Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.76 KB, 33 trang )

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG
VỐN VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN TẠI
SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM

A. PHÂN TÍCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN HUY ĐỘNG
VỐN VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN
1. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU
1.1 Mục tiêu của toàn hệ thống NHĐT&PTVN:
Trong năm 2002, cùng với tiến trình cải tổ lại toàn bộ hệ thống Ngân Hàng
Việt Nam. NHĐT&PT đã đề ra mục tiêu tổng quát như sau:
Cơ cấu lại gắn liền với phát triển toàn diện vững chắc, giữ vững nhịp độ tăng
trưởng cao, hiệu quả, an toàn phục vụ đầu tư phát triển. Đổi mới đa dạng sản phẩm
và dịch vụ với cơ cấu hợp lí, chất lượng tốt, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh
của toàn hệ thống theo đòi hỏi của cơ chế thị trường và lộ trình hội nhập quốc tế,
phát triển bền vững Ngân Hàng đầu tư &phát triển Việt Nam làm nòng cốt cho
việc xây dựng và phát triển tập đoàn tài chính-tín dụng đa năng vững mạnh, hội
nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát
nước.
Biểu 12:
MỘT SỐ CHỈ TIÊU PHẤN ĐẤU CỦA TOÀN NGHÀNH NHĐT&PTVN
(Đơn vị: Tỉ VND)
Năm
Chỉ tiêu
2002 2003 2005
Tài sản 78 000 100 000 150 000
Huy động vốn 50 000 65 000 100 000
Tín dụng
(TD trung+dài)
53 000
45%


75 000
42%
110 000
40%
Vốn tự có 4000 5000
7 000
Nợ quá hạn
(Theo chuẩn
mực)
<= 6 % <= 5 % <= 4 %
ROE > 11% >12% > 13%

( Nguồn: Báo cáo của NHĐT&PTVN)
1.2 Mục tiêu của Sở Giao Dịch I NHĐT&PTVN:
1.2.1 Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh trong thời gian tới, thuận lợi và
khó khăn
Nhiệm vụ kinh doanh những năm tiếp theo của Ngân Hàng đứng trước những
thuận lợi và thách thức:
Thuận lợi:
- Nền kinh tế đang có sự biến chuyển tích cực, cơ cấu sản xuất thay đổi, từng bước
thích nghi hơn với những biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
- Tiến độ cơ cấu lại Ngân Hàng, xắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống Ngân Hàng đã được chính phủ phê duyệt và cho triển khai thực hiện.
- NHNN từng bước đổi mới điều hành các công cụ chính sách tiền tệ quốc gia. Cơ
sở pháp lí cho hoạt động Ngân Hàng tiếp tục được hoàn thiện, công nghiệp công
nghệ Ngân Hàng.
Những thuận lợi trên là tiền đề vững chắc cho sự phát triển bền vững của Ngân
Hàng trong những năm tới.
Tuy nhiên, nhìn về phía trước trong những năm tiếp theo, Ngân Hàng phải đối
mặt với nhiều khó khăn hơn hiện nay.

Khó khăn:
- Cơ cấu sản xuất trong từng nghành, từng lĩnh vực chưa chuyển dịch kịp
thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
- Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và không thuận lợi, những khó khăn có
thể còn kéo dài và ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng tăng trưởng kinh tế của nước
ta, thu nhập của nền kinh tế nước ta còn thấp và tăng chậm.
- Diễn biến lãi suất phức tạp rất khó lường trước, theo chiều hướng không
thuận lợi cho hoạt động Ngân Hàng.
Nhận định được những thuận và khó khăn trong những năm kế tiếp cùng với
sự phát triển chung của toàn hệ thống NHĐT&PTVN, SGD I cần thiết phải cụ thể
hóa mục tiêu và kế hoạch .
1.2.2 Mục tiêu về quản lí và huy động vốn của SGD I:
Xác định cơ cấu đầu tư của toàn hệ thống, duy trì mức tăng trưởng cao hơn
mức tăng trưởng của toàn nghành, được sự hỗ trợ đầu tư của TW, với nguồn lực
hiện có, đơn vị đã xác định một số chỉ tiêu trong kế hoạch kinh doanh năm, 2003
như sau:
Tổng tài sản: 1 150 tỉ VND
Nguồn vốn huy động: 9 480 tỉ VND
Lợi nhuận: 90 tỉ VND
Phấn đấu đến năm 2010 xây dựng đơn vị thành một tập đoàn tài chính tín dụng
có các chỉ số hoạt động chuẩn mực với các chỉ tiêu hoạt động như sau:
Biểu 13:
CHỈ TIÊU TỔNG QUÁT CỦA SGD I NHĐT&PTVN
(Đơn vị: Tỉ VND)
Năm
Chỉ tiêu
2005 2010
Tốc độ tăng trưởng
tổng tài sản bình
quân từ năm 2000

