Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Chi phí đối với các loại tiền gửi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.93 KB, 8 trang )

Chi phí đối với các loại tiền gửi
3.1. Lãi suất huy động tiền gửi
Mỗi loại tiền gửi là chúng ta cần nghiên cứu đều mang một mức lãi suất khác
nhau. Lãi suất sẽ quyết định chi phí. Chi phí cho các nguồn tiền gửi khác nhau là
không giống nhau. Giả định rằng các yéu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy
động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay thu
nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã
trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy động toàn bộ tiền gửi từ các
nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân
hàng sẽ tối đa hóa mức chênh lệnh lãi suất, và có thể tối đa hóa thu nhập ròng của
cổ đông. Trong tất cả các loại tiền gửi, loại tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm tạo ra
thu nhập ròng cao nhất và là khỏan chi phí lớn nhất cho của ngân hàng.
Theo quy luật giá trị theo thời gian cua rtiền và theo mối quan hệ tỷ lệ thuận
trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh toán càng dài sẽ tạo ra mức
lãi càng cao cho người gửi tiền. Ví dụ, tài khoản NOW và tài khoản tiết kiệm đều
có thể được rút tiền ngay lập tức, và do đó kháhc hàng được hưởng mức lãi suất
thấp nhất trong số tất cả các loại tiền. Ngược lại ngân hàng trả lãi suất tiền gửi cáo
nhất cho chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng với kỳ hạn một năm hoặc dài
hơn.
Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng đóng một vai
trò quan trọng trong việc hình than lãi suất tiền gửi. Ví dụ các ngân hàng ở New
York, London hay Tokyo nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh tài chính nên có thể thu
hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất, trong khi lãi suất được thông báo
tại các ngân hàng khác thường cao hơn. Những yếu tố quan trọng là triết lý về
Marketing và mục tiêu của việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng nào
quyết định chon mục tiêu là cạnh tranh giành tiền gửi sẽ luôn luôn đặt ra mức lãi
suất cao hơn để kéo khách hàng khỏi các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại, khi ngân
hàng muốn hạn chế quy mô của một loại hình tiền gửi nào, ngân hàng sẽ hạ lãi suất
công bố thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ cạnh tranh đưa ra.
3.2. Các phương pháp định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi
Khi huy động tiền gửi, một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn


để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt
khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ
làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt
giữa các ngân hàng có xu hướng làm tăng chi phí trả tiền lãi tiền gửi trong khi làm
giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay. Một yêu cầu đặt ra đối với
các ngân hàng là phải đánh giá đúng chi phí trả lãi để từ đó có thể thu hút được
lượng tiền nhiều nhất với lãi suất hợp lý để tối đa hóa thu nhập ròng của ngân
hàng. Một trong những biện pháp để giải quyết vấn đề trên là các ngân hàng phải
định giá đúng các dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Tuy nhiên, việc này không hề đơn
giản. Hiện nay, có năm phương pháp định giá được áp dụng:
3.3.1. Phương pháp tổng hợp chi phí – thu nhập
Trong hoạt động của ngân hàng hiện nay, các nhà quản lý nhìn chung không
chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải gánh chịu toàn bộ chi phí
dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận điểm “ khách hàng
nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi” được xem như một đường lối
khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía các trung
gian tài chính khác trên thị trường truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, rất
nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính hiệu quả của chiến lược Marketting mới này
bởi nó làm gia tăng số lượng các tài khoản có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao
và buộc ngân hàng phải đối mặt với tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động.
Theo phương pháp chi phí – thu nhập, ngân hàng đáng giá các chi phí nghiệp
vụ và chi phí quản lý chung cho mỗi đơn vị dịch vụ tiền gửi và mức thu nhập để trả
cho các cổ đông – những người đóng góp vốn thành lập ngân hàng. Do cạnh tranh
ngày càng gay gắt cùng với sự tăng lên của lệ phí bảo hiểm, chi phí trung bình của
ngân hàng cho một khoản tiền gửi đã tăng lên. Điều này có nghĩa là ngân hàng tiến
hàng định giá tiền gửi độc lập, tách biệt khỏi các khoản cho vay và các dịch vụ
khac. Đồng thời, mỗi dịch vụ liên quan tới tiền gửi thường được định giá sao cho
khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phí cho việc cung cấp dịch vụ đó. Giá
của các dịch vụ này được xác định theo công thức tổng hợp chi phí – thu nhập như
sau:

Giá khách hàng
phải trả cho 1 đơn
vị dịch vụ tiền gửi
=
Chi phí hoạt động
cho 1 đơn vị dịch
vụ tiền gửi
+
Chi phí quản lý
chung dự tính phân
bổ cho bộ phận
nhận tiền gửi
+
Định mức lợi
nhuận từ 1
đơn vị tiền
gửi
Phương pháp định giá theo chi phí – thu nhập như công thức trên khuyến
khích các ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí và loại bỏ nhiều dịch vụ trước đây
miễn phí. Ví dụ, ngày càng nhiều ngân hàng Mỹ ấp đặt phí cho dịch vụ chấp nhận
thấu chi, tăng lệ phí đối với các tờ Séc bị máy rút tiền tự động ATM, tính phí hàng
tháng cho việc duy trì tài khoản kể cả đối với tài khoản tiết kiệm nhỏ, đồng thời
nâng cao mức quy định về số dư tiền gửi tối thiểu. Trong hầu hết các trường hợp,
những khoản phí dịch vụ này dường như tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát. Kết quả
của những xu hướng này nói chung có lợi cho ngân hàng, thu nhập từ phí dịch vụ
vượt trội tổn thất của ngân hàng.
3.3.2. Phương pháp định giá xâm nhập thị trường
Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh về vấn
đề lợi nhuận, ít nhất là ngắn hạn. Ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất, thường là cao
hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ thấp hơn mức phí thị

