Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Top 7 bài phân tích Tràng giang hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.16 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý phân tích bài thơ Tràng Giang</b>
<b>I. Mở bài:</b>


- Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận (đặc điểm tiểu sử, con người, các sáng tác
tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...)


- Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát những
nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...)


<b>II. Thân bài:</b>


* Nhan đề và câu thơ đề từ
- Nhan đề:


+ Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sơng dài.


+ Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh một con
sơng vừa dài vừa rộng.


- Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ
* Khổ 1


- Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sơng nước mênh mang.


→ Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đi nhau vỗ vào bờ không ngừng
nghỉ, không dứt, tô đậm thêm khơng gian rộng lớn, bao la.


- Hình ảnh: con thuyền xi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi


→ Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé
càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi.



- Hai câu cuối:


+ Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lịng “sầu trăm ngả”. Đặc
biệt, giữa cảnh sơng nước mênh mơng ấy,


+ Hình ảnh “củi một cành khơ lạc mấy dịng” gợi lên trong lịng người đọc ám ảnh khôn
nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu


→ Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dịng tràng giang là dịng đời vơ tận thì hình ảnh con
thuyền, cành củi khơ chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng
thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.


* Khổ 2


- Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:


+ Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự thưa thớt,
hoang vắng, lạnh lẽo


+ Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu
theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ,
thiếu vắng đi sự sống của con người


- Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ
lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cơ đơn đến tột cùng của
lòng người


* Khổ 3



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đị ngang”, “khơng cầu”.


→ Ở nơi đây khơng có bất cứ thứ gì gắn kết đơi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống,
của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với
nhau


* Khổ 4


- Hai câu thơ đầu khổ thơ: Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên
thơ.


+ Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới
ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.


+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn khơng
làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.


- Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả


+ Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó cịn
gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê
hương da diết.


+ Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét
niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ


<b>III. Kết bài:</b>


Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản
thân.



<b>2. Phân tích Tràng giang ngắn gọn</b>


Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930 - 1945) với những tác phẩm có
sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ơng có sự khác biệt lớn
gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể
nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến khơng khí
hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được
viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong
cuộc sống của kiếp người trơi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lịng người đọc nhiều nỗi
niềm khó tả.


Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của
bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sơng dài, mênh mông và bát ngát. Từ
Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng
chính "tràng giang" này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới
những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi
u uất như thế.


Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát lên chủ đề của bài thơ
chính là nỗi niềm khơng biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả
bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy
Cận.


Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất
chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:


<i>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Củi một cành khơ lạc mấy dịng</i>


Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, "lạc mấy dòng”
kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô
biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét
chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xi
mái và hơn hết là hình ảnh “củi khơ” trơi một mình, đơn lẻ trên dịng nước mênh mơng, vơ
tận, vô định. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông
mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền
và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước
lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa khơng báo trước, nghe
xót xa và nghe quạnh lòng hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông
nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự
đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm
trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long
đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.


Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:
<i>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu</i>


<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều</i>
<i>Nắng xuống trời lên sâu chót vót</i>
<i>Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu</i>


Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê
thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay khơng. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất
rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lịng ở ven dịng sơng dường như khốc lên mình một nỗi buồn
mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng khơng thể nghe thấy,
hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên
bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên


thật thê lương và khơng điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước
khơng có một bóng người, khơng có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả
mượn hình ảnh trời và sơng để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là
trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy
Cận. Hình ảnh sơng nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả
hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.


Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng
dường như thiên nhiên khơng như lịng người mong ngóng:


<i>Bèo dạt về đâu hàng nối hàng</i>
<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang</i>


<i>Khơng cầu gợi chút niềm thương nhớ</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của
vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.


Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dùng
rất đắc điệu:


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa</i>


<i>Lịng q dợn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà</i>


Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm
phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu, thêm buồn hơn. Hình


ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vơ hình của tác giả. Bóng
chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã
hình dung ra được trời chiều đang dần bng xuống.


Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gửi vào
đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến chúng ta liên
tưởng đến tứ thơ của Thơi Hiệu: "Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai" là sóng của sơng
hay là sóng trong lòng người.


Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên
một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Từ những lời văn phân tích bài thơ Tràng giang
của Huy Cận, chúng ta có thể thấy được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình
u q hương, mong ngóng về q hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.


<b>3. Phân tích bài thơ Tràng Giang chi tiết - mẫu 1</b>


Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng Tám,
thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng
thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của
thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước khơng gian mênh mơng, bài thơ cịn là nỗi
nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ.


Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập
"Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ơng trở thành
gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.


Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư
mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn
sau hình ảnh sơng dài cịn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của


nhân vật trữ tình trước khơng gian bao la của dịng sơng.