đến ...
24 - 26%/năm 22 - 24%/năm
Tổng tài sản dự kiến 20 872 51 930

Tốc độ tăng trưởng
tổng nguồn vốn huy
động
16 388 50 304
Chỉ tiêu tài chính
- ROA
- Lợi nhuận
+ 0.7%/năm
+15%/năm
+0.95%/năm
+13%/năm
(Nguồn: SGD I NHĐT&PTVN)
2. ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI HUY ĐỘNG VỐN VÀ
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN

Đây là một bước quan trọng của quá trình phân tích chiến lược, gồm có đánh giá
các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
1.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô:
1.1.1 Tổng quan chung về tình hình kinh tế Việt Nam và dự báo tương lai:
Từ khi bắt đầu cải cách kinh tế từ những năm 80, Việt Nam chúng ta đã được
những thành tựu nổi bật. Siêu lạm phát gây ra bởi chính sách tiền tệ, các khoản nợ
vào cuối những năm 80 đã được kiềm chế bằng chính sách cân bằng thu chi và
chính sách tiền tệ chặt chẽ vào đầu những năm 90. Điều này đã góp phần tạo nên
sự ổn định giá trị đồng Việt Nam, kết quả là đã thu hút được đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài giúp nước ta có sự tăng trưởng kinh tế cao trong những năm sau.
Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, gây ra bởi sự phá giá bất ngờ của đồng Bạt

Thái Lan vào giữa năm 1997, đã gián tiếp ảnh hưởng đến kinh tế nước ta: xuất
khẩu sang các nước láng giềng giảm, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong
nước sụt giảm. Bởi vậy nền kinh tế nước ta bị chững lại vào năm 1998, năm 1999
tỉ lệ tăng trưởng GDP giảm xuống còn 4-5% so với cùng kì những năm trước là 8-
9%. Trong hai năm 2000, 2001 nền kinh tế nước ta từ từ phục hồi và tăng trưởng,
NHNN tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích cầu GDP năm 2001 đã được
là 6.8%.
Cũng trong năm 2002, chính sách tiền tệ mở rộng đã trở nên phổ biến trên toàn
cầu. Hiện nay, cục dữ trữ Liên Bang Mĩ Fed đã cắt giảm lãi suất cơ bản xuống ở
mức 1.75% một năm, sau 11 lần hạ từ mức 6.5%. Đây là mức thấp nhất kể từ 40
năm qua. Động thái này sẽ có lợi đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam ở chỗ: Làm giảm nhẹ gánh nặng nợ nước ngoài, đồng vốn nước ngoài trở nên
rẻ hơn, giảm sức ép về tỉ giá, cho phép các nước nới lỏng chính sách tiền tệ chống
suy thoái hay duy trì tăng tăng trưởng ổn định, gia tăng xuất khẩu. Tuy nhiên điều
này sẽ có được nếu như Việt Nam xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh
2.1.2 Chính sách lãi suất, tỉ giá:
Các chỉ số chứng khoán, lãi suất, tiền gửi, tỉ giá là những điểm, là vấn đề đầy
nhạy cảm trong các nền kinh tế thị trường. Các chỉ số này đều là những biến số vĩ
mô quan trọng trong việc hoạch định chiến lược của Ngân Hàng. Trong phạm vi đề
tài này em xin phép được bỏ qua biến chỉ số chứng khoán vì qui mô chứng khoán
hóa của nền kinh tế nước ta còn rất nhỏ so với tổng GDP.
* Công cụ lãi suất:
Thời gian qua, chính sách lãi suất được đổi mới từng bước theo hướng tự do
hóa, cơ chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn, phù hợp với cung
cầu vốn trên thị trường. Diễn biến lãi suất được kiểm soát (từ 3 con số nay xuống
dưới 10%). Quyền ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở
rộng cho nên cạnh tranh trên thị trường tiền tệ tăng lên, nhưng Nhà nước vẫn kiểm
soát được các mức lãi suất, biểu hiện ở tỉ lệ tăng trưởng vốn huy động và tín dụng
của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế ở mức cao, 15-22%/năm
(riêng NHĐT&PT là trên 22%).

