTT trong TTDS.
- Phân tích, so sánh, đánh giá đúng thực trạng các quy định của PLTTDS Việt
Nam hiện nay về BPKCTT và việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn giải
quyết các vụ việc dân sự của TAND.
- Xác định rõ các yêu cầu đặt ra đối với việc hồn thiện PLTTDS về BPKCTT,
trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện PLTTDS về
BPKCTT.

4. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ứ u ĐÈ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận về BPKCTT trong TTDS.
- Các quy định của PLTTDS Việt Nam (đặc biệt là các quy định của PLTTDS
Việt Nam hiện hành) và một số quy định PLTTDS của một số nước trên thế giới về
BPKCTT.
- Thực tiễn thực hiện các quy định của PLTTDS Việt Nam về BPKCTT tại các
tòa án của Việt Nam trong những năm gần đây.
BPKCTT trong TTDS là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm vi
nghiên cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau và
với nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, luận án tập
trung nghiên cứu vào những nội dung cơ bản như sau:

- Luận án tập trung nghiên cứu về BPKCTT trong TTDS mà khơng có tham
vọng nghiên cứu sâu về BPKCTT trong các tố tụng khác như tố tụng trọng tài, tố
tụng hành chính.
- Trong phần nghiên cứu về khái niệm BPKCTT trong TTDS, mặc dù luận án
có nghiên cứu BPKCTT trong TTDS dưới nhiều phương diện cụ thể khác nhau
nhưng luận án có tập trung nghiên cứu sâu hơn về BPKCTT trong TTDS dưới
phương diện là một chế định pháp luật. Chủ ý này xuất phát từ nhận thức: trong


10

BL r ĨD S của hầu hết các nước, BPKCTT đều được quy định là một chương tương
đối đồ sộ gồm nhiều điều luật quy định về nhiều nội dung khác nhau có liên quan
đến BPKCTT. Mặt khác, cho dù BPKCTT có được nhìn nhận dưới góc độ nào thì
pháp luật về BPKCTT vẫn được coi là cơ sở cho mọi sự nhìn nhận. Nghiên cứu vấn
đề R P K C T T trong TTDS dưới góc độ pháp luật có góc độ nghiên cứu rộng nhất, có
khả năng bao quát được các nội dung cơ bản của BPKCTT dưới các góc độ khác.
Chính vì vậy, trong suốt q trình triển khai nghiên cứu các nội dung của luận án,
luận án ln chú trọng nghiên cứu sâu hơn dưới góc độ là một chế định pháp luật.
N hững góc độ khác, những vấn đề lý luận khác về BPKCTT trong TTDS, nghiên
cứu sinh sẽ tiếp tục nghiên cứu ở các cơng trình sau này.
- Mặc dù trong luận án có tham khảo PLTTDS của nhiều nước khác nhau và
tham khảo PLTTDS của Việt Nam trước đây về BPKCTT nhưng luận án tập trung
nghiên cứu các quy định của PLTTDS Việt Nam hiện hành về BPKCTT mà chủ yểu
là các quy định của BLTTDS về BPKCTT và Nghị quyết hướng dẫn thi hành các
quy định của BLTTDS về BPKCTT của HĐTPTANDTC.
- Vì định hướng nghiên cứu là tập trung nghiên cứu dưới góc độ pháp luật nên
các kiến nghị mà nghiên cứu sinh đưa ra trong luận án cũng chỉ tập trung kiến nghị
về hồn thiện PLTTDS nhằm góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của các quy
định PLTTD S về BPKCTT chứ không đề cập tới tổng thể các giải pháp khác nhau

nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng BPKCTT.
- Thực tiễn của việc thực hiện các quy định của PLTTDS Việt Nam hiện hành
về IỈPK C TT được nghiên cứu sinh nghiên cứu trong thời gian 6 năm, từ khi
BLTTD S có hiệu lực (năm 2005) đến năm 2010.
5. PHU ONG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u

Trong suốt quá trình thực hiện luận án, các nội dung trong luận án đều được
nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đặc biệt, nghiên cứu
sinh xác định công tác xây dụng và hoàn thiện PLTTDS về BPKCTT phải quán triệt,
tuân theo các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam về cải cách tư pháp
và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, vì thế các kiến nghị hồn thiện


11

pháp luật đều được xuất phát và thực hiện dựa trên những quan điểm chỉ đạo đó.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận án còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành phù họp khác như phân tích, chứng minh, so
sánh, diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học như khảo sát thực tế tại
một số tòa án, sử dụng kết quả thống kê của ngành tòa án và kiểm sát để làm sáng tỏ
những vấn đề nghiên cứu trong luận án.

