Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MỘT VÀI HƯỚNG MỞ CHO THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHI PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.8 KB, 19 trang )

MỘT VÀI HƯỚNG MỞ CHO THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
KHI PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT
KHẨU
I. CHIẾN LƯỢC “ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU ” Ở MỘT SỐ NƯỚC ASEAN VÀ
CHÂU Á.
1. Quá trình thực hiện.
Lịch sử công nghiệp hóa của các nước NICs châu á là quá trình lâu dài chủ yếu diễn ra
dưới mô hình thay thế nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu. Sự kém hiệu quả của chiến lược trước
là mở đầu cho chiến lược sau. Tiếp thu những lý thuyết chính thống về phát triển của những thập
kỷ 50 và 60, chiến lược công nghiệp hóa hướng vè xuất khẩu đã coi trọng cả phát triển và tăng
trưởng là phương tiện để đẩy nhanh công nghiệp hóa, từng bước tiến đến độ trưởng thành về kỹ
thuật và phát triển toàn diện, chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” chính là phương tiện để đạt đến
mục tiêu.
Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” ở các nước NICs châu á được chia làm hai giai đoạn rõ
rệt và được đặc trưng bởi sự thay đổi khá căn bản cơ cấu công nghiệp chế tạo và dung lượng hàng
xuất khẩu tăng lên, hàng hóa xuất khẩu thay đổi theo chiều sâu với sự nâng cấp rất lớn về chất
lượng và chủng loại nhờ vận dụng những bí quyết về công nghệ và quản lý.
- Giai đoạn 1 là thời kỳ đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu hàng tiêu dùng có
dung lượng lao động lớn, vốn nhỏ và kỹ thuật ở mức trung bình.
- Giai đoạn 2: để quyết định bước chuyển tiếp sang giai đoạn cao hơn có ba yếu tố cơ
bản: 1/ Tích lũy cơ bản; 2/ Việc thay đổi lợi thế so sánh; 3/ Chính sách của chính phủ trong việc
định hướng chiến lược ( Hàn Quốc, Đài loan, Singapore là 3 nước có được 3 yếu tố này sớm nhất).
Nội dung: được mở đầu ở mỗi nước vào thời điểm khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung: tốc
độ tăng trưởng cao tiếp tục được giữ vững nhờ xuất khẩu các mặt hàng có dung lượng vốn lớn và
hàm lượng kỹ thuật cao.
2. Những chính sách và biện pháp của các nước NICs châu á.
2.1. Thu hút mạnh mẽ tư bản của các công ty nước ngoài vào các ngành xuất khẩu
thông qua một số chính sách:
- Áp dụng hệ thống thuế và quan thuế ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài:
+ Miễn hoặc giảm thuế thu nhập, thuế công ty, thuế tài sản cho những nhà đầu tư nước
ngoài nếu họ tham gia các dự án có khă năng cải thiện cán cân thanh toán, những dự án đòi hỏi kỹ