Cơ chế lãi suất hiện nay và trong thời gian tới đây được tiếp tục đổi mới theo
hướng hình thành trên cơ sở nguyên tắc của cơ chế thị trường, từng bước được tự
do hóa nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của Nhà nước, phù hợp với tiến
trình cải cách DNNN, mục tiêu và diễn biến tiền tệ, kinh tế vĩ mô (lạm phát, tăng
trưởng kinh tế, tạo việc làm, cán cân thanh toán quốc tế ...), nhờ đó huy động tiết
kiệm trong nước và vốn từ nước nước ngoài ở mức cao, ổn định giá trị tiền VND.
Cơ chế điều hành lãi suất hiện nay và qua đó ảnh hưởng đến huy động vốn và
chiến lược phát triển nguồn vốn của đơn vị như sau:
- Sau nhiều lần thay đổi về chính sách, cơ chế điều hành, cho đến nay lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay giữa các tổ chức tín dụng với nhau đã được tự do
hóa. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động huy động giữa
các tổ chức tín dụng, đặt đơn vị trước một thách thức lớn, NHNN chỉ quản lí
lãi suất cho vay và qua đó ảnh hưởng đến lãi suất huy động cũng như chênh
lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động của Ngân Hàng.
- Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đồng VND thực hiện từ tháng 8/2001. Các tổ
chức tín dụng ấn định LSCB và biên độ do NHNN qui định trong từng thời kì
(Trong tháng 8, 9 năm 2000 LSCB = 0.75%/tháng, biên độ 0.3-0.5%/tháng;
Trong năm 2001, NHNN đã 4 lần cắt giảm lãi suất, vào 1/10/2001 LSCB =
0.6%). Lãi suất cơ bản được công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho
vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng
được lựa chọn theo quyết định của thống đốc NHNN trong từng thời kì.
LSCB được công bố định kì hàng tháng.
- Việc LSCV nội tệ được hình thành trên cơ sở tham khảo mức LSCV đối với
khách hàng tốt nhất như vậy cũng gây khó khăn cho Ngân Hàng. Vì là những
khách hàng tốt nhất nên sở đã hạ lãi suất cho vay tới mức thấp nhất đến mức
không thể hạ được nữa. Trong đó, các tổng công ti lớn của Nhà nước, các
doanh nghiệp có doanh số xuất khẩu cao, mặt hàng tiêu thụ trong nước tốt,
được sở cho vay với lãi suất có tính cạnh tranh cao (0.85-0.68%/tháng), thấp
hơn cả LSCB và tương đương mức lãi suất trên thị trường thế giới. Điều này
dẫn đến việc chênh lệch lãi suất cho vay và huy động của Ngân Hàng ngày