6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án là một cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tương đối tồn diện và
có hệ thống về BPKCTT trong TTDS. Nhừng đóng góp mới nổi bật của luận án thể
hiện ở những nội dung sau:
- Luận án đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận rất cơ bản, quan trọng về
BPKCTT trong TTDS, đặc biệt là vấn đề khái niệm BPKCTT trong TTDS, các dấu
hiệu, đặc điểm đặc trưng của BPKCTT trong TTDS, ý nghĩa của BPKCTT trong

TTDS, những vấn đề cơ bản của PLTTDS về BPKCTT và những tiêu chí cần đạt
được đối với PLTTDS về BPKCTT. Việc làm sáng tỏ nhũng vấn đề lý luận này sẽ là
cơ sở để tiếp cận các quy định của PLTTDS hiện hành về BPKCTT trong TTDS, là
định hướng cho việc kiến nghị hoàn thiện PLTTDS về BPKCTT. N hững vấn đề lý
luận này từ trước đến nay chưa có tác giả nào đề cập một cách hệ thống, chuyên sâu
trong những cơng trình nghiên cứu khoa học về BPKCTT trong TTDS.
- Luận án đã phân tích các quy định của PLTTDS Việt Nam hiện nay (chủ yếu
là các quy định của BLTTDS) về BPKCTT và thực tiễn thực hiện các quy định đó
trong những năm gần đây, từ đó chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định
của PLTTDS hiện nay về BPKCTT. Không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những vướng
mắc, bất cập đó, luận án cịn phân tích để tìm ra ngun nhân của tình trạng các quy
định của PLTTDS về BPKCTT ít có cơ hội được áp dụng vì các tịa án rất ít khi
quyết định áp dụng BPKCTT.
- Luận án đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của
BLTTDS về BPKCTT nhằm hoàn thiện PLTTDS về BPKCTT, từ đó góp phần nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng BPKCTT trong TTDS, tòa án sẽ ngày càng bảo vệ tốt
hơn, kịp thời hơn quyền, lợi ích họp pháp cho các chủ thể trong TTDS. Những kiến


12

nghị cụ thể về các chủ thể có quyền yêu cầu, thời điểm yêu cầu, thủ tục yêu cầu, các
BPKCTT được yêu cầu, trách nhiệm của chủ thể đã yêu cầu và áp dụng BPKCTT
không đúng... đã đưa ra trong luận án là những kiến nghị mới, chưa được tác giả nào
đưa ra và được dựa trên những căn cứ, lập luận tương đối khoa học, phù hợp với chủ
trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN.

7. Ý NGHĨA THỤC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
Kết quả của việc nghiên cứu của luận án góp phần vào việc hồn thiện

PLTTDS về BPKCTT nói riêng và hồn thiện PLTTDS Việt Nam nói chung.
Luận án cịn là tài liệu tham khảo trong cơng tác nghiên cứu, giảng dạy, học
tập Luật TTDS Việt Nam cho các cơ sở chuyên nghiên cứu pháp luật, đào tạo cán bộ
pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu hướng dẫn trong việc
áp dụng PLTTDS về BPKCTT nhằm đảm bảo tính thống nhất và chính xác trong
thực tiễn áp dụng BPKCTT trong giải quyết các VADS tại TAND.
Các kiến nghị nhằm hoàn thiện PLTTDS được đưa ra trong luận án còn là tài
liệu tham khảo trong q trình hồn thiện PLTTDS nói riêng, hồn thiện pháp luật
nói chung.
8. K ÉT CÁU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần m ở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về BPKCTT trong TTDS.
Chương 2: Các quy định của PLTTDS Việt Nam hiện hành về BPKCTT và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Yêu cầu và kiến nghị hoàn thiện PLTTDS về BPKCTT.