thuật chính xác cao hoặc đòi hỏi khối lượng vốn lớn, những dự án được xem là cơ bản đối với nền
kinh tế quốc dân hoặc tư sản địa phương khó thực hiện được, những dự án đầu tư vào các khu vực
mậu dịch tự do, khu chế biến xuất khẩu, những dự án đầu tư ra nước ngoài của tư bản địa phương.
+ Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được quyền lựa chọn hợc là miễn 100% thuế
trong 5 năm hoặc định giá thấp đặc biệt đối với tư liệu sản xuất và tài sản cố định của các doanh
nghiệp mới.
+ Cho phép các nhà đầu tư nước ngoàidc miễn thuế nhập khẩu các nguyên liệu hoặc tư
liệu sản xuất trong những ngành nằm trong diện ưu tiên của nhà nước.
+ Thuế kinh doanh (quy định phải nộp tối đa 22% thu nhập) có thể được giảm nếu các xí
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thu hút vốn và kỹ thuật cao.
+ Miễn thuế 100% đối với các khoản dự trữ mà nhà đầu tư nước ngoài đăng ký giữ lại
để đổi mới thiết bị, sửa chữa máy móc và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải.
- Khuyến khích áp dụng khoa học - kỹ thuật trong các công ty nước ngoài hoặc liên doanh
với địa phương.
+ Miễn hoàn toàn thuế công ty cho những cơ sở sản xuất, khuyến khích hoạt động
nghiên cứu và triển khai, nâng cao chất lượng, kiểm soát chặt chẽ vấn đề ô nhiễm. Những khoản
chi cho nghiên cứu và triển khai được tính như là số vốn giữ lại để chi phí vận hành sản xuất.
+ Đơn giản tới mức tối đa thủ tục cấp phép nhập công nghệ nếu thời gian sử dụng công
nghệ đó dưới 10 năm và quy định mức thuê, nhượng công nghệ dưới 10% giá trị bán ra thuần túy.
+ Các giấy phép nhận công nghệ nước ngoài có thể được giải quyết một cách đơn giản
là báo cáo với bộ chủ quản và bảo đảm không làm sai chất lượng mà nước xuất khẩu công nghệ
quy định.
- Nới lỏng những quy định về tỷ lệ đầu tư, hồi hương vốn, lợi nhuận và tái đầu tư.
+ Thay cho việc giới hạn tỷ lệ đầu tư nước ngoài tối đa là 50% vốn cố định, các nước
này cho phép vốn của nước ngoài có thể chiếm từ 50 đến 100% tùy theo thứ tự ưu tiên trong các
ngành. Đối với dự án mà vốn của nước ngoài chiếm dưới 50% thì đơn xin phép được tự động phê
chuẩn ngay lập tức sau khi nộp, còn nếu trên 50% thì chỉ cần bộ chủ quản hữu quan xem xét.
+ Công bằng trong đối xử giữa các hãng nước ngoài và trong nước.
+ Cho phép hồi hương vốn và lợi nhuận về nước bất kỳ lúc nào, xóa bỏ thời hạn 2 năm
cho việc hồi hương sau khi đầu tư.

+ Xoá bỏ những quy định hạn chế phạm vi tái đầu tư của tư bản nước ngoài, cho phép
tái đầu tư không chỉ thực hiện trong khuôn khổ công ty đã có vốn gốc mà có thể đầu tư vào dự án
hoàn toàn mới.
+ Rút ngắn danh mục các ngành công nghiệp thuộc loại cấm hoặc hạn chế đối với các
nhà đầu tư nước ngoài (như ngành dịch vụ công cộng hoặc những ngành gây tổn hại tới môi
trường sinh thái ...)
- Thành lập đặc khu kinh tế dưới nhiều tên gọi khác nhau khu chế xuất, khu mậu dịch tự
do. Những khu này được khoanh lại trên một diện tích nhất định, trong đó tư bản nước ngoài được
phép mở doanh nghiệp, đầu tư vốn một cách tự do, họ được hưởng nhiều ưu đãi về thuế và quan
thuế, các thủ tục hành chính được đơn giản hóa đến mức tối đa, hạ tầng cơ sở được đảm bảo đầy
đủ ... nhằm tạo ra một bầu không khí đầu tư dễ chịu đối với các công ty tư bản nước ngoài.
2.2. Tự do hóa nhập khẩu đi kèm với cải cách tỷ giá: để đạt được tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu cao, các nước không những thu hút vốn vào ngành xuất khẩu mà còn tự do hóa nhập
khẩu đi kèm với chính sách mới về lãi suất và chống lạm phát. Trong bối cảnh từng nước, trong
từng thời kỳ các nước đã có sự khéo léo và linh hoạt bảo đảm tính thời gian của việc điều chỉnh tỷ
giá, quan thuế đi kèm với những trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp quan trọng để chính phủ
ngăn ngừa giá nhập khẩu vượt lên cao hơn giá xuất khẩu và bảo hộ cho sản xuất xuất khẩu. Kinh
nghiệm của Hàn Quốc và Đài Loan cho thấy rõ điều này.
2.3. Thu hút công nghiệp nước ngoài và phát triển khoa học - kỹ thuật phục vụ cho
xuất khẩu: thời kỳ đầu ở mức độ kỹ thuật thấp và trung bình các nước NICs châu á chỉ thuần túy
dây chuyền công nghệ của nước ngoài để lắp ráp hoặc gia công sản phẩm cho các công ty nước
ngoài. Dần dần đổi mới cơ cấu ngành từ dung lượng kỹ thuật thấp và lao động cao sang sản phẩm
có hàm lượng vốn lớn, kỹ thuật và trình độ tay nghề cao hơn thì tất cả những nhà hoạch định chính
sách trong chính phủ đều hiểu rõ tầm quan trọng sống còn của cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ
đối với các nước nghèo tài nguyên thiên nhiên như họ. Do vậy, các chương trình nghiên cứu và
triển khai công nghệ đã trở thành mối quan tâm nhiều hơn của không chỉ nhà nước mà của cả các
công ty tư nhân. Được thể hiện các biện pháp:
- Tập trung tài chính để xây dựng các công trình cơ sở cho các hoạt động nghiên cứu và
triển khai từ các viện nghiên cứu kỹ thuật trong các lĩnh vực hẹp như phần mềm máy tính, động cơ
điêzen, bán dẫn ... đến các lĩnh vực rộng như dự án quốc gia về nghiên cứu và triển khai, sử dụng

