Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.59 KB, 7 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
CỦA NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Thuật ngữ “tín dụng” ra đời bắt nguồn từ chữ Latin “credo”, có thể hiểu là tin
tưởng, tín nhiệm. Tuy nhiên, ngày nay, thuật ngữ “tín dụng” được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, cả trong đời sống và trong lĩnh vực tài chính. Cụ thể:
- Xét trên góc độ chuyển dịch nguồn vốn từ chủ thể thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn
thì “tín dụng” được hiểu là phương pháp chuyển dịch quỹ theo nguyên tắc hoàn trả từ
người cho vay sang người đi vay.
- Xét trên góc độ tài chính, “tín dụng” là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn
trả giữa hai chủ thể. Đó có thể là giao dịch mua bán chịu hàng hóa giữa hai công ty; hay
giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác, hay giữa ngân hàng và các tổ
chức, cá nhân dưới hình thức cho vay. Theo đó, người vay cần phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi
theo một thời hạn được ấn định trước cho ngân hàng.
- Trong một số trường hợp cụ thể, thuật ngữ “tín dụng” được hiểu theo nghĩa tương
đương như thuật ngữ “cho vay”. Chẳng hạn như, tín dụng ngắn hạn (short-term credit) và
tín dụng dài hạn (long-term credit) được hiểu là cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.
Nếu coi tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân hàng, thì tín dụng được
hiểu là:
Tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, hoặc nguồn vốn huy động
được trong một thời gian nhất định để thỏa thuận cho khách hàng sử dụng khoản tiền đó
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Xét dưới góc độ quản lý nhà nước, thì:
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng mà trong đó nhà nước đóng vai trò là chủ thể vay
nợ hoặc cho vay, hay nói một cách khác, tín dụng nhà nước là hoạt động vay và cho vay
được nhà nước thực hiện trong những điều kiện nhất định.
Tín dụng ĐTPT là một nội dung chi ĐTPT của ngân sách nhà nước. Mục đích của
nguồn tín dụng ĐTPT này là nhằm hỗ trợ vốn đối với “các dự án ĐTPT của các thành phần
kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của nhà nước và các vùng


khó khăn cần khuyến khích đầu tư”; nhằm tăng cường năng lực sản xuất, đảm bảo sự phát
triển cân đối hài hòa giữa các vùng, các ngành, các thành phần kinh tế trong cả nước.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu như sau:
Tín dụng ĐTPT là việc Nhà nước thực hiện ưu đãi đối với các dự án ĐTPT của Nhà nước
như các chương trình phục vụ lợi ích quốc gia, các dự án đầu tư trọng điểm trong từng thời
kỳ, các dự án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc ngành, lĩnh vực quan trọng, chương
trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát
triển kinh tế bền vững…
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ĐTPT
Dựa trên các khái niệm trên, tín dụng ĐTPT của Nhà nước có thể được nhìn nhận
theo các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tín dụng ĐTPT có nguồn gốc là vốn của ngân sách Nhà nước hoặc nguồn
vốn được huy động theo kế hoạch, chính sách của Nhà nước để phục vụ theo chủ trương
đầu tư của Nhà nước.
Thứ hai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý và cho vay đối với nguồn vốn tín dụng
ĐTPT là các cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập và hoạt động dưới sự chỉ
đạo của Nhà nước.
Thứ ba, đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT là những dự án trọng điểm, có tầm
quan trọng lớn, chương trình mục tiêu theo định hướng và chủ trương của Nhà nước. Các
chương trình, dự án này thường có quy mô, thời gian xây dựng và hoàn vốn lớn, khả năng
sinh lời thấp hoặc không có, chịu nhiều rủi ro mà các ngân hàng thương mại không muốn
cho vay hoặc không đủ tiềm lực để cho vay. Tuy nhiên, đây lại là những công trình mang
lại nhiều lợi ích cho xã hội nên Nhà nước phải sử dụng nguồn tín dụng này để đầu tư nhằm
đảm bảo cho việc xây dựng được hoàn thành.
Thứ tư, tín dụng ĐTPT có các điều kiện vay vốn được ưu đãi: lãi suất cho vay thấp
hơn lãi suất thị trường, thời hạn cho vay dài, điều kiện đảm bảo tiền vay được nới lỏng
hơn… Tất cả những ưu đãi này của Nhà nước là nhằm mục đích khuyến khích ĐTPT kinh
tế - xã hội.
Qua những đặc điểm trên của tín dụng ĐTPT, chúng ta có thể thấy rằng đây là
nguồn vốn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