13

CHƯƠNG 1

NHŨNG VẨN ĐÈ LÝ LUẬN c o BẢN VÈ BIỆN PHÁP
KHẤN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN s ụ







1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỀM, Ỷ NGHĨA CỦA BIỆN PHÁP KHẨN CÁP TẠM THỜI
TRONG TÓ TỤNG DÂN sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thòi trong tố tụng dân sự
Vấn đề công nhận các quyền con người là vấn đề nhân quyền đã và đang được
đặt ra với mỗi quốc gia trên thế giới. Việc công nhận các quyền này quan trọng đến
mức trong cuốn sách “Các quyền con người” do Liên Hiệp Quốc xuất bản để kỷ
niệm 30 năm ngày ra đời của bản Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền đã khẳng
định “chúng ta không thể sống như con người nếu khơng có các quyền này” [98, tr. 26].
Công nhận các quyền con người sẽ đồng nghĩa với việc cần thiết phải ghi nhận nó trong
hệ thống pháp luật của quốc gia, coi đó là sự đảm bảo cho mỗi chủ thể có thể thụ
hưởng và tham gia tích cực vào q trình thực hiện các quyền đó. Nhung nếu chỉ
dừng lại ở việc ghi nhận quyền cho các chủ thể và các chủ thể tích cực thực hiện
quyền của mình thì trong nhiều trường họp quyền con người vẫn không được đảm
bảo thực hiện,

về điều này,

nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Đẩu đã có nhận xét và nhận

xét này đã nhận được rất nhiều sự đồng tình, đó là “Một quyền lợi được luật pháp
cơng nhận nhiều khi khơng đủ đảm bảo cho người có chủ quyền hưởng dụng: quyền
lợi có thể bị phủ nhận, bị xâm phạm” [19, tr. 3]. Vì thể một yếu tố rất quan trọng,
thậm chí quan trọng hơn cả là pháp luật phải tạo ra được nhũng thiết chế đặc biệt để
thực hiện và bảo vệ các quyền con người đă được pháp luật công nhận trong trường
họp chúng bị phủ nhận hoặc bị xâm phạm. Trong suốt lịch sử phát triển của nhân
loại, có một thiết chế đã tỏ rõ tính hiệu quả, đó là chủ thể của những quyền, lợi ích
khi bị xâm phạm, bị phủ nhận sẽ tìm đến tòa án - cơ quan tư pháp của nhà nước để
nhờ tòa án bảo vệ bằng một hoạt động đặc thù là xét xử. Quyền tìm đến tịa án để
nhò’ tòa án bảo vệ cũng là một quyền con người được ghi nhận tại Tun ngơn tồn

thế giới về nhân quyền của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 19/12/1948.


14

Trong các quyền con người, các quyền về dân sự được xem là có tính chất nền
tảng, cơ bản, thiết yếu nhất. Cũng như các quyền con người khác, các quyền về dân
sự cúa các chủ thể được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia và được
bảo hộ chặt chẽ. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Đại Hội
đồng Liên Họp Quốc ngày 16/12/1966 đã đảm bảo rằng: bất cứ người nào bị xâm
phạm các quyền và tự do được cơng nhận trong cơng ước này thì đều được bảo hộ
pháp lý một cách có hiệu quả [98, tr. 223]. Sự bảo hộ pháp lý được nói đến ở đây
cũng chính là việc cơng nhận các chủ thể có quyền và lợi ích dân sự muốn thực hiện
hoặc mn bảo vệ các quyền và lợi ích của mình có quyền tìm đến tịa án có thẩm
quyền để u cầu tịa án bảo vệ.
Đe bảo vệ các quyền và lợi ích dân sự cho các bên tranh chấp một cách khách
quan, công bằng và đúng pháp luật, việc giải quyết các tranh chấp đó thường phải
tn theo một quy trình TTDS chặt chẽ do pháp luật quy định. Quy trình TTDS này
bao gồm nhiều giai đoạn tố tụng, các giai đoạn này được thực hiện tuần tự, tiếp nối
nhau, giai đoạn này được thực hiện mới có cơ sở cho giai đoạn sau được thực hiện.
Vì thế, nhìn chung thời gian cần thiết để có kết quả giải quyết nội dung các VVDS
đã phát sinh tại tịa là khơng ngắn, khơng thể nhanh chóng như mong m uốn của
đương sự và mặc dù có muốn thì tịa án cũng khơng thể bảo vệ quyền, lợi ích cho
đương sự một cách nóng vội. Ngoài yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tố
tụng do luật định, việc giải quyết các VVDS tại tòa án còn phải đảm bảo một yêu cầu
khác cũng quan trọng không kém, yêu cầu này được tất cả các nước theo hệ thống
phap luật dân sự và các nước theo hệ thống pháp luật án lệ coi như một nguyên tắc tố
tụng: đó là nguyên tắc xét xử kịp thời. Nguyên tắc xét xử kịp thời được công nhận và
đề cao ngay từ giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển của TTDS. Được hình
thành từ án lệ của tòa án Châu Âu về quyền con người, nguyên tắc này ngày càng