càng hẹp, gây khó khăn cho việc huy động nguồn vốn của Ngân Hàng.
- Cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ: LSCV ngoại tệ ngắn hạn không vượt quá
mức bằng lãi suất tiền tệ liên Ngân Hàng Singapo thời hạn 3 tháng + tối đa
một năm.
Lãi suất cho vay ngoại tệ trung, dài hạn không vượt quá mức = lãi suất thị
trường tiền tệ liên Ngân Hàng Singapo kì hạn 6 tháng + tối đa 2.5%/năm.
- Từ 1/6/2001, NHNN bỏ cơ chế khống chế biên độ, cho phép các Ngân Hàng
thương mại và tổ chức tín dụng dựa trên lãi suất thị trường quốc tế và cơ cấu
nguồn vốn ngoại tệ trong nước mà thỏa thuận với khách hàng của mình mức
lãi suất cho vay phù hợp. Qui định này vừa tạo ra thuận lợi lẫn bất lợi cho
Ngân Hàng. Thuận lợi ở chỗ: Sở có thể bằng khả năng của mình chủ động
hơn trong việc tìm kiếm các nguồn ngoại tệ rẻ trên thị trường trong nước, mua
vào bán ra thông qua các hợp đồng Spot hay kì hạn để thu chênh lệch tỉ giá
nếu dự đoán đúng với xu hướng của thị trường. Bất lợi ở điểm vì chưa được
trung ương cho phép kinh doanh trực tiếp trên thị trường tiền tệ quốc tế nên
Ngân Hàng không được vượt rào mà phải vận dụng được khả năng kinh
doanh nhanh nhạy của mình. Hơn nữa, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ chỉ vừa
mới được sở tiến hành trong thời gian ngắn nên chưa có kinh nhgiệm và đủ
mạnh bằng các Ngân Hàng khác.
Như vậy, phản ứng của thị trường, của các tổ chức tín dụng, và người gửi,
người vay tiền cho thấy cơ chế lãi suất cơ bản và cơ chế lãi suất ngoại tệ nói trên là
phù hợp với lộ trình tự do hóa tài chính khu vực, là bước đi thích hợp. Tuy nhiên,
xét theo quan điểm tự do hóa, trong điều kiện cải cách các Ngân Hàng thương mại
mới ở giai đoạn đầu, thì cơ chế lãi suất vẫn chứa đựng một số bất cập và có tác
động ngược chiều tới hoạt động huy động vốn của Ngân Hàng.
* Công cụ tỉ giá:
Hiện nay, mục tiêu cuối cùng của NHNN trong việc cải cách cơ chế điều hành
tỉ giá là tiến tới thả nổi tỉ giá, qua đó ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền
tệ. NHNN đã thực hiện cải cách thận trọng cơ chế điều hành tỉ giá. Chính sự thận
trong này đã mang lại những thành công lớn trong thời gian qua là góp phần vào sự

ổn định của thị trường tiền tệ, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, góp phần vào sự hình
thành và phát triển của thị trường ngoại hối nói chung cũng như thị trường tiền tệ
liên Ngân Hàng nói riêng.
Tóm lại, lãi suất và tỉ giá là hai công cụ điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN có mối quan hệ đầy nhạy cảm và liên quan chặt chẽ tới nhau. Do vậy, sẽ
đem lại hiệu quả cao hơn nếu việc cải cách các công cụ này được phối hợp đồng
bộ. Trên thực tế, sự cải cách đồng bộ giữa hai công cụ nàycó những hạn chế nhất
định. Sự hoạt động yếu kém của các doanh nghiệp những năm sau khủng hoảng, rõ
nét nhất là năm 1999 đã làm cho việc điều hành khó khăn, qua đó gây ra dòng dịch
chuyển vốn từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ, làm tăng tỉ trọng Dolla hóa nền kinh
tế (tỉ trọng ngoại tệ trong tổng phương tiện thanh toán tăng từ 19% năm 1995 lên
gần 29% năm 2000 và có giảm đôi chút vào năm 2001, 2002). Những nhân tố trên
đã làm hạn chế khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN, hạn chế việc sử dụng vốn
của các NHTM.
2.1.3 Các nhân tố khác nhau thuộc môi trường vĩ mô:
Đó là các nhân tố dân số, văn hóa, chính trị, kĩ thuật. Các nhân tố này cũng góp
phần tác động đáng kể tới kế hoạch chiến lược của Ngân Hàng.
Về nhân tố kĩ thuật: Mặc dù có trụ sở ở trung tâm thủ đô nhưng việc giới thiệu
quảng bá hình ảnh của Ngân Hàng cũng như áp dụng các công nghệ Ngân Hàng
mới vẫn còn chậm. Cả SGD I mới chỉ có môt số ít máy rút tiền tự động ATM hoạt
động nhưng chưa nối mạng đại lí với các Ngân Hàng khác. Dân cư vẫn còn dè dặt
khi dự định sử dụng các dịch vụ của Ngân Hàng có thể vì chưa rõ họ sẽ được phục
vụ ở mức nào, mức bình dân như của NHNN&PTNT, các quĩ tín dụng nhân dân
hay các dịch vụ cao cấp như của ACB.
Về nhân tố chính trị: Một sự kiện kinh tế, chính trị mà trong đó có tác động rất
lớn Ngân Hàng đó là vấn đề về hiệp định thương mại Việt - Mĩ. Trong thời gian
tới
đây SGD I cần có sự thay đổi đáng kể trong chiến lược huy động vốn của mình.
Trong lộ trình thương mại dịch vụ, các điều khoản cam kết thuộc lĩnh vực
Ngân Hàng chỉ có 3 trang, nhưng những dòng chữ ngắn ngủi đó đang đặt các

