Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.5 KB, 23 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Tổng quan về DNVVN
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mặc dù khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được biết đến trên thế giới từ
những năm đầu của thế kỉ XX, và khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ được các nước
quan tâm và phát triển từ những năm 50 của thế kỉ XX. Tuy nhiên ở Việt Nam khái
niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ mới được biết đến từ những năm 1990 đến nay.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ,vai trò,
đóng góp của nó vào sự phát triển của nền kinh tế, thì tiêu chí để xác định khu vực
doanh nghiệp này đã có nhiều lần thay đổi.
Và ngày 23-11-2001, Chính phủ đã ban hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP
về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo quy định của nghị định này,
doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng Việt
Nam và lao động dưới 300 người. Đây là văn bản luật đầu tiên chính thức qui định
về doanh nghiệp vừa và nhỏ, là cơ sở để các chính sách và biện pháp hỗ trợ của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất phát từ chính quy mô của
doanh nghiệp. Cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới, với quy mô
nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam cũng có những đặc điểm tương tự như ở
các quốc gia khác. Ngoài ra do đặc trưng riêng của nền kinh tế đang trong giai
đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn có những đặc
điểm riêng. Những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
thể hiện như sau :
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với
nhiều hình thức tổ chức doanh nghiệp, bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp và các công ty tư nhân đến các hợp tác xã.
- Là doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây là những doanh


nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình.
- Khả năng quản lý hạn chế: các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ sư
hoặc kỹ thuật viên tự đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ vừa là
người quản lý doanh nghiệp, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ
chuyên môn trong quản lý không cao.
- Trình độ tay nghề của người lao động thấp. Các chủ doanh nghiệp vừa và
nhỏ không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những
người lao động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính và sự ổn định công việc mà
DNVVN mang lại cho nguời lao động.
- Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển
khai, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có những sáng kiến công nghệ tiên tiến
nhưng không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành
công nghệ mới hoặc bị doanh nghiệp lớn mua với giá rẻ.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thường sử dụng chính những diện
tích đất riêng của mình làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh và khó thuê được các
mặt bằng sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp này rất khó khăn trong sản xuất kinh
doanh khi quy mô doanh nghiệp được mở rộng. Một số doanh nghiệp thuê được
đất thì gặp rất nhiều trở ngại trong việc giải phóng mặt bằng và đền bù.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, ở Việt Nam, từ khi
Luật doanh nghiệp có hiệu lực, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, trong
đó chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tới hơn 90%, với số lao động trung
bình 78 người/ doanh nghiệp. Vị trí quan trọng của bộ phận doanh nghiệp này đối
với phát triển kinh tế Việt Nam ngày càng được khẳng định, thể hiện trên các mặt
sau:
- Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế: Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đang đóng góp khoảng 40% trong GDP hàng năm.

- Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc nhiều doanh nghiệp, chủ
yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng
miền núi, vùng sâu, vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Sự ra đời của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Với tính
linh hoạt của mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh
thậm chí với cả các công ty lớn, thúc đẩy chuyên môn hóa và phân công lao động
trong sản xuất, làm tăng hiệu quả của chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như
của công ty hợp tác.
- Đóng góp không nhỏ và ngân sách nhà nước: Qua số liệu về đóng góp của
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp vào ngân sách trung ương cũng cho ta thấy
phần nào vai trò của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, lực lượng chủ yếu trong
các doanh nghiệp dân doanh.
- Tăng thu hút vốn đầu tư: theo báo cáo 4 năm thi hành Luật Doanh nghiệp,
số vốn huy động được qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô kinh doanh
của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, tiếp tục tăng. Mỗi năm lại có khoảng 30.000 - 40.000 doanh nghiệp đăng ký
và 100.000 - 200.000 hộ kinh doanh cá thể ra đời.
- Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất nghiệp.
Hiện nay, do tỷ lệ tăng dân số cao, hàng năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu người
gia nhập vào lực lượng lao động. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra nhiều việc
làm mới với tốc độ tăng trưởng cao. Hiện nước ta có khoảng 200.000 doanh nghiệp
nhỏ và vừa đang hoạt động và khoảng 3,7 triệu hộ kinh doanh cá thể. Những đơn
vị kinh doanh này đã góp phần giải quyết hơn 60% lao động phi nông nghiệp trong
cả nước.
1.2 Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Với mục đích hoạt động là “ đi vay” để “ cho vay”; thông qua các hoạt động của