được chú trọng thực hiện bởi hiệu quả của nó đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích của
đương sự tại tịa án [43, tr. 26]. Nguyên tắc xét xử kịp thời nhấn mạnh vai trò của tòa
án trong việc giải quyết kịp thời các yêu cầu của đương sự trong VVDS, nhấn mạnh
vai trò của tòa án trong việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của các đương
sự trong q trình đương sự tìm đến tịa án. Để có thể làm được điều này, trước hết


15

tịa án cần phải tiến hành nhanh chóng quy trình tố tụng theo luật định để có được
phán quyết về việc giải quyết về nội dung VVDS một cách sớm nhất, tránh lãng phí
thời gian, tiền của, cơng sức của tòa án cũng như các bên đương sự. Tuy nhiên, vì
quy trình tố tụng đó thường phải tốn nhiều thời gian nên trong nhiều trường họp đến
khi có phán quyết giải quyết giải quyết về nội dung VVDS thỉ đưong sự đã bị thiệt
hại, tài sản để thi hành án đã bị tẩu tán, chứng cứ dùng để giải quyết VVDS đã bị
hủy hoại... và như vậy tịa án khơng cịn bảo vệ được quyền, lợi ích họp pháp của
đương sự. Vì thế, ngồi u cầu phải có được phán quyết về việc giải quyết nội dung
VVDS một cách sớm nhất, nguyên tắc xét xử kịp thời còn đặt ra một u cầu nữa đối
với tịa án, đó là: ngay cả trong thời gian tòa án đang tiến hành quy trình tố tụng để
giải quyết VVDS, khi cần thiết, tịa án cần phải nhanh chóng có quyết định thích
hợp, kịp thời để trước mắt tránh cho đương sự khỏi bị thiệt hại, bảo vệ ngay được
bằng chứng, bảo toàn ngay được tài sản. Chính yêu cầu phải đảm bảo nguyên tắc xét
xử kịp thời được xuất phát từ nhu cầu cần được tòa án bảo vệ kịp thời trên thực tế
của đương sự đã là một trong những lý do địi hỏi tịa án cần phải có sự linh hoạt,
mềm dẻo, đa dạng hóa cách thức, biện pháp giải quyết các VVDS. Các VVDS thì rất
đa dạng, phức tạp. Chánh án Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng Paris Jean-M arie
COULON đã chỉ ra rằng: tùy theo tính chất, đặc điểm của từng VVDS, mỗi vụ việc
phải được giải quyết theo một tiến trình riêng, phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của nó
[43, tr. 11]. Trong ấn phẩm Chương trình thông tin quốc tế của Bộ ngoại giao Hoa
Kỳ cũng đưa ra một khẳng định gần tương tự: “một số vụ tranh chấp được giải quyết

bàng những phương pháp giải quyết tranh chấp khác nhau” [103, tr. 80]. Xuất phát
từ thực tế các VVDS là rất đa dạng, rất khác nhau nên tùy theo đặc điểm của mỗi
VVDS mà tòa án cần phải quyết định áp dụng những biện pháp giải quyết khác
nhau, phải có cách thức giải quyết khác nhau cho phù họp nhằm đạt được hiệu quả
cao nhất. Sỗ có những VVDS chỉ cần được tịa án giải quyết bằng biện pháp giải
quyết thông thường, cứ tuần tự thực hiện các giai đoạn tố tụng theo luật định, xem
xét, nghiên cứu, đánh giá kỳ lưỡng về chứng cứ cũng như yêu cầu của các bên đương
sự rồi ra phán quyết chính thức giải quyết nội dung. Nhưng đối với một số VVDS có
sự khàn câp như đương sự có nhu cầu rất cấp bách, chứng cứ dùng để giải quyết