1.1.3. Sự cần thiết của tín dụng ĐTPT
Tín dụng ĐTPT là một công cụ quản lý và phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
thông qua đó để huy động các nguồn vốn cho ĐTPT. Sự hình thành của nguồn tín dụng
ĐTPT là một tất yếu khách quan và đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, tín dụng ĐTPT đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn cho phát
triển kinh tế của một quốc gia.
Nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế của một quốc gia là rất lớn. Những nhu cầu về
vốn thiết yếu có thể kể đến như: nhu cầu về cải tạo xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng cho
phát triển đường giao thông, bến cảng, cung cấp điện nước, nghiên cứu cơ bản... ; nhu cầu về
vốn của các doanh nghiệp về đầu tư mới, trang bị máy móc, mở rộng quy mô sản xuất… Các
nhu cầu này chủ yếu được tài trợ bằng nguồn thu ngân sách của Nhà nước, tiền tiết kiệm của
dân cư… Tuy nhiên, quy mô nguồn này rất hạn chế, đặc biệt ở các nước đang phát triển,
nguyên nhân là do:
- Nguồn vốn mà hệ thống ngân hàng thương mại huy động được từ dân cư chủ yếu
là nguồn vốn ngắn hạn, chỉ vì vậy nên ngân hàng chỉ tập trung cho vay ngắn hạn đối với
những đối tượng cần vốn. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thấp và kỳ hạn thường chỉ là 3
– 7 năm. Lý do là vì các ngân hàng thương mại không thể sử dụng quá mức cho phép các
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn vì sẽ dẫn tới rủi ro trong hoạt động. Các
công trình xây dựng cơ bản, xây dựng các cơ sở hạ tầng lại thường là cần những nguồn
vốn có quy mô lớn, thời hạn cho vay dài, vì bản thân các công trình này thường có thời
gian xây dựng dài, thời hạn thu hồi vốn chậm.
- Nhu cầu đầu tư dài hạn thường được đáp ứng thông qua thị trường vốn dài hạn,
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, một lượng vốn lớn được huy động thông qua thị
trường chứng khoán và nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, các công trình lớn
lại thường có mức sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, lại chịu nhiều rủi ro nên
không hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư như mong đợi. Đối với các nước đang phát triển, cả
hai loại thị trường này đều bị hạn chế do thị trường chứng khoán còn sơ khai, môi trường
đầu tư chưa hấp dẫn…
- Một lý do quan trọng nữa là mặc dù các nước trên thế giới đã thường xuyên dành
cho ĐTPT một lượng vốn lớn từ ngân sách Nhà nước hàng năm nhưng cũng không thể đáp

ứng được nhu cầu ngày một gia tăng của ĐTPT.
Từ những lý do này đã dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn hiện có và
nhu cầu ĐTPT của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc hình thành tín dụng ĐTPT là hết sức cần
thiết, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thông qua việc thu hút và cung cấp nguồn
vốn trung và dài hạn có hiệu quả cho các dự án phát triển.
Thứ hai, nguồn vốn tín dụng ĐTPT nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do
Nhà nước đề ra. Một trong những yêu cầu quan trọng đối với hiệu quả của một dự án là
ngoài hiệu quả tài chính, các dự án còn phải đáp ứng hiệu quả kinh tế - xã hội như làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường… nhằm đảm bảo phát triển kinh tế một cách bền vững.
Các dự án ĐTPT là rất cần thiết cho mục tiêu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các dự
án này nếu đáp ứng hiệu quả kinh tế - xã hội lại thường có hiệu quả tài chính rất thấp, hoặc
rủi ro cao, đặc biệt là các dự án trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và vùng nông thôn
rộng lớn cần nhiều vốn. Các ngân hàng thương mại không sẵn sàng đầu tư vào các dự án
này do phần lớn các khoản tín dụng của ngân hàng thương mại đòi hỏi phải có tài sản thế
chấp và phải đạt được mục tiêu hiệu quả tài chính theo cơ chế thị trường. Do sự khan hiếm
nguồn vốn nói chung và nguồn vốn trung và dài hạn nói riêng đã làm cho lãi suất các
nguồn tài chính này trở nên rất đắt, không thích hợp với các dự án dài hạn có tỷ lệ sinh lời
thấp, song lại đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế. Để khắc phục hạn chế này,
tín dụng ĐTPT thực hiện chính sách lãi suất, điều kiện tài trợ ưu đãi, thời hạn cho vay dài,
chấp nhận rủi ro cao hơn.
Thứ ba, tín dụng ĐTPT nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước. Trước đây,
tại phần lớn các nước trên thế giới, vốn dành cho ĐTPT từ ngân sách và các nguồn vốn
khác của Nhà nước thường dưới hình thức cấp phát, có nghĩa là đối với các lĩnh vực,
chương trình và địa bàn nằm trong chương trình phát triển trọng điểm, ngân sách Nhà nước
sẽ cấp vốn không hoàn lại để thực hiện. Tuy nhiên, điều này đặt ra hai vấn đề: gánh nặng
đối với ngân sách Nhà nước và hiệu quả thực hiện dự án do những người tiếp nhận vốn có
tâm lý coi đó là “tiền chùa” dẫn đến móc nối, rút ruột công trình làm giảm hiệu quả của dự
án. Cùng với việc giải quyết hai vấn đề trên, xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế
giới đòi hỏi việc hỗ trợ bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế làm cho việc cấp