mình điều tiết và định hướng các hoạt động đầu tư, trong đó hoạt động tín dụng
dùng để hướng các nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau vào hoạt động kinh tế
hiệu quả. Có thể hiểu về hoạt động tín dụng như sau:
Hoạt động tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay ( ngân
hàng thương mại hoặc các định chế tài chính khác ) và bên đi vay( cá nhân,
doanh nghiệp và các chủ thể khác ), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
vên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
Về bản chất, hoạt động tín dụng chính là một hình thức bán sản phẩm dịch
vụ đặc biệt với đối tượng là tiền tệ. Hoạt động tín dụng tạo ra nguồn thu nhập
chính của ngân hàng thông qua sự chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào.
1.2.2 Vai trò
1.2.2.1 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của
doanh nghiệp. Vấn đề về vốn- công nghệ- thị truờng là vấn đề cốt lõi của mỗi
doanh nghiệp, trong đó có DNVVN thiếu hay yếu kém của các yếu tố trên đã làm
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô
nói riêng gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt ảnh hưởng
rất lớn đến năng lực cạnh tranh của DNVVN trong xu thế hội nhập “. Thực tiễn
cho thấy tình trạng thiếu vốn đang là khó khăn lớn nhất đối với các DNVVN. Hiện
nay, vấn đề tiếp cận các nguồn vốn đang là vấn đề mà doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn. Nhất là đối với khoản tín dụng trung và dài hạn. từ ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác. Đặc biệt là khoản vay bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Và tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
doanh nghiệp :
- Là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các
DNVVN.
- Góp phần đảm bảo hoạt động của DNVVN được liên tục.
- Góp phần tập trung vốn cho sản xuất.

- Góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNVVN để đạt được mục
đích phân tán rủi ro, tiết kiệm chi phí vốn, tăng lợi nhuận.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNVVN bởi khi vay vốn
ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, đảm bảo trả nợ vay đầy
đủ, đúng hạn…
1.2.2.2 Đối với sự phát triển kinh tế.
DNVVN là nhân tố quan trọng trong nền kinh tế, sự phát triển của các doanh
nghiệp này góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế. DNVVN ở Việt Nam
đóng góp vào khoảng 40% GDP hàng năm. DNVVN tạo nên sự ổn định trong xã
hội, tạo công ăn việc làm, tạo thu nhập cho người dân trong xã hội. Tín dụng ngân
hàng sẽ là động lực phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời kéo theo sự phát
triển của nền kinh tế.
- Là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế.
- Góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ
chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
- Là công cụ để nhà nước điều tiết khối lượng tiền lưu thông.
- Thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kế toán kinh
doanh giúp doanh nghiệp khai thác hiệu quả tiềm năng trong kinh doanh khi vay
vốn ngân hàng.
- Là động lực hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa.
1.2.2.3 Đối với ngân hàng.
Hoạt động tín dụng tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo lập
uy tín và danh tiếng của ngân hàng trên thị trường. Tuy nhiên, vì hoạt động tín
dụng có tính chất xã hội hóa cao nên bất kì rủi ro nào trong hoạt động tín dụng
cũng có thể gây ra rủi ro cho toàn hệ thống. Vì vậy hiệu quả tín dụng được đặt lên
hàng đầu.
1.2.3 Đặc điểm của tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Vấn đề nổi cộm của DNVVN là: vốn tự có của đa số các doanh nghiệp rất
hạn hẹp, nhất là các doanh nghiệp dân doanh; cơ sở vật chất kĩ thuật như nhà
xưởng, máy móc, thiết bị, dây truyền công nghề đều cũ kỹ lạc hậu, năng suất lao
động thấp, môi trường làm việc độc hại và ô nhiễm…., doanh nghiệp rất cần vốn
để thay đổi thiết bị và công nghệ. Chính vì vậy các DNVVN có nhu cầu vốn lớn
trong toàn bộ nền kinh tế nhưng xét về quy mô hoạt động của khoản vay của từng
doanh nghiệp thì khoản vay đó có thể là nhỏ so với ngân hàng. Trên thực tế các
ngân hàng chỉ có thể đáp ứng được cho doanh nghiệp vay các khoản ngắn hạn.
Trên thế giới và Việt Nam việc cấp tín dụng cho các DNVVN luôn gặp những khó
khăn mang tính quy luật. Đó là rủi ro mang tính mất vốn cao, các DNVVN không
đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu của ngân hàng. Với vai trò ngày càng tăng của
mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam đã tạo được sự chú ý của ngân
hàng và chính bản thân ngân hàng cũng nhận thấy phải xem xét lại tính hiệu quả
đối với việc cho vay các đối tượng này nhằm có một chiến lược phát triển bền
vững và ổn định.
1.2.3.1 Về quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ.
Ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là từ kênh
ngân hàng. Theo định hướng của chính phủ, đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000
DNVVN. Đi cùng với con số này là một lượng vốn lớn cần đáp ứng. Trong vài
năm trở lại đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNVVN vay chiếm
tới 40% tổng dư nợ. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng
trưởng tín dụng dành cho khối DNVVN trong những năm gần đây cũng đã có
những dấu hiệu khả quan: năm 2004 là 20.18%, năm 2005 là 25% và năm 2006 là
30,9%. Tuy nhiên theo một số điều tra về thực trạng DNVVN do cục phát triển
doanh nghiệp ( Bộ kế hoạch đầu tư) công bố mới đây cho thấy chỉ có 32,38% số
doanh nghiệp cho biết có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn Nhà Nước ( chủ
yếu là từ các ngân hàng thương mại)
Như vậy có thể nói dư nợ của từng doanh nghiệp là có thể rất nhỏ so với
tổng dư nợ của ngân hàng.Nhưng số lượng các doanh nghiệp đông đảo, xét trong
toàn bộ nhóm thì dư nợ của chúng cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng dư