trường để có thể thu hút được số lượng khách hàng tối đa. Nhà quản lý hy vọng
rằng sự gia tăng nhanh chóng của quy mô tiền gửi và của những khoản tín dụng sẽ
bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi nhuận cận biên. Với chién lược này, ngân
hàng muốn tối đa hóa thị phần trong một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng.
Còn đối với khách hàng, chọn ra được một ngân hàng có đủ uy tín để gửi tiền là
một công việc ratá tốn kém. Do vậy, khách hàng thường tậo trung mua dịch vụ của
một ngân hàng. Một tài khoản tiền gửi có thể là điều kiện nền tảng cho các khoản
vay, dịch vụ ủy thác và các dịch vụ khác. Việc cắt đứt quan hệ thường gây ra
những thiệt hại lớn nên khách hàng có xu hướng trung thành với ngân hàng họ đã
lựa chọn. Bởi vậy, tiền gửi có thể được xem là yếu tố ổn định. Tiền gửi thường kém
nhạy cảm hơn các nguồn tiền khác trước những thay đổi trong lệ phí, lãi suất và
chính sách huy động vốn của ngân hàng đối thủ. Nếu ngân hàng có thể đưa ra lãi
suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian đủ dài để tạo ra sự
trung thành của khách hàng thì trong tương lai, khách hàng vẫn sẽ gửi tiền vào
ngân hàng dù rằng lãi suất mà ngân hàng đưa ra không còn cao như trước. Chi phí
không nhỏ cho việc lựa chọn và thay đổi ngân hàng là nguyên nhân giải thích cho
hành vi nêu trên của khách hàng.
Trên thực tế, sự thất bại của các ngân hàng trong chiến lược thu hút thêm tiền
gửi bằng cách giảm lệ phí hoặc nâng cao lãi suất bắt nguồn từ tính ổn định tương
đối của tiền gửi: khách hàng thường không thay đổi ngân hàng ngay lập tức bởi vì
chi phí và rủi ro cho sự thay đổi này là không nhỏ. Các công ty và các hộ gia đình
trước khi quyết định gửi tiền vào ngân hàng nào đều xem xét đến rất nhiều yếu tố,
không chỉ có lái suất.
3.3.3. Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi
Khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ, thậm chí là không phải trả
nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định hoặc khách hàng
sẽ phải trả lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trong bình thấp hơn mức giới hạn.
Do đó, mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào việc anh ta sử dụng
tiền gửi như thế nào
Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một số

những yếu tố sau:
+ Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản ( số Séc được viết, số tiền gửi vào,
số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi).
+ Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định ( thường là một tháng).
+ Kỳ hạn của tiền gửi thao ngày, tuần hoặc tháng.
Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoách tiền gửi sao cho
mức lệ phí là thấp nhất và ( hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ sở dự kiên
về số séc viết , số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung bình của tài khoản.
Đương nhiên, khách hàng cũng phải xem xét tới các khía cạnh khác như mức độ an
toàn và sự sẵn có của các dịch vụ.
3.3.4. Định giá mục tiêu trọng điểm
Một số ngân hàng, nhất là những ngân hàng ở các thành phố lớn có nhiều tài
khoản tiền gửi với số dư lớn, ổn định, thường mạnh dạn sử dụng phương pháp định
giá mục tiêu trọng điểm. Các chương trình quảng cáo công phu của họ thường
hướng tới những người có địa vị trong xã hội và các gia đình khá giả tới những
dịch vụ của ngân hàng. Đối với những tài khoản khác, đặc biệt là các tài khoản có
số dư thấp, ít ổn định, việc đánh giá có thể nhằm vào mức hòa vốn hoặc ngân hàng
có thể hạn chế các tài khoản này bằng việc đánh giá cao hơn. Chiến lược này
thường được kếp hợp với chương trình nhà ngân hàng cá nhân ( personal banker),
theo đó mỗi khách hàng lớn được một cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng
tất cả các nhu cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, trên các thị trường tiền gửi, sức
cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng cùng với việc ngày càng nhiều ngân hàng sử
dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm đã khiến cho khách hàng được
thông tin tốt hơn và tìm được cho mình nhiều khoản có lợi nhất.
3.2.5. Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng
Với ý tưởng nhằm tranh thủ những khách hàng tốt nhất, ngân hàng đã tiến
hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng. Những khách
hàng sử dụng từ hai dịch vụ trở lên có thể phải chịu lệ phí ở mức thấp hoặc không
phải trả lệ phí, còn những khách hàng chỉ có quan hệ hạn chế với các ngân hàng sẽ
phải trả lệ phí cao. Nhà quản lý cho rằng việc sử dụng một số lượng lớn các dịch

vụ sẽ làm tăng sự phụ thuộc của khách hàng vào ngân hàng và điều này sẽ khiến
cho khách hàng gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn tìm kiếm một ngân hàng khác.

×