Ngân Hàng Việt Nam, trong đó có SGD trước nhiều thách thức. Mối lo ngại lớn
nhất của Ngân Hàng có lẽ là có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh với nguồn tài chính
dồi dào và dày dạn kinh nhgiệm hơn.Hiệp định thương mại qui định rõ, sau 9 năm
kể từ ngày có hiệu lực, các Ngân Hàng Mĩ được phép thành lập Ngân Hàng con
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm “ân hạn” cho các Ngân
Hàng Việt Nam, các Ngân Hàng Mĩ có thể thành lập Ngân Hàng liên doanh với đối
tác trong nước. Hơn nữa, đối tác trong đã cắm rễ vào thị trường, nay có thêm
nguồn lực tài chính, cộng thêm các công nghệ, dịch vụ mới được chuyển giao từ
đối tác bên ngoài, một Ngân Hàng liên doanh với Mĩ cũng là một đối thủ đáng
gờm đối với các Ngân Hàng trong nước nói chung và SGD I nói riêng.
Trên đây là một số đánh giá chủ quan của bản thân em về tác động của các
nhân tố vĩ mô tới huy động vốn và giải pháp chiến lược phát triển nguồn vốn tại
SGD I NHĐT&PTVN . Sau đây em xin được tiếp tục phân tích đánh giá các nhân
tố thuộc môi trường vi mô.
1.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô:
2.2.1 Phân tích các đối thủ cạnh tranh:
 Tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam:
Hiện nay, hệ thống tài chính của Việt Nam bao gồm 6 NHTMQD (chiếm 82%
tổng tài sản của hệ thống Ngân Hàng), khoảng 50 Ngân Hàng Thương mại cổ phần
mà cổ phần của nó bao gồm cả DNNN lẫn tư nhân (chiếm 10% tổng tài sản của hệ
thống Ngân Hàng), 27 chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài và 4 Ngân Hàng liên
doanh cùng nhau chiếm 8% tổng tài sản của cả hệ thống tài chính. Tổng tài sản của
hệ thống Ngân Hàng Việt Nam mới tương đương 38%GDP, tổng dư nợ tín dụng là
22%GDP và tổng tiền gửi là 20% GDP. Điều này nói lên mức độ tiền tệ hóa của hệ
thống tài chính ở nước ta còn thấp, chưa theo kịp các nước trong khu vực. Thái
Lan, Indonexa, Philippin...(tổng tài sản của hệ thống Ngân Hàng các nước này đạt
từ 100-150%GDP).
Thực tế cho thấy, chỉ số độc quyền HHI trên thị trường Ngân Hàng đã giảm đi
nhanh chóng từ khoảng 80% năm 1993 xuống còn 35% vào năm 1999. Trong
những năm tiếp theo, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn trong toàn hệ thống