nợ của ngân hàng.
1.2.3.2 Về nợ quá hạn
Khi cho vay DNVVN thường có rủi ro nhiều hơn so với việc cho vay các
doanh nghiệp lớn, chúng thường là rủi ro có thể phân tán được và không mang tính
hệ thống. Quy mô của một món vay nhỏ khi phát sinh nợ quá hạn thì chủ yếu tác
động đến thu nhập của ngân hàng, thường không gây ra các rủi ro khác như: rủi ro
thanh khoản, rủi ro phá sản. Mặt khác ngân hàng luôn yêu cầu có tài sản thế chấp
đối với các khoản vay này nên phần nào giảm bớt tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Thực
tiễn cho thấy hầu hết các ngân hàng gặp khó khăn về thanh toán cũng như dẫn đến
phá sản đều do sự đổ bể trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp lớn tạo
nên. Trên một khía cạnh nào đó có thể nói cho vay các doanh nghiêp vừa và nhỏ
làm giảm bớt rủi ro phá sản cho các ngân hàng.
1.2.3.3 Khả năng sinh lời.
Ngân hàng có thể thu được nguồn lợi lớn từ việc cho vay đối với các
DNVVN. Hiện nay có rất nhiều DNVVN làm ăn có hiệu quả. Với nhóm doanh
nghiệp này, ngân hàng thương mại thường áp dụng mức lãi suất cao hơn các doanh
nghiệp lớn. Giá trị của một khoản vay tuy không lớn nhưng giá trị của tổng các
khoản vay thì rất lớn. Bên cạnh các khoản lãi từ hoạt động tín dụng nếu ngân hàng
khai thác tốt thì có thể thu thêm được nhiều nguồn lợi khác. Đó là các khoản phí
dịch vụ bảo lãnh, thanh toán, chuyển tiền…..Đối với các nguồn lợi này đặc biệt là
các khoản phí ngân hàng thu được từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều hơn, ngân
hàng cũng không phải chịu áp lực từ phía khách hàng như việc đáp ứng các dịch vụ
này cho các doanh nghiệp lớn.
1.2.3.4 Chi phí thẩm định
Chi phí thẩm định của một món vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
cao do dư nợ thấp trong khi vẫn phải đảm bảo các bước của quy trình tín dụng. Về
việc cập nhật và xử lý thông tin liên quan, thời gian dành cho một doanh nghiệp
vừa và nhỏ ít hơn rất nhiều do DNVVN có số lượng giao dịch ít, đơn giản, dễ kiểm
tra đánh giá. Tài liệu lưu cho một doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng ít hơn nhiều so
với doanh nghiệp lớn thể hiện trên các hóa đơn thanh toán, giấy nhận nợ, hợp đồng

tín dụng, các báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng. Một lý do nữa là trong các
ngân hàng, một cán bộ tín dụng có thể quản lý nhiều khoản vay, giao dịch của
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngược lại một cán bộ thậm chí nhiều hơn thường
chỉ theo dõi phụ trách được một công ty lớn do đó có quá nhiều giao dịch phát sinh
của công ty đó trong một thời gian ngắn.
1.3 Hiệu quả của ngân hàng thương mại đối với DNVVN
1.3.1 Khái niệm hiệu quả tín dụng
Hiệu quả tín dụng được xem xét trên nhiều yếu tố như khả năng thu hút
khách hàng, mức độ an toàn, doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Để đo lường hiệu quả
tín dụng người ta căn cứ dựa trên yếu tố so sánh giữa đầu ra và đầu vào của kỳ này
so với kỳ trước, của đơn vị này so với đơn vị khác…
Hiệu quả tín dụng của ngân hàng được phụ thuộc rất lớn vào kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp vay vốn. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân hàng
có được thông báo qua các doanh nghiệp bằng hình thức “ giá của quyền sử dụng
vốn”. Lãi sẽ được thu đủ và đều đặn nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Ngược lại ngân hàng sẽ không thu được lãi và có thể việc thu hồi vốn cũng gặp
khó khăn.
Hiệu quả tín dụng thể hiện thông qua những tác động của hoạt động cho vay
ngân hàng về một số phương diện: tác động như thế nào đến khách hàng vay vốn,
tới nền kinh tế và tới ngân hàng:
- Đối với ngân hàng : Phạm vi, mức độ, giới hạn cho vay phải phù hợp với
thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo nguyên tắc tín dụng, hạn chế thấp nhất
rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh và cạnh tranh, mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng.
- Đối với khách hàng doanh nghiệp: Hoạt động cho vay phải phù hợp với
mục đích của khách hàng, với lãi suất hợp lý thu hút được nhiều khách hàng nhưng
vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

×