Phân tích bài thơ Tràng giang ngay trong khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con
sơng buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả:


<i>"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>


<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</i>
<i>Củi một cành khô lạc mấy dịng."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

loang ra, lan xa, xơ đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ
song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu thứ nhất "sóng gợn" là những vịng sóng
nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy
hồn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác.
Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dịng nước
mênh mơng vơ tận.


Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài.
Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai
hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai
hình ảnh ấy khơng cịn song hành với nhau nữa. "Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã
càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành
khơ" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cơ đơn cùng với tính
từ "khơ" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khơ héo hơn.


Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cơ
độc của củi trên dịng sơng. "Lạc mấy dịng" khơng chỉ diễn tả nỗi niềm cơ đơn của củi mà
cịn nói đến sự bấp bênh, trơi nổi khi "lạc" hết dịng sơng này đến dịng sơng khác. Nét độc
đáo của câu thơ khơng chỉ là phép đối mà cịn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy


"củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể
nói, hình ảnh "củi một cành khơ" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa
nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên bức
tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng
phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ.


Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.
<i>"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu</i>


<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều</i>
<i>Nắng xuống, trời lên sâu chót vót</i>


<i>Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu."</i>


Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang
vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, "đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên
"cồn nhỏ" làn gió phảng phất khơng khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó
u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ
hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà
thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như
tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian
mở rộng về chiều cao, có một khoảng khơng gian đang giãn nở ra ở giữa.


Hai động từ ngược hướng "lên" và "xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng
xuống thì bầu trời càng được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - khơng gian
mở rộng cả về chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Cịn đã
nói tới sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc "sâu thăm thẳm",... Chính cách dùng từ
ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng khơng vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi
buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vơ cùng vơ tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới
mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng khơng gian rộng để nói về nỗi cơ đơn, vắng vẻ. "Bến cô


liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa khơng gian rộng lớn của sơng, trời. Tồn cảnh khổ hai là
một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là khơng gian mênh mông,
nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang</i>
<i>Khơng cầu gợi chút niềm thân mật</i>


<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."</i>


Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt", nhưng sự vật
đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, chìm
nổi, khơng có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng" càng diễn tả sự vô định, chông
chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh
vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đị để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp
lại sự mong chờ ấy là "không một chuyến đò ngang".


Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định: "khơng đị" và giờ tiếp đến là "khơng cầu".
Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh
này khơng có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của
khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc
tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ
đây hai hình ảnh này khơng cịn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng
làm cho khơng khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm
trong cơ độc.


Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối cùng
chính là tâm tư, tấm lịng của thi sĩ:


<i>"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa</i>



<i>Lịng q dợn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hôn cũng nhớ nhà."</i>


Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp" - chồng
chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như vậy, với câu thơ đầu
khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh rộng lớn nhiều lớp mây đè lên
núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - khơng
vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở sau "bóng chiều sa".


Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu, cịn đang mơ hồ cho con
đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy
lâm tầm túc thụ" (Mộ - Hồ Chí Minh), tạm dịch "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với
câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi lịng nhớ q của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có
nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại
dâng lên. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng: "Khơng khói hồng hơn cũng
nhớ nhà". Hơn nghìn năm trước Thơi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:


<i>"Nhật mộ hương quan hà xứ thị</i>
<i>Yên ba giang thượng sử nhân sầu."</i>
<i>(Quê hương khuất bóng hồng hơn</i>
<i>Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai?)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ
trước thời cuộc.


Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
yếu tố cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán
Việt như tràng giang, bến cô liêu,... cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái
tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được


thể hiện thơng qua cái tơi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử
dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ
rộng lớn.


Sau khi phân tích bài thơ Tràng giang, chúng ta thấy Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh
thiên nhiên rộng lớn, mênh mơng mà qua đó tác giả cịn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi"
trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trơi nổi của những
kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước
của mình.


<b>4. Phân tích bài thơ Tràng Giang chi tiết - mẫu 2</b>


Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dịng sơng q
hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dịng sơng q luôn là nguồn cảm hứng không
bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ khơng thể kìm lịng mà phải viết. Một dịng sơng “nước
gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút
Nguyễn Tn, một dịng sơng Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ… Và chỉ khi đến với
“Tràng giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng
chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả.


Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ lớn, nhà
văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm
đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai
điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng
người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy
Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ
rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ.


Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi;
như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên


trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả.
Do đó, có thể nói: ấn tượng khơng gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. Nhà
thơ Xuân Diệu có lần từng nhận xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một
điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa,
cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Và “Tràng giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.