Ngân Hàng thương mại Việt Nam.
Lợi thế về độc quyền của đầu tư TW nói chung và của SGD nói riêng sẽ bị
giảm sút. Trước đây, khách hàng truyền thống của Sở là các tổng công ti 90-91 thì
mấy năm gần đây Ngân Hàng phải chia xẻ một phần cho các Ngân Hàng khác.
- Các Ngân Hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD): Điểm mạnh của họ so với
NHĐT&PTTW và SGD I là:
+ Ngân Hàng ngoại thương: Đứng đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và
kinh doanh ngoại tệ.
+ Ngân Hàng công thương: Có mạng lưới hoạt động Ngân Hàng rộng khắp trên
cả nước. Tầng lớp khách hàng đông đảo đa dạng. Ngân Hàng có lợi thế do cơ chế
cũ để lại, là Ngân Hàng giàu vốn tiền đồng nhất do hầu hết các tổng công ti, các
DNNN đều có tài khoản ở đây từ khi nước ta còn chưa chuyển đổi nền kinh tế tập
trung bao cấp. Mức lãi suất huy động tiền gửi không kì hạn trung bình
0.15%/tháng. Do đó lãi suất huy động bình quân của Ngân Hàng chỉ dao động ở
mức 0.3-0.32%/tháng, dẫn đến chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào lớn hơn các
Ngân Hàng khác.
+ Ngân Hàng NN&PTNTVN: là Ngân Hàng có số vốn tự có lớn nhất (năm
1999 là 220 tỉ VND), khách hàng rất đông trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tính đến ngày 31/12/2001, tổng nguồn vốn huy động của 4 NHTMQD là
250 200 tỉ VND, chiếm tỉ trọng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn hệ thống.
Trong đó Ngân Hàng ngoại thương huy động 77.794 tỉ VND, chiếm 25% thị phần
của cả nước. Theo con số huy động trên thì thị phần huy động vốn của sở trên toàn
quốc là khoảng 8%, một con số thật đáng kể.
- Các chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài: Với qui mô huy động toàn cầu, sức
mạnh về vốn, công nghệ , sự đa dạng hóa về dịch vụ. Các chi nhánh Ngân Hàng
nước ngoài đã và đang dần dần từng bước vững chắc hình thành và bám rễ vào nền
kinh tế Việt Nam. Với một tị phần khá lớn như hiện nay, có thể nói khả năng chi
phối và ảnh hưởng của các Ngân Hàng nước ngoài đối với hoạt động tài chính
trong nước là khá lớn.
Trong tiến trình tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, WTO, các qui

