Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Phát triển văn hóa học đường tại trường đại học công nghiệp tp hồ chí minh báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 78 trang )

BỘ CƠNG THƢƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
---------------

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC
KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài:

PHÁT TRIỂN VĂN HĨA HỌC ĐƯỜNG
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Mã số đề tài: 171.3201
Đơn vị thực hiện: KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

1.
2.
3.
4.
5.

Các thành viên thực hiện:
TS. Biền Quốc Thắng
Chủ nhiệm
Th.S. Lại Quang Ngọc
Thƣ ký
Th.S. Ngô Văn Duẩn
Thành viên
Th.S. Lê Hoài Nam
Thành viên
Th.S. Hoàng Thị Duyên


Thành viên

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018


LỚI CẢM ƠN
Nhóm tác giả thực hiện đề tài chân thành cảm ơn lãnh đạo, giảng viên,
nhân viên các đơn vị: Phịng Tổ chức - Hành chính, Phịng Đào tạo, Phịng
Cơng tác Sinh viên, Phịng Nghiên cứu Khoa học và Hợp tác quốc tế, Khoa
Lý luận chính trị…của Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
đã hợp tác, giúp đỡ chúng tơi hồn thành cơng trình này!

Chủ nhiệm đề tài

TS. BIỀN QUỐC THẮNG


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
HỌC ĐƢỜNG TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC .................................................... 9
1.1. Quan niệm về văn hóa, văn hóa học đường và phát triển văn hóa học
đường tại trường đại học ........................................................................... 9
1.2. Các thành tố và những biểu hiện cơ bản của văn hóa học đường tại
trường đại học ........................................................................................ 18
1.3. Tầm quan trọng của việc phát triển văn hóa học đường tại trường đại học . 27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......35
2.1. Khái quát Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh ...............35

2.2. Thực trạng phát triển văn hóa học đường tại Trường Đại học Cơng nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh trên bình diện các thành tố cơ bản cấu thành... 40
2.3. Thực trạng phát triển văn hóa học đường tại Trường Đại học Công nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh trên bình diện các biểu hiện cơ bản .................. 51
2.4. Những vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa học đường tại Trường Đại học
Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua ................................. 65
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA HỌC ĐƢỜNG TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................... 75
3.1. Phương hướng phát triển văn hóa học đường tại Trường Đại học Cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................75
3.2. Một số giải pháp phát triển văn hóa học đường tại Trường Đại học Cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới ............................... 80
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95
CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ CÔNG BỐ .................... 98
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, bên cạnh các yếu tố
kinh tế, chính trị - xã hội…thì văn hóa có một vị trí và vai trị hết sức đặc biệt;
“là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội” [8, tr.55]. Theo đó, để xây dựng một xã hội bền
vững cần kết hợp phát triển hài hòa, cân đối giữa các lĩnh vực. Động lực tạo
nên sự phát triển đó khơng chỉ bắt nguồn từ kinh tế - cơ sở vật chất; mà cịn
xuất phát từ văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, “làm cho văn hố
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng ngƣời, từng gia

đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cƣ, vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con ngƣời, tạo ra trên đất nƣớc ta” [12, tr.88] là một trong
những nhiệm vụ quan trọng đƣợc Đảng ta đề ra trong thời kỳ đổi mới.
Là một bộ phận của phạm trù văn hóa, tiếp thu đƣờng lối chỉ đạo của
Đảng, trong những năm qua cơng tác phát triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng
Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã đƣợc coi trọng. Diện mạo
văn hóa học đƣờng ở nơi đây đã có nhiều thay đổi và ngày càng đóng góp tích
cực vào sự phát triển tồn diện của nhà trƣờng. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt đƣợc, công tác phát triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng Đại học
Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh có lúc, có nơi vẫn chƣa đƣợc nhìn nhận
và quan tâm đúng mức. Hệ quả là, trong quá trình đào tạo, tỷ lệ sinh viên vi
phạm các nội quy, quy định của nhà trƣờng vẫn còn cao; đạo đức, lối sống, tác
phong…của một bộ phận sinh viên ít đƣợc cải thiện; một số giảng viên, nhân
viên còn bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết trong giao tiếp, ứng xử; một số
quy định, quy chế của Trƣờng ban hành chƣa sát với yêu cầu của thực tiễn, đặc
điểm tâm, sinh lý của sinh viên, hoạt động nghề nghiệp của giảng viên, nhân
viên… Những tồn tại, hạn chế kể trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng
đào tạo, uy tín, thƣơng hiệu, vị thế của Trƣờng trong đời sống xã hội.