16

VVDS có nguy cơ bị hủy hoại, tài sản tranh chấp có nguy cơ bị tẩu tán..., nếu tịa án
vẫn giai quyết theo biện pháp tố tụng thông thường như đối với những VVDS khơng
có sự khấn cấp mà khơng can thiệp ngay bằng một phán quyết tạm thời nhàm đáp
ứng tỉnh trạng khẩn cấp thì chắc chắn tính mạng, sức khỏe, cuộc sống bình thưịng
của đương sự bị ảnh hưởng, chứng cứ, tài sản trong VVDS sẽ bị tẩu tán, hủy hoại và
như vậy sẽ không thể giải quyết được VVDS hoặc có giải quyết được thì cũng khó
có khả năng thi hành án, không bảo vệ được quyền, lợi ích họp pháp của đương sự.
Vì thế, trong những trường hợp khẩn cấp, tịa án cần phải nhanh chóng có một quyết
định tạm thời để có thể kịp thời đáp ứng nhu cầu cấp bách của đưong sự, kịp thời
bảo vệ bằng chứng, kịp thời bảo toàn tài sản của đương sự. Sau khi tình trạng khẩn
cấp đã được giải quyết, tòa án sẽ xem xét kỹ về chứng cứ, về yêu cầu của đương sự
và dựa trên chứng cứ đã thu thập được, tịa án sẽ có phán quyết chính thức giải quyết
nội dung VVDS. Điều này cũng có nghĩa là chính những VVDS có sự khẩn cấp đòi
hỏi tòa án phải áp dụng biện pháp tố tụng giải quyết phù họp tương đối đặc biệt: tòa
án ra phán quyết tạm thời nhằm đáp ứng tình trạng khẩn cấp trước, sau đó mới ra
phán quyết chính thức giải quyết nội dung VVDS. Cũng từ thực tế tố tụng này mà
Chánh án tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng Paris Jean-M arie COULON đã từng nhận

xét: “có nhũng vụ việc phải đi theo một tiến trình chậm để bảo vệ quyền lợi của
những người khiếu kiện và đảm bảo tốt cơng tác tư pháp, giảm bớt gánh nặng cho
tịa án. Có nhũng vụ việc địi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, nếu khơng thẩm phán
sẽ bị coi là từ chối xét xử” [43, tr. 34].
Như vậy, xuất phát từ yêu cầu phải bảo đảm nguyên tắc xét xử kịp thời (còn
được hiểu là nguyên tắc giải quyết kịp thời) trong cơng tác giải quyết các VVDS của
tịa án nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích của các bên đương sự, xuất phát từ thực tế
đa dạng, phức tạp của các VVDS, từ đó nảy sinh nhu cầu tịa án cần phải linh hoạt,
đa dạng hóa và kết hợp các biện pháp tố tụng nhằm giải quyết hiệu quả VVDS cũng
như xuất phát từ nhu cầu cần được bảo vệ kịp thời trên thực tế quyền, lợi ích họp
pháp của đương sự trong VVDS, biện pháp giải quyết tạm thời tình trạng khẩn cấp
của VVDS mà ngày nay hay gọi là BPKCTT trong TTDS ra đời, được thừa nhận
trong pháp luật và ngày càng được tịa án sử dụng có hiệu quả.