định về hoạt động Ngân Hàng sẽ được nới lỏng hơn ...Chẳng hạn, NHNN sẽ nới
lỏng phạm vi hoạt động của các Ngân Hàng nước ngoài, cho phép huy động tiết
kiệm VND, USD từ dân cư.
Tự do hóa lãi suất, nới lỏng qui định hoạt động cho các tổ chức tín dụng sẽ
làm giảm ưu thế của SGD. Nếu lãi suất tiền gửi của pháp nhân được tự do hóa, cho
phép các tổ chức tín dụng nước ngoài được huy động tiết kiệm sẽ là thách thức lớn
đối với các NHTMQD nói chung và SGD nói riêng trong việc duy trì thị phần vốn
huy động, bởi các NHTM được phép sử dụng các công cụ cạnh tranh nhằm thu hút
vốn, mở rộng thị phần. Như vậy, Ngân Hàng phải có chiến lược dài hạn để đối phó
với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Ngân Hàng nước ngoài huy động ở Việt Nam từ đầu những năm 90, ban đầu
chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng nay đã mở
rộng đối tượng khách hàng sang cả doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, họ chỉ tập
trung vào các doanh nghiệp hoạt động có lãi lớn, luồng chu chuyển lớn và có
nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu ổn định, số lượng tương đối. Đây cũng là
những khách hàng ưu tiên truyền thống của sở. Do vậy thách thức đang phải đối
mặt của Ngân Hàng là làm sao phải duy trì được khách hàng truyền thống, khách
hàng có chất lượng tốt, không bị chia sẻ với các đối thủ cạnh tranh khác.
- Các Ngân Hàng thương mại cổ phần (NHTMCP):
Các Ngân Hàng thương mại cổ phần đã tập trung có qui mô nhỏ nên chỉ tập
trung vào các khách hàng nhỏ hay phát triển hoạt động Ngân Hàng bán lẻ (đây là
thị trường mà NHĐT&PT hiện còn bỏ ngỏ). Khi có tiềm lực tài chính, qui mô vốn
và uy tín được nâng cao, các NHTMCP cũng sẽ xâm nhập vào các khách hàng lớn.
Chiến thuật “nhỏ là đẹp” của một số NHTMCP đã đạt được hiệu quả cao. Điều này
được thấy rõ nhất ở NHTMCP Á Châu. Cho đến nay, NHTMCP Á Châu là một
trong những đối thủ cạnh tranh mạnh nhất về thị trường thẻ tín dụng ở nước ta.
Ngoài ra, Ngân Hàng này cũng đã thâm nhập vào thị trường tín dụng của một số
khách hàng lớn thông qua hình thức đồng tài trợ.
Tóm lại, để duy trì được thị phần ổn định trước mức độ cạnh tranh gay gắt như
hiện nay, đòi hỏi Ngân Hàng phải có giải pháp tổng thể kế hoạch huy động vốn

chiến lược phát triển bền vững nguồn vốn, trong đó có chiến lược cạnh tranh, phát
triển sản phẩm mới.
- Các tổ chức phi Ngân Hàng:
Đó là các quĩ tín dụng nhân dân, các công ti tài chính, công ti bảo hiểm, bưu
điện ... Hiện nay, cả nước có gần 900 quĩ tín dụng nhân dân cơ sở làm nhiệm vụ
huy động vốn và cho vay. Các công ti tài chính cạnh tranh với sở trong lĩnh vực
cho thuê tài chính, chovay trung, dài hạn ...
Trong lĩnh vực chuyển tiền cá nhân tiết kiệm nhỏ lẻ, Ngân Hàng hiên đang
thua kém bưu điện, đánh giá sự thua kém này qua bảng so sánh sau:
SO SÁNH LỢI THẾ GIỮA NGÂN HÀNG VÀ BƯU ĐIỆN
Chỉ tiêu Bưu điện NHTM
Mạng lưới giao dịch Rộng khắp, đến các xã Tại trung tâm tỉnh,
thành phố.
Thời gian chuyển tiền Nhanh Nhanh hơn
Phí dịch vụ Cao hơn Thấp hơn
Thông báo cho khách
hàng nhận tiền
Có nhân viên bưu điện
đưa giấy đến tận tay
Không có
Mức độ phổ cập Tôt hơn Không bằng
Bưu chính viễn thông Việt Nam vừa khai trương dịch vụ tiết kiệm bưu điện
với các loại hình tiết kiệm không kì hạn, tiết kiệm có kì hạn, tiết kiệm trả góp. Tại
Hà Nội đã có trên 7300 tài khoản được mở với số vốn huy động trên 10 tỉ VND.
Chủ tài khoản được hưởng tiện ích tương tự như Ngân Hàng, ngoài ra được miễn
phí mở tài khoản , miễn phí giao dịch gửi rút tiền nội tỉnh. Dường như dân chúng
có thói quen đến bưu điện hơn là đến Ngân Hàng. Điều này cũng giải thích lí do tại
sao tiền gửi không kì hạn cá nhân tại Ngân Hàng có tỉ lệ nhỏ.
Một đối thủ cạnh tranh đáng ngại nữa hiện nay đó là các công ti bảo hiểm. Tổ
chức bảo hiểm tham gia vào hệ thống tài chính với tư cách là trung gian tài chính,