2
Chính vì vậy, để thực hiện mục tiêu xây dựng Trƣờng Đại học Cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh “trở thành trƣờng đại học trọng điểm quốc
gia có vai trị tiên phong đối với sự phát triển của các trƣờng thuộc Bộ Cơng
Thƣơng, nằm trong nhóm 10 trƣờng đại học hàng đầu của Việt Nam theo định
hƣớng ứng dụng, ngang tầm với các nƣớc tiên tiến trong khu vực về đào tạo
nhân lực chất lƣợng cao” [36]; đòi hỏi Trƣờng không chỉ đầu tƣ, nâng cấp cơ
sở vật chất, trang thiết bị, phát triển đội ngũ giảng viên cả về lƣợng và chất;
mà còn cần quan tâm hơn nữa đến cơng tác phát triển văn hóa học đƣờng. Do
đó, trƣớc yêu cầu của Đảng ta “Xây dựng mỗi trƣờng học phải thực sự là một

trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con ngƣời về lý tƣởng, phẩm chất, nhân
cách, lối sống” [11, tr.51], cũng nhƣ trƣớc sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt
giữa các cơ sở giáo dục đại học; thì việc đầu tƣ, xây dựng văn hóa học đƣờng
để nâng cao chất lƣợng đào tạo, xây dựng bản sắc, tạo lập vị thế, đƣợc coi là
một trong những vấn đề then chốt, có tính quyết định đối với sự phát triển toàn
diện, bền vững của Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Phát
triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp thành phố Hồ
Chí Minh” để làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề văn hóa học đƣờng nhận đƣợc sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Đã có khá nhiều kết quả nghiên
cứu đƣợc các tác giả công bố dƣới dạng: sách, đề tài, bài báo đăng trên tạp chí
khoa học, trang web… Có thể kể ra một số cơng trình tiêu biểu nhƣ:
2.1. Về phát triển văn hóa học đường tại trường đại học
- Thứ nhất, các cuốn sách nổi bật có:
Ban Tƣ tƣởng văn hóa Trung ƣơng (2004), “Xây dựng mơi trường văn
hóa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [2]. Cuốn sách gồm có ba chƣơng:
ở chƣơng 1 tập hợp các bài viết nghiên cứu về môi trƣờng văn hóa từ góc độ
lý luận, qua đó phân tích, chỉ ra tầm quan trọng của việc xây dựng môi trƣờng


3
văn hóa đối với con ngƣời và xã hội; ở chƣơng 2 là các báo cáo, bài viết về
những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề đặt ra cần giải quyết ở nhiều địa
phƣơng, lĩnh vực sau năm năm thực hiện Nghị quyết TW5 khóa 8 về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; ở
chƣơng 3, cuốn sách giới thiệu một số điển hình tiên tiến trong việc xây dựng
mơi trƣờng văn hóa ở các cơ sở.
Tác giả Ngọc Trung có cuốn sách“Văn hóa học đường” [30]. Cơng

trình gồm ba chƣơng, nếu nhƣ ở chƣơng 1 tác giả đi sâu phân tích những vấn
đề lý luận chung về xây dựng văn hóa học đƣờng; thì ở chƣơng 2 tác giả làm
sáng tỏ thực trạng văn hóa học đƣờng, trên cơ sở đó chƣơng 3 tác giả đã đề ra
một số giải pháp xây dựng văn hóa học đƣờng nƣớc ta hiện nay. Có thể nói,
đây là cơng trình nghiên cứu khá tồn diện và có hệ thống về văn hóa học
đƣờng ở nƣớc ta. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu trên một phạm vi khá
rộng “cả nƣớc” và đề cập văn hóa học đƣờng trên các mặt nhƣ: mơi trƣờng
văn hóa học đƣờng, văn hóa ứng xử trong nhà trƣờng, văn hóa dạy và học, ý
thức của sinh viên về văn hóa học đƣờng, vai trị của thầy cơ giáo với văn
hóa học đƣờng. Do đó vẫn cịn khá nhiều khoảng trống để chúng tôi tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này trong phạm vi tại Trƣờng Đại học Công nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban Tuyên giáo Trung ƣơng – Vụ giáo dục và đào tạo, dạy nghề đã
xuất bản cuốn sách: “Giáo dục nếp sống văn hóa cho học sinh” [3]. Trong
cuốn sách này, các tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề chung về nếp sống
văn hóa và đặc điểm của học sinh. Bên cạnh đó, cuốn sách cịn phân tích nội
dung, hình thức, phƣơng pháp giáo dục nếp sống văn hóa cho học sinh. Ngồi
ra, cuốn sách còn nên lên vai trò và những quy định của pháp luật liên quan
tới giáo dục nếp sống văn hóa cho học sinh.
Lƣơng Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt có tác phẩm: Giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc với việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” [4].
Trƣớc hết, cuốn sách đã khẳng định vai trị, đồng thời đi sâu phân tích thực


4
trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc trong việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay.
Qua đó, cơng trình đã nêu lên các phƣơng hƣớng và đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong việc xây dựng nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay.