17

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào xác định rõ BPKCTT chính thức xuất hiện
vào thời điểm nào trong lịch sử phát triển của TTDS, chỉ biết rằng BPKCTT đã có
bóng dáng từ rất lâu trong lịch sử TTDS. Theo kết quả nghiên cứu của nhà nghiên
cứu Lê Tài Triển, việc tịa án nhanh chóng ra quyết định tạm thời, trước mắt để giải
quyết tinh thế cấp bách, sau đó mới ra bản án, quyết định chính thức giải quyết nội
dung VVDS có nguồn gốc hỉnh thành từ một thủ tục rất đặc biệt trước đây trong
TTDS, đó là thủ tục cấp thẩm (1). Cũng chưa ai biết chính xác thủ tục cấp thẩm có từ
khi nào và bắt đầu xuất hiện ở đâu. Có người cho rằng thủ tục cấp thẩm do đạo luật
“thập nhị bảng” của thời La Mã truyền lại, có người cho ràng thủ tục này do một tục
lệ riêng của xứ Normandie lưu truyền về sau [75, tr. 104]. Một giả thiết khác sau này
cũng được đặt ra trong lịch sử phát triển của TTDS, một lý do góp phần hình thành
nên BPKCTT trong TTDS hiện nay cịn do việc hình thành các tịa thương mại bao
gồm các thẩm phán do thương nhân bầu lên chuyên tư vấn về thương mại tại các nền

cộng hịa có kinh tế hành hóa phát triển của Bắc Ý. Đen khoảng thế kỷ thứ XIV, thiết
chế kiểu Ý này hình thành tại các hội chợ ở miền Bắc và vùng Champagne của Pháp
với nhiệm vụ giải quyết nhanh chóng, tại chỗ nhiều tranh chấp nảy sinh trong hội
chợ [47, tr. 4]. N gày nay, trong PLTTDS của hầu hết các quốc gia đều có những quy
định về BPKCTT. Có thể trong PLTTDS về BPKCTT của mỗi quốc gia có những
quy định cụ thể khác nhau nhưng tất cả đều ý thức được sự cần thiết và hiệu quả của
nó trong việc giải quyết các VVDS nhằm bảo vệ hiệu quả, kịp thời quyền, lợi ích
họp pháp cho đương sự tại tòa án.
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu các tài liệu cho thấy các quy định của PLTTDS
Việt Nam về BPKCTT hiện nay có nguồn gốc hình thành từ thủ tục cấp thẩm, một
thủ tục xét xử được cho rằng khơng những có ích lợi đặc biệt mà cịn cần thiết cho sự
bảo vệ quyền lợi của tư nhân [75, tr. 103]. Sở dĩ BPKCTT trong TTDS Việt Nam
được bắt nguồn từ thủ tục cấp thẩm bởi cùng với sự đơ hộ của thực dân Pháp tại Việt
Nam thì các quy định của Luật TTDS của Pháp cũng được áp dụng tại Việt Nam,
trong đó có thủ tục cấp thẩm. Trong thời kỳ Pháp thuộc đó, nhà nghiên cứu Lê Tài
(i). M ột th ủ tục có m ục đích x ét xử tạm thời và mau chóng về những sự khó khăn trong các vụ cấp bách hay
khó khán về n h ữ n g động tác thi hành [75, tr. 281 ].
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHÒNG DỌC

__1


18

Triển đã nhận xét: Pháp đình cấp thẩm và thủ tục cấp thẩm ở Việt nam được tổ chức
và quy định theo khuôn mẫu điển chế của Pháp [75, tr. 104].
Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, do yêu cầu phải xây dựng một hệ thống các
qu y phạm PLTTDS mới cho phù hợp với một chế độ mới, một nhà nước mới,