cung cấp các sản phẩm dịch vụ như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm an sinh xã hội,
bảo hiểm học đường ... Thị phần huy động vốn của các công ti bảo hiểm gia tăng
hàng năm đây là mối lo ngại cho các NHTM.
Giải pháp cho tình huống này là sở cần kết hợp với công ti bảo hiểm. Hiện tại,
sở đang phối hợp với Chìnon, Prudential làm dịch vụ chi trả lương cho nhân viên
các hãng này, qua đó thu hút được một lượng lớn và có khả năng cung ứng các sản
phẩm dịch vụ khác như: phát triển dịch vụ cho vay đời sống, tổ chức thu nợ hàng
tháng từ tài khoản tiền lương, thanh toán hộ một số khoản chi phí điện, nước, bảo
hiểm ... theo định kì, thực hiện nghiệp vụ môi giới, tiền gửi thanh toán, hỗ trợ vốn
trong giao dịch mua bán bất động sản và các tài sản khác có giá trị lớn qua tài
khoản Ngân Hàng.
1.2.2 Các quan hệ với khách hàng
*Khách hàng truyền thống hiện nay của Ngân Hàng là các đơn vị thuộc tổng
công ti 90-91 thuộc các nghànhd kinh tế trọng điểm như dầu khí, sản xuất vật liệu
xây dựng ...
Cho đến nay, cả nước có 17 tổng công ti 91 và 77 tổng công ti 90 trong đó có
những lĩnh vực chỉ có một tổng công ti 91 như bưu chính viễn thông, dầu khí và
hàng không. Các tổng công ti Nhà nước có 1392 doanh nghiệp thành viên bằng
24% tổng số doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 66% về vốn, 55% về lao động trong
đó riêng 17 tổng công ti 91 có 532 doanh nghiệp thành viên bằng hơn 10% số
doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 56% tổng số vốn kinh doanh và 35% lao động.
Do đặc tính qui mô lớn nên các tổng công ti 90-91 đã tạo nên được hình thức
độc quyền tự nhiên và đạt được một số kết quả nhất định, từng bước tạo lập được
vị thế trong kinh doanh, đầu tư có trọng điểm, mở rộng thị trường, tăng cường xuất
nhập khẩu, nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Nhu cầu đầu tư và công nghệ mới, để thích ứng với sự cạnh tranh trong điều
kiện hiện nay đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn để nhập máy móc thiết bị và công
nghệ cũng như mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại. Trong khi thị
trường vốn nước ta mới phát triển thì Ngân Hàng được coi là nơi duy nhất để các
công ti này tìm kiếm nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là tìm đến NHĐT&PT thông qua

các dự án cho vay trung, dài hạn.
Vì vây, trong vài năm trở lại đây các tổng công ti này đang trở thành đối tượng
cho vay ưu tiên của các NHTM. Là doanh nghiệp quốc doanh, với khối lượng vốn
lớn, độc quền thị trường trong nước tại một số nghành và nhận được chính sách
bảo hộ của Nhà nước, chính là các yếu tố quan trọng thúc đẩy các NHTM hướng
vốn đầu tư của mình vào các doanh nghiệp này. Đối với các Ngân Hàng thì đầu tư
vào đây ít có nguy cơ bị mất vốn và cải thiện được tình hình kinh doanh hiện tại.
* Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình cải cách hệ thống DNNN và làm
lành mạnh hóa hệ thống tài chính. Do đó, tiến trình cải cách DNNN làm ảnh hưởng
đến khu vực Ngân Hàng:
- Các doanh nghiệp Nhà nước được xắp xếp lại trước hết để nâng cao sức
cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất qua đó tạo thuận lợi cho thị trường tín dụng
hoạt động an toàn hiệu quả.
- Việc tiến hành cổ phần hóa các DNNN đã bổ sung thêm các công cụ tài
chính cho thị trường tài chính, thị trường vốn. Một trong những yếu tố
quan trọng cho sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán.
- Việc cải cách các DNNN còn để lại gánh nợ khó thu đối với các Ngân
Hàng, trong khi đó các thị trường tín dụng của Việt Nam còn tiềm ẩn

×