“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả
cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy
Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dịng sơng Hồng mênh mơng, lịng dào dạt xúc động
mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên
lúc hồng hơn khi nhà thơ đứng trước cảnh: “Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.”


Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể
lần mị theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang”
cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng
giang”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

có ý nghĩa chỉ con sơng dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con
sơng dài mênh mơng, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra
như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông
này.


Bước vào thế giới của Tràng giang, ta như lạc vào một miền sơng dài trời rộng đầy cuốn hút:
<i>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>


<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>
<i>Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả</i>


<i>Củi một cành khô lạc mấy dịng.</i>



Câu thơ đầu mở ra với sóng. Khơng ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ “gợn” vừa
miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến những chuyển động vơ
cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng thực chất “gợn” gợi ra cái không khi
tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật
tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của
nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng
đượm buồn.


Sóng khơng chỉ là sóng sơng mà cịn là sóng lịng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ,
thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy "điệp điệp” khơng
chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sơng nước mà cịn là dịng sơng tâm trạng của nhà
thơ, sóng lịng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã
nhắc lại nhan đề bài thơ không phải khơng có dụng ý. “Tràng giang” là con sơng vừa dài vừa
rộng, gợi ra khơng gian rộng lớn, chống ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng,
nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời.


Điều này càng tơ đậm thêm nỗi lịng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc mọi nơi.
Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn,
buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi khơng cịn thấy những dấu chân
trên đường.


Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp thống bóng
dáng của con thuyền. “Con thuyền xi mái nước song song” hay cũng chính là con thuyền
trơi vơ định, trơi song song dịng nước, cho con sóng đưa đi. Hình ảnh đó gợi cho tơi một tâm
thế bng xi, phó mặc cho dịng đời, sự đời đưa đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp
điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này.


Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước đẩy,
thuyền trơi. Thuyền trơi theo dịng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách
rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập


gợi ra cái vơ lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau, bề xa, ta càng hiểu được hơn
nỗi lòng của người lữ khách miền sơng nước.


Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời
rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối
gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận
“sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà khơng gì có thể bù đắp được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé,
bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vơ định trong dịng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành
khơ lạc mấy dịng” là điều khơng thể tránh khỏi.


Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:


<i>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu</i>
<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều</i>
<i>Nắng xuống, trời lên sâu chót vót</i>


<i>Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu.</i>


Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên
đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ
sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính là cái buồn khơng ai chia sẻ
đang dậy sóng trong tác giả.


Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm
giác đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả: “Lao xao chợ
cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như
thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là


khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ cịn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá
mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê
miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vơ hạn trong lịng thi nhân.


Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị Đường thi
của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ cùng các động từ, tính
từ đối nhau từng cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm cho không gian. Sông nước đã
rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều
dài, chiều rộng. Không gian như đang giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy
như mọi vật đang chuyển động ra xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức
tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ
trụ. Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần.


Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật.
Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.


<i>Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng</i>
<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang</i>


<i>Khơng cầu gợi chút niềm thân mật</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</i>


Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng giang được nhân lên mấy lần phủ định.
Chiếc cầu, con đị bắc nối đơi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống,
thường gợi lên khơng khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ q hương: “Chiếc cầu là nơi hị hẹn của
đơi ta - Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo - Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo - Nhịp
cầu nối những bờ vui” (Nhịp cầu nối những bờ vui). Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc
nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình
người, lịng người muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận “cánh bèo
mặt nước” (Nguyễn Du), sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:


<i>Phận bèo bao quản nước sa</i>
<i>Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh</i>


<i>(Nguyễn Du)</i>


Câu thơ cho ta thấy: Bèo dạt hoa trôi trên dịng tràng giang hay cũng chính là kiếp trơi nổi
của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng, kéo nhau như
sóng gợn trong lịng Huy Cận.


Khơng nhìn dịng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:
<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>


<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.</i>


Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về
buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này khơng có tác dụng hơ ứng cho nhau như trong thơ cổ,
mà chúng cịn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp
mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh
trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó khơng phải đám mây cô đơn lững lờ trôi giữa
tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên
trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh
chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng
làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn cơi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ
vơ giữa đất trời này.


Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tơ đậm thêm nỗi buồn trong lịng nhà
thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả khơng gian:



<i>Lịng q dờn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.</i>


“Lịng q” hay cũng chính là hồn q, tình q trong lịng thi nhân, sự hướng tâm chứ khơng
chỉ đơn thuần là tấm lịng chất phác, q mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển
đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? Hai từ “dờn
dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lượn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng
của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ
một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng
nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lịng nhớ q hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp.
Câu thơ cuối cùng kết lại tồn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư tưởng,
tình cảm của bài thơ. “Khơng khói hồng hơn” nghĩa là khơng một yếu tố ngoại cảnh nào tác
động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà?


Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thơi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hồi hương của mình thế này:
“Q hương khuất bóng hồng hơn / Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai” (Hồng Hạc
Lâu). Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Cịn ở phần phân tích bài thơ Tràng giang của
Huy Cận, ta lại thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha
đất tổ. Đủ để thấy cái tình q ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài
thơ, Huy Cận đứng trước dịng sơng q hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm trầm nhưng sâu
sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhận xét: “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên
đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng
con địi…


Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất
nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế
Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa


Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể dễ dàng
thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sơng đất
nước, do đó dọn đường cho lịng u giang sơn Tổ quốc”.


Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng,
càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài thơ như thế. Cùng với tấm lịng chan chứa
tình u q hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi với chúng ta cho đến tận
mn đời.


<b>5. Phân tích Tràng giang - mẫu 3</b>


Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách
mạng tháng Tám 1945, ơng đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái
tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi
gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập
“Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.


Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp
xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dịng sơng, trước cảnh sóng nước
mênh mơng, đã khơng kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác
bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế.
Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề
này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ
kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để
thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên
cảm giác một dịng sơng khơng những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của
con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.


Và quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã khơng giấu nổi nỗi buồn mà cứ


để nó lan tỏa khắp mọi khơng gian, bao trùm cả vũ trụ.


<i>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>


<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</i>
<i>Củi một cành khô lạc mấy dịng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

cơ đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất định giữa dịng
đời của chính tác giả?


Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được
hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dịng sơng.


<i>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu</i>
<i>Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều</i>
<i>Nắng xuống trời lên sâu chót vót</i>
<i>Sơng dài trời rộng bến cô liêu</i>


Nhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ thơ, đìu hiu
lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó (hay là đâu có) có âm thanh của
sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ chiều cũng chẳng làm cho nơi đây
nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tơ đậm thêm sự tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng
trên trời, sông trước mặt, thứ xuống thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay
lại càng xa hơn. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa
trời với sơng vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán
rộng hết mức ở tồn vũ trụ. Chỉ cịn lại trơ trọi bến cơ liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã
rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân không cịn đối
diện với dịng sơng như ở khổ trên nữa mà hồn tồn bị chống ngợp, q nhỏ bé trước
khơng gian vũ trụ như thế.



Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đây một
chút sự sống của con người.


<i>Bèo dạt về đâu hàng nối hàng</i>
<i>Mênh mông không một chuyến đị ngang</i>


<i>Khơng cầu gợi chút niềm thân mật</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng</i>


Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện thân cho
kiếp người trơi nổi, lênh đênh giữa dịng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ không phải hàng
nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như thế, nối tiếp nhau trôi dạt
về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng khơng phải của một cành củi khô nữa mà là của cả
một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu? Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém
được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu
cũng thấy mênh mơng, đâu cũng khơng thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ
định càng làm cho con người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Khơng một
chuyến đị, khơng một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thơi cũng thực khó. Thế là
chỉ còn lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết
cảnh trí dịng sơng từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những bờ xanh,
bãi vàng nối tiếp nhau. Khơng gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh mông bát ngát. Nỗi cơ
đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu hẹp lại theo bất cứ một chiều
nào.


Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen lẫn chút
hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả cũng chỉ để chứa
đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Bao nhiêu hi vọng dồn vào
khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà:



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.</i>


Khung cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này khơng phải là dịng sơng mênh
mơng, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền
trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim, nhà thơ vẽ lên nền trời ấy
những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp những áng mây ánh bạc đang đùn
trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là cánh chim chao nghiêng được coi là một
khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy
nghiêng nhẹ đơi cánh một cái là bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh
chim khiến nó ngả nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch
chuyển rất mau lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể
nào xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Khơng gian có thay đổi, có tráng lệ đến đâu
trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cơ đơn đã hóa nỗi nhờ nhà.
Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sơng đều dồn về cảm xúc dợn dợn. Từ láy nguyên sáng
tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết của “lòng
quê” khi nó hơ ứng với cụm từ “vời con nước”. Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên
thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ
quê hương đến như vậy. Thế mà q hương lại chẳng cịn, đó là nỗi niềm chung của cả một
thế hệ các nhà thơ mới trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu
quê hương” trở thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hồng hơn như thi sĩ
Thôi Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu, tự
khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình u thắm thiết, trĩu nặng với
q hương.