phát vốn đầu tư không còn phù hợp. Thay vào đó, Nhà nước chuyển dần từ cấp phát sang
tín dụng (cho vay có hoàn lại) và chỉ xem xét cho vay đối với các dự án thực sự cần thiết
cho sự phát triển kinh tế.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ĐTPT
Xét trên nhiều khía cạnh, tín dụng ĐTPT không chỉ là biện pháp huy động nguồn tài
chính nhàn rỗi bổ sung cho ngân sách Nhà nước mà còn là công cụ tài chính quan trọng để
Nhà nước thực hiện việc điều tiết và kiểm soát vĩ mô. Vai trờ điều tiết và kiểm soát vĩ mô của
tín dụng ĐTPT được biểu hiện cụ thể như sau:
Tín dụng ĐTPT là đòn bẩy kinh tế quan trọng mà Nhà nước sử dụng để điều tiết tỷ
lệ tích lũy và tiêu dùng. Tín dụng ĐTPT có thể biến nguồn vốn nhàn rỗi đổi chiều từ khả
năng đi vào tiêu dùng chuyển thành khả năng làm gia tăng khả năng tích lũy phục vụ cho
mục đích đầu tư.
Tín dụng ĐTPT góp phần điều tiết lượng tiền lưu thông và hướng dẫn lưu thông
tiền tệ trên thị trường. Tùy theo thực tế lượng tiền và xu hướng lưu thông tiền tệ trên thị
trường mà Nhà nước có thể sử dụng tín dụng ĐTPT để điều tiết, ổn định vĩ mô thông qua
việc tăng giảm phát hành trái phiếu, nâng cao hay hạ thấp lãi suất tái chiết khấu.
Thông qua các khoản cho vay, Nhà nước điều tiết cơ cấu kinh tế phát triển theo
ngành, vùng lãnh thổ. Việc điều tiết này được thực hiện theo nguyên tắc ưu tiên cho những
ngành trọng điểm tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách hài hòa, cân
đối, đảm bảo công bằng xã hội. Thêm vào đó, thông qua các khoản vay ưu đãi, Nhà nước
thực hiện hỗ trợ cho những khu vực cần khuyến khích phát triển, những khu vực vùng núi
miền hải đảo ít được quan tâm nhằm thực hiện mục tiêu cân bằng xã hội và tạo ra sân chơi
cạnh tranh lành mạnh đối với mọi thành phần kinh tế. Có thể nói đây là vai trò quan trọng
nhất của tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Vì thế, chuyên đề cũng đi sâu nghiên cứu khía
cạnh này.
Ngoài ra, tín dụng ĐTPT là một hình thức làm thay đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ
chế cấp phát sang cơ chế mang tính chất kinh doanh làm tăng hiệu quả của việc sử dụng
vốn.
1.1.5. Các hình thức chủ yếu của tín dụng ĐTPT
Các hình thức chủ yếu của tín dụng ĐTPT là cho vay và bảo lãnh. Cụ thể, chúng ta

sẽ xem xét từng nội dung như sau:
Cho vay đầu tư của Ngân hàng Phát triển Việt Nam là một trong các hình thức
tín dụng đầu tư của Nhà nước đối với các dự án đầu tư thuộc một số ngành, lĩnh vực
quan trọng, chương trình kinh tế lớn và các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn cần
khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ.
1.1.5.1. Hình thức cho vay
Chúng ta có thể hiểu cho vay là việc các cơ quan quản lý tín dụng ĐTPT cho các
chủ đầu tư vay vốn để thực hiện các dự án ĐTPT.
Các nội dung chủ yếu trong cho vay:
- Đối tượng cho vay: là các dự án, chương trình mục tiêu thuộc đối tượng cần đầu
tư của Nhà nước trong từng thời kỳ kế hoạch. Đây là những chương trình, dự án có tầm

×