có hiệu quả tài nguyên biển ...
- Hỗ trợ về thuế đóng vai trò thúc đẩy tiến bộ. Các nước ban hành nhiều hệ thống thuế ưu
đãi khác nhau cho việc nghiên cứu và triển khai: miễn thuế thu nhập cho các khoản chi cho đầu tư
vào phát triển nhân lực và kỹ thuật; phần lợi nhuận được giữ lại cho nghiên cứu và triển khai cũng
được miễn hoàn toàn thuế công ty. Những công ty thành lập phòng thí nghiệm riêng được miễn
8% thuế công ty và thuế thu nhập đối với các khoản phí tổn cho các thiết bị của phòng thí nghiệm
(nếu sản phẩm này là sản phẩm nội địa thì được miễn 10%), ...
- Bên cạnh những hỗ trợ về thuế, tài chính để thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, vấn đề
đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động được chính phủ cũng như các công ty tư nhân rất quan tâm.
Có thể thấy rõ rằng những chính sách thích hợp đã được áp dụng để khuyến khích phát
triển xuất khẩu của các nước NICs châu á đã có những vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển mạnh mẽ của các nước này.
II. Một vài hướng mở cho thương mại Việt Nam khi phát triển chiến lược “ Hướng
về xuất khẩu ”
Với những hạn chế và thách thức của Việt Nam và bài học của các nước NICs trong việc
thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu được đề cập ở các phần trên và để giành thế chủ động
trên thương trường, phát triển thị trường ngoài nước với đầy đủ ý nghĩa chiều rộng và chiều sâu,
Nhà nước ta và các doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề:
1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất, trước hết là sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy, hải sản,
từ đó chuyển dịch cơ cấu đầu tư trúng và hiệu quả cao. Bước chuyển dịch đó phải xuất phát từ việc
phân tích, dự báo, dự đoán đặc điểm và xu hướng phát triển, diễn biến tiêu dùng thế giới và khu
vực để không còn nghịch cảnh sản xuất tự do, manh mún, bị động chạy theo biến động giá cả thị
trường rồi chặt phá cà-phê trồng tiêu, chặt tiêu trồng vải, trồng khóm; biến ruộng hoặc rừng phòng
hộ thành đầm nuôi tôm, cá, không may tôm cá chết hàng loạt... lại trắng tay... Vì vậy, chuyển dịch
cơ cấu phải gắn liền với thâm canh, đa dạng hóa sản phẩm trên một đơn vị diện tích, đề phòng rủi
ro, rớt giá loại cây này, con này thì có cây khác, con khác được giá bù lại. Thời gian thu hoạch là
theo thời vụ nhưng phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất phấn đấu nâng giá trị
kinh tế trên mỗi héc-ta gieo trồng. Có như thế chúng ta mới hạn chế việc bị động về giá cả và sức
tiêu thụ ở các thị trường ngoài nước. Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, cả nước không nên
mở rộng đất trồng lúa nữa, mà chỉ giới hạn ở mức dưới 4 triệu ha để có tổng sản lượng lương thực