PLTTD S của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Thủ tục cấp thẩm không cịn
tồn tại mà thay vào đó là các quy định về BPKCTT được tòa án áp dụng trong quá
trinh giải quyết VADS khi chưa có bản án, quyết định chính thức giải quyết nội dung
nhưng cần phải có ngay quyết định tạm thời để giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo toàn chứng cứ, tài sản, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án và thi hành
án dân sự. BPKCTT được tòa án quyết định áp dụng rất nhanh chóng nhung thực
chất nó chỉ là quyết định của tòa án về giải pháp tạm thời nhằm giải quyết tình trạng
khẩn cấp của VADS. BPKCTT khơng cịn là một thủ tục xét xử độc lập, do một tòa
độc lập xử như thủ tục cấp thẩm trước kia mà nó được PLTTDS quy định như một
trong những biện pháp tố tụng được tòa án sử dụng nhàm giải quyết VADS, từ đó
bảo vệ kịp thời trên thực tế các quyền, lợi ích của đương sự trong VADS.
v ề khái niệm BPKCTT, dưới góc độ ngịn ngữ học, BPKCTT là một cụm từ
được ghép bởi ba từ: “biện pháp”, “khẩn cấp” và “tạm thời” . N ếu giải nghĩa một
cách cụ thể thì hầu như trong các Từ điển tiếng Việt đều chung một giải thích giống
nhau: “ biện pháp” là một danh từ, chỉ cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết
m ột vấn đề cụ thể [101, tr.161; 96, tr. 62]. “Khẩn cấp” là một tính từ chỉ sự gấp gáp,
cần kíp, phải giải quyết ngay, khơng thể trì hỗn được [96, tr. 447; 101. tr. 892] hay
trong T ừ điển Hán Việt cịn giải thích khác: “cấp” có nghĩa là sự cần kíp [12, tr. 559]
và “ khẩn” có nghĩa là khẩn cầu, cầu người khác m ột cách cần thiết [1, tr. 451]. v ề
thuật ngữ “tạm thời”, thuật ngữ này là một tính từ, có nghĩa là tạm trong một thời
gian ngắn trước mắt, không có tính chất lâu dài, ổn định [101, tr. 1489; 96, tr. 855].
N h ư vậy, nếu ghép nghĩa của các cụm từ trên với nhau, chúng ta có thể hiểu:
BPK CTT là cách giải quyết tạm một vấn đề nào đó, là cách thức giải quyết gấp gáp,
tạm thời trong thời gian ngắn trước mắt.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, khái niệm BPKCTT trong TTDS đã được
các nhà nghiên cứu nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau và đều được dựa trên


19


những lý giải cơ bản, khái quát về thuật ngữ “tố tụng dân sự” . Có dựa trên những lý
giải cơ bản, khái quát về thuật ngữ “trong tổ tụng dân sự” thì trên cơ sở đó mới có
thể đưa ra đưọc khái niệm khoa học về BPKCTT trong TTDS.
Theo nhà ngiên cứu Nguyễn Huy Đẩu: “tố tụng” là một thuật ngữ có nguồn gốc
từ tiếng La tinh (procudure), được hiểu là một đường lối phải tuân theo để đi đến chỗ
thắng kiện. Trong thuật ngữ khoa học pháp lý cịn có một thuật ngữ khác tương
đương với thuật ngữ “tố tụng”, hay được sử dụng lẫn với thuật ngữ “tố tụng” đó là
thuật ngữ “thủ tục”, có nguồn gốc từ tiếng N hật Bản, được hiểu là một thể thức phải
làm để đạt được một kết quả nhất định [19, tr3,4]. Thuật ngữ “tổ tụng” cũng gần
giống như thuật ngữ “thủ tục”, chỉ về việc kiện tụng do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết. Thơng thường, nói đến tố tụng là hay nói đến vai trị nổi bật của
TAND, nói đến việc tịa án xem xét, giải quyết và ra quyết định giải quyết các
VYDS. Có lẽ cũng vì điểm này mà có ý kiến cho rằng “tố tụng chỉ xuất hiện trong
các trình tự tại cơ quan tư pháp” [58, tr. 10]. Ngồi ra, nói đến “tố tụng” cịn nói đến
một quy trình các việc có tính bắt buộc do pháp luật quy định m à các chủ thể liên
quan đến việc kiện tụng và giải quyết việc kiện tụng phải làm theo. M ục đích của
việc các chả thể phải thực hiện quy trình các việc đó là để đạt được m ột thứ quyền
lợi nào đó. Dựa vào việc xác định bản chất của thứ quyền lợi được m ang đến tòa để
nhờ tòa án bảo vệ thì tố tụng lại được phân loại thành những loại tố tụng khác nhau
như tố tụng hình sự, TTDS, tố tụng hành chính.
“Tố tụng dân sự” được hiểu là những việc kiện cáo nhau về các quan hệ dân sự
ra trước tòa án và yêu cầu tòa án giải quyết [15, tr. 5]. Theo một cách giải thích khác
thì ‘tố tụng dân sự” khơng chỉ là việc kiện cáo nhau về các quan hệ dân sự ra tịa án
mà cịn là một quy trình giải quyết vụ việc dân sự gồm nhiều giai đoạn khác nhau
như khởi kiện, lập hồ sơ, hòa giải, xét xử V V D S, xét lại bản án, quyết định của tòa
án, thi hành bản án, quyết định của TAND [26, tr. 21; 78, tr. 10]. Quy trình đó được
thể hiện qua hai phương diện: PLTTDS và hoạt động TTDS bởi: “ PLTTD S và hoạt
độr.g TTDS là hai mặt không thể tách rời của m ột hệ thống thống nhất đó là quy
trình T T D S” [66, tr. 78].
Từ những lý giải trên về “tố tụng dân sự” , khái niệm B P K C T T trong TTDS cần