Có hai thứ ấn tượng cịn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của
ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cơ đơn khơng giới hạn của lịng người. Cả hai như cùng kích ứng
để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi
sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn
giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song


người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng
giang.


<b>6. Phân tích Tràng giang - mẫu 4</b>


Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi
sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man
của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lịng u
nước kín đáo.


Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mơng, rộng lớn.
Khơng gian dịng sơng hiện ra khơng chỉ là một con sơng bình thường mà nó cịn là con sơng
lớn mang tầm vóc vũ trụ. Khơng chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang
âm hưởng cổ kính, mang tính khái qt.


Khơng phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi
dẫn có ý nghĩa bao qt tồn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là
lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:


<i>Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:


<i>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>


<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</i>
<i>Củi một cành khô lạc mấy dịng</i>


Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, khơng gian ấy hồn tồn n tĩnh. Nhưng ở


đây khơng chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất cịn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”,
nỗi buồn khơng cịn vơ hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp
lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lịng con người. Nổi bật
trong khơng gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dịng tràng
giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn cơi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xi mái”
cho thấy trạng thái bng xi, phó mặc cho dịng nước xơ đẩy. Đó phải chăng cũng chính là
tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ
trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong
hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu
câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, khơng chỉ vậy đó cịn là cảnh củi khơ khơng cịn sức
sống lạc trơi giữa dịng đời vơ định. Hình ảnh “củi khơ” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé,
bơ vơ giữa sự mênh mơng của dịng đời. Đồng thời cịn ẩn dụ cho cái tơi lạc lồi, bơ vơ trong
Thơ mới.


Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sơng Hồng, kết hợp với hai
từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy tác
giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được,
không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian
được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu
chót vót” đã mở rộng khơng gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ
bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ trụ.


Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vơ cùng và thu lại chỉ có:
<i>Bèo dạt về đâu hàng nối hàng</i>


<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang</i>
<i>Khơng cần gợi chút niềm thân mật</i>


<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</i>



Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trơi, sự chảy trơi khơng mục đích,
khơng phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Khơng gian
sơng nước mênh mơng khơng có lấy một chuyến đị qua sơng. Đị ấy khơng đơn thuần là
phương tiện trung chuyển con người mà nó cịn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả
đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một, không cầu, không cịn một chút tình đời, tình
người nào cịn tồn tại ở đây nữa.


Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao: “Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám
mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho
thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời
là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị khơng gian nuốt chửng. Trước cảnh
thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Khơng khói hồng hơn cùng nhớ nhà.</i>


Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên
ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy
Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên,
dường như sóng lịng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ q hương luôn thường trực, dai
dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lịng u nước.


Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên
mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó cịn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng,
một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lịng u nước kín
đáo mà vơ cùng sâu lắng.


<b>7. Cảm nhận bài thơ Tràng giang</b>



Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ơng rất giàu
chất suy tưởng, triết lí, ln thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là
một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của
nhà thơ.


Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật
cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn
tình của bài thơ.


<i>Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>


<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngã</i>
<i>Củi mội cành khô lạc mấy dịng</i>


Đứng trước cảnh mênh mơng sơng nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở
khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngơn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những
cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên
tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vơ tận cũng giống như nổi buồn của nhà
thơ âm thầm mà da diết khơn ngi. Con sóng ở giữa một dịng sông dài và rộng càng làm
cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng
làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lịng khơng biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả
đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ơng và đó là sự sáng tạo độc đáo
trong phong cách thơ của ông.


<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều</i>
<i>Nắng xuống, trời lên sâu chót vót</i>


<i>Sơng dài, trời rộng bến cơ liêu</i>



Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự
của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm
cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.


<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều</i>


Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó
khơng rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia,
nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm
mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của
đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông
sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vơ tận.


<i>Bèo dạt về đâu hàng nối hàng</i>
<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang</i>


<i>Khơng cầu gợi chút niềm thân mật</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng</i>


Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi
không biết dạt về đâu, khơng có một cái cầu, khơng chuyến đị để đưa khách, cảnh tưởng như
vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm
khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc
sống tốt đẹp hơn.


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa</i>



<i>Lịng q dợn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà</i>


Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ơng đã
hướng lên vũ trụ và ơng thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy
chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hồng hơn chiếu vào tạo ra
màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa
nổi buồn của ơng, giống như nổi buồn của ơng tích tụ như núi cùng với đám mây cịn có hình
ảnh cánh chim.


<i>Lịng q dợn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà</i>


Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích
tắt cho thấy nổi nhớ nhà ln thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.


</div>

<!--links-->

×