31-32 triệu tấn, trong đó xuất khẩu ổn định được 4 triệu tấn gạo là hợp lý rồi. Diện tích khai
hoang, vỡ hóa nên trồng cây khác, con khác, thậm chí khoanh vùng cải tạo lại ở một số diện tích
để nuôi trồng thủy sản (tôm, cá, ba ba, cá sấu...) nếu thấy lợi hơn trồng lúa. Đất đồi trung du thì
trồng cây công nghiệp ngắn ngày hoặc dài ngày, không nên đeo đuổi trồng lúa mà ra công đắp
đập, xây dựng mương máng, cống tưới tiêu tốn kém, bởi lẽ tất cả đều phải tính vào giá thành sản
phẩm. An toàn lương thực phải xét trong phạm vi cả nước. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu sản xuất,
đa dạng hóa sản phẩm cây trồng, vật nuôi, thực hiện chiến lược bọc lót cho nhau... là một vấn đề
lớn và cấp bách trong nền kinh tế mở cửa, hội nhập.
Hai là, nâng cao tỷ lệ sản phẩm chế biến tinh trong xuất khẩu. Đó là những sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh, sánh vai với hàng hóa cùng loại trên
một thương trường. Đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp,
thủy, hải sản. Năm 1990, sản phẩm đã qua chế biến tinh mới đạt 8%, hiện nay lên gần 40%, được
coi là một bước tiến nhanh nhưng vẫn rất chậm so với tốc độ mở cửa, hội nhập của kinh tế thị
trường thời đổi mới. Xuất khẩu sản phẩm thô, dưới dạng nguyên liệu có nghĩa là mất đi 3/4 lợi
nhuận do đầu tư đổi mới công nghệ chế biến đem lại. Nguyên liệu vô cùng quan trọng bởi không
có nguyên liệu thì công nghiệp chế biến triệt tiêu. Mặt khác sản xuất ra nguyên liệu không được
phép để phần lớn lợi nhuận tuật khỏi tay. Vì vậy, phải huy động nội lực, trước hết là từng doanh
nghiệp phải tự đầu tư vốn, thiếu thì vay ngân hàng để cùng Nhà nước hình thành các cụm công
nghiệp công nghệ cao, khép kín, khai thác, tận dụng nguyên liệu, phế liệu của nhau để làm ra
nhiều sản phẩm xuất khẩu hoặc tiêu dùng trong nước có sức cạnh tranh lớn. Tất nhiên, đây là một
vấn đề lớn không thể một sớm một chiều và càng không thể "công nghệ hóa công nghiệp chế biến"
một cách ồ ạt, không nghĩ tới đi tắt đón đầu, bất chấp thị trường cần nhiều hay ít. Nói cách khác,
nhanh chóng đổi mới công nghệ để sớm có nhiều sản phẩm tinh, giá thành hạ mà thế giới đang cần
là yếu tố quyết định tồn tại của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế hướng ngoại, và càng quyết
định hơn khi hàng rào thuế quan, phi thuế quan giữa Việt Nam với các nước được dỡ bỏ hoàn
toàn.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu sản xuất chính là để hạn chế rủi ro, hỗ trợ cho nhau khi xảy ra
sự cố "được mùa, rớt giá" hay "được giá, mất mùa". Nhưng điều đó chưa thể đáp ứng trọn vẹn yêu
cầu của người sản xuất và lợi ích toàn cục khi chưa có nền công nghiệp chế biến được nhiều sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao xuất khẩu. Đó là biện chứng của sự phát triển để chủ động hội

nhập quốc tế.
2. Tăng cường đầu tư cho xuất khẩu.
Nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, cơ cấu sản xuất thay đổi chậm, lạc hậu, tỷ
trọng của khu vực chế biến, chế tạo trong tổng giá trị xuất khẩu còn thấp, các sản phẩm thô vẫn
chiếm tỷ trọng lớn, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu nên chất lượng sản phẩm thấp.Vì vậy khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới thấp và giá thấp hơn so với sản phẩm cùng loại
của các nước khác do đó làm giảm doanh thu xuất khẩu. Để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu,
nước ta không chỉ trông chờ vào khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng không chỉ dựa vào việc thu
mua sản phẩm thừa nhưng rất bấp bênh của nền sản xuất nhỏ, phân tán hoặc bằng lòng với năng
lực sản xuất của các cơ sỏ công nghiệp hiện có mà phải xây dựng thêm nhiều cơ sở sản xuất mới
để tạo ra các sản phẩm đa dạng về chủng loại, có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Muốn vậy
đầu tư là biện pháp cần được ưu tiên để gia tăng xuất khẩu và Nhà nước phải tăng cường đầu tư
cho xuất khẩu thông qua một số chính sách và biện pháp sau:
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là các cơ sở, nhà máy chế biến hiện đại để có thể
ứng dụng khoa học, công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vân chuyển,
dịch vụ. Chú trọng đầu tư xấy dựng giữa khâu sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu, hạn chế
tới mức tối đa tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế, nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế
biến, nhất là sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao trong kim ngạch xuất khẩu, tăng mặt hàng và
tỷ trọng sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao.
Đầu tư xây dựng các khu chế xuất:
(EPZ – exports production zone )
Ta biết rằng EPZ là khu vực sản xuất được phân tách về mặt địa lý nhằm mục đích thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước vào những ngành công nghiệp hướng về XK.Có thể thấy rõ ràng những
lợi ích to lớn mà các EPZ mang lại:
+ Thu hút vốn và công nghệ
+ Tăng cường khả năng XK tại chỗ
+Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động
+Góp phần làm cho nền kinh tế hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới
Việt Nam cho đến nay có 5 khu chế xuất lớn đều do Chính phủ thành lập và quản lý theo chế độ
1 cửa,nhưng hoạt động vẫn chưa phát huy được tính hiệu quả,đặc biệt là ở miền Bắc.Tính kém