20

phải được nhìn nhận dưới phương diện PLTTDS và hoạt động TTDS. Trong nghiên
cứu khoa học pháp lý, khái niệm BPKCTT trong TTDS cũng đã được các nhà nghiên
cứu tiếp cận dưới một trong các phương diện trên. Cụ thể là khái niệm BPKCTT
trong TTDS đã được nhìn nhận dưới các phương diện là các biện pháp cụ thể, là một
th ủ tục TTDS hay là một chế định pháp luật trong hệ thống PLTTDS.

Dưới góc độ là các biện pháp cụ thể, BPKCTT trong TTDS được nhìn nhận
xuât phát từ yêu câu việc giải quyêt VVDS của tòa án phải bảo đảm nguyên tắc giải
quyết kịp thời để từ đó bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Muốn
vậy, một trong những biện pháp cần phải thực hiện là trong nhũng trường họp khẩn
cấp như một bên đương sự cần được đáp ứng ngay nhu cầu cấp bách, chứng cứ dùng
đ ể giải quyết VVDS cần được bảo vệ ngay để khỏi bị hủy hoại, tài sản cần được bảo
toàn ngay để bảo đảm khả năng thi hành á n ..., tịa án phải có ngay biện pháp can
thiệp thích họp, có tính bắt buộc phải thực hiện để bảo vệ tạm thời quyền, lợi ích của
đư ơng sự trong VVDS. Điều này có nghĩa ngay cả khi tòa án chưa ra được bản án,
quyết định giải quyết nội dung VVDS nhưng do tình thế khẩn cấp, tịa án vẫn có
quyền ra một quyết định tạm thời để giải quyết tình trạng khẩn cấp trước, sau đó mới
ra qut địnlì chính thức giải quyết tồn bộ nội dung VVDS. Chính biện pháp thích
hợ p được tòa án quyết định áp dụng để giải quyết trước mắt tình thế khẩn cấp đó
được gợi là BPKCTT trong TTDS. Với cách tiếp cận này, BPKCTT trong TTDS
được nhìn nhận một cách rất cụ thể, trực diện và dưới phạm trù hình thức. Ví dụ,
trong tình thế cấp bách là một bên đương sự cần có ngay một khoản tiền để duy trì
cuộc sổng tối thiểu, nếu khơng tính mạng, sức khỏe của đương sự sẽ bị ảnh hưởng
thì BPK CTT cụ thể, thích họp giải quyết tình thế khẩn cấp này là buộc bên đương sự
đối lập phải tạm ứng ngay một số tiền nhất định cho bên đương sự đang có nhu cầu
C;ấp


thiết duy trì cuộc sống. Trong những trường họp này, BPKCTT buộc bên đương

s ự còn lại phải tạm ứng ngay một khoản tiền nhất định còn thể hiện một ý nghĩa cao
h ơ n đó là bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền được sống của đương sự.

Hay

trong một tình thế khẩn cấp khác như chứng cứ, tài sản trong VVDS có nguy cơ bị
hủy hoại, tấu tán thì BPKCTT cụ thể để giải quyết tỉnh thể khẩn cấp này sẽ là kê biên
tà i sản, phong tỏa tài khoản, cấm hoặc buộc bên đưcmg sự có hành vi tẩu tán, hủy


×