hiệu quả này chủ yếu xuất phát từ cơ sở hạ tầng còn yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu đâù tư ;
công tác quản lý còn kém hiệu quả và không đồng đều ; hoạt động xúc tiến quảng cáo chưa được
coi trọng và chưa có những chính sách thích hợp .
Để các EPZ thật sự mang lại hiệu quả chúng ta không thể ngồi chờ vốn đầu tư .Sau đây là 1 số
giải pháp:
+ Khắc phục từng bước những yếu kém về hạ tầng kỹ thuật : Chính phủ thông qua các tỉnh,thành
phố cần có chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách cho các hạng mục về đền bù,giải toả san
lấp mặt bằng cũng như các công trình kỹ thuật .Đồng thời các tỉnh thành phố có sự tác động và
kiến nghị với Chính phủ xúc tiến đầu tư,triển khai các dự án hạ tầng quan trọng trong khu vực lãnh
thổ
+ Cải cách hành chính và thể chế: Hiện nay công tác này cũng đang được quan tâm giải quyết
.Cách làm này rất nên được áp dụng cho các vùng khác .Đó là: đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành
chính liên quan đến đầu tư nước ngoài,thực hiện các dịch vụ công miễn phí nhanh chóng cấp phép
đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối phối hợp với Văn phòng kiến trúc sư trưởng và Sở tài
chính vật giá lập tổ công tác đặc trách cung câps thông tin cho nhà đầu tư nước ngoài về giá thuê
đất và địa điểm đầu tư trong thời gian không quá 2 ngày kể từ khi có yêu cầu.Sở sẽ thường xuyên
xem xét danh sách các dự án đang tư vấn cấp phép để Sở có biện pháp hỗ trợ và hướng đẫn ngay
trong quá trình thực hiện dự án.
Ngoài ra để tạo điều kiện hơn nữa cho nhà đầu tư ,các Sở KH-ĐT nên định kỳ làm việc với Bộ
KH-ĐT và các Bộ,ngành liên quan để xem xét các dự án đã nộp hồ sơ nhưng chưa được cấp
phép,nghiên cứu đề xuất hướng giải quyết.
+ Khắc phục vấn đề giá thuê đất và điện nước cao
Đây là điểm mấu chốt nhằm giảm đi những phàn nàn ,vướng mắc của nhà đầu tư.Chính phủ cần
có chính sách từng bước giảm giá thuê hạ tầng trong các EPZ.Tại hội thảo đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam tại Singapore ,Ông Trần Xuân Giá ,Bộ trưởng Bộ KH-ĐT của Việt Nam đã khẳng định
Chính phủ Việt Nam sẽ điều chỉnh một bước giảm giá và phí dịch vụ trong năm 2001 .Tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng đẫn nào được ban hành.
Theo ông N.Bình – trưởng ban quản lý các KCN-KCX Hà Nội cho biết,sắp tới UBND TP Hà Nội
sẽ làm việc với Bộ tài chính để trình Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế khuyến khích đối với các
dự án đầu tư vào Hà Nội :được miễn thuế đất 2 năm đầu và giảm 25% trong 2 năm tiếp theo;đối

với các dự án thuộc danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư sẽ được miễn 7 năm đầu và
giảm 50% trong 3 năm tiếp theo

×