Ngồi ra cịn có một số cơng trình khơng đề cập trực tiếp đến văn hóa
học đƣờng nhƣng trong các nghiên cứu có lồng ghép, đề cập đến vấn đề này
nhƣ: tác giả Phạm Minh Hạc có cuốn sách: “Phát triển giáo dục, phát triển
con người phục vụ phát triển xã hội – kinh tế” [15]; tác giả Trần Sỹ Phán với
luận án tiến sĩ: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [26]; Đại học quốc gia Hà
Nội có tác phẩm: “Giáo dục đại học – chất lượng và đánh giá” [13]; tác giả
Hoàng Anh xuất bản cuốn sách:“Giáo dục với việc hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên” [1]…
- Thứ hai, bài viết đăng trên các tạp chí khoa học tiêu biểu có:
Phạm Minh Hạc trong bài viết: “Giáo dục giá trị xây dựng văn hóa
học đường” [15] đã làm sáng tỏ một số khái niệm mang tính cơng cụ nhƣ:
văn hóa, học đƣờng, văn hóa học đƣờng. Tiếp đến, tác giả chỉ ra một số tồn
tại, hạn chế trong cơng tác xây dựng văn hóa học đƣờng ở nƣớc ta hiện nay. Ở
phần cuối, bài viết trình bày “Hệ giá trị của ngành giáo dục Singapore” với các
nội dung nhƣ: sứ mệnh, tầm nhìn, hệ giá trị khá cụ thể để chúng ta tham khảo.
- Thứ ba, bài viết ở trên các trang web đơn cử có:
Lê Thị Bích Hồng (2008), “Thực trạng văn hố học đường”, tạp chí
Tuyên giáo [37]. Bài viết nêu lên một số kết quả đạt đƣợc đối với việc xây
dựng văn hóa học đƣờng, trong đó nhấn mạnh đến các thành tựu của học sinh,
sinh viên Việt Nam đạt đƣợc ở các cuộc thi quốc tế, các phong trào diễn ra ở
các trƣờng học. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong công tác
xây dựng môi trƣờng văn hoá tại các trƣờng học, nơi cƣ trú của học sinh, sinh
viên. Những hạn chế đó dẫn đến hệ quả là, một số học sinh, sinh viên sa vào


5
các tệ nạn xã hội, suy giảm đạo đức, môi trƣờng sƣ phạm ngày càng xuống
cấp… ảnh hƣởng đến mục tiêu giáo dục con ngƣời toàn diện.
Trong bài viết “Vài suy nghĩ về xây dựng văn hóa học đường trong

trường đại học” [38], đã đề cập đến các nội dung cơ bản của văn hóa học đƣờng ở
trƣờng đại học nhƣ: thái độ và hành vi giao tiếp giữa sinh viên với nhau; giữa sinh
viên với giáo viên; thái độ ứng xử đối với mơi trƣờng, cảnh quan. Ngồi ra, bài
viết còn mạnh dạn đề xuất sáu ý kiến nhằm xây dựng mơi trƣờng văn hóa học
đƣờng, nhất là ở trƣờng đại học ngày càng trong sạch và lành mạnh nhƣ: nghiên
cứu, khảo sát thực trạng tại trƣờng để nắm bắt đƣợc thơng tin thực tế, dự đốn tình
hình để có thể đƣa ra những chuẩn mực có tính thực tiễn cao, có thể áp dụng trong
thời gian dài, phù hợp; nghiên cứu và tham khảo những quy định tƣơng tự của các
trƣờng bạn; đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị; đƣa ra các phong trào
thi đua và các hoạt động xã hội cần có tính thực chất hơn, có chất lƣợng và hiệu
quả; tổ chức một cách có hiệu quả các hoạt động thể thao, văn hóa văn nghệ, câu
lạc bộ; đƣa các quy định về văn hóa học đƣờng thành các tiêu chí đánh giá kết quả
rèn luyện cũng nhƣ xét kết quả thi đua của từng cá nhân, đơn vị.
Bài viết “Xây dựng văn hóa học đường, vấn đề cấp bách hiện nay” [39],
tác giả đã làm sáng tỏ các khái niệm văn hóa, văn hóa học đƣờng, chỉ ra tính
cấp thiết của việc xây dựng văn hóa học đƣờng. Bên cạnh đó, bài viết còn chỉ
ra một số kết quả đạt đƣợc và những hạn chế; trên cơ sở đó tác giả nêu lên
một số giải pháp để xây dựng văn hóa học đƣờng nhƣ: mỗi trƣờng học phải
có hệ giá trị làm chuẩn mực để lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thƣớc đo thành
quả của trƣờng; xây dựng môi trƣờng giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả;
phối hợp gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong giáo dục văn hóa học đƣờng.
Ở bài viết “Văn hóa học đường của sinh viên hiện nay” [40], tác giả
Vũ Thị Nhung đã tập trung phân tích văn hóa ăn mặc của sinh viên. Cùng với
việc khẳng định đại đa số sinh viên ăn mặc lịch sự, đậm chất truyền thống khi
đến lớp, tác giả cũng đồng thời nhận xét rằng một số sinh viên đã biến trƣờng
học, lớp học thành những “sàn biểu diễn thời trang”.


6
2.2. Về phát triển văn hóa học đường tại Trường Đại học Cơng

nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Trong những năm qua, đã có một số cơng trình nghiên cứu về Trƣờng
Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh; tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chƣa có cơng trình nghiên cứu nào bàn về vấn đề văn hóa học đƣờng tại
Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù khơng bàn trực
tiếp đến vấn đề văn hóa học đƣờng, nhƣng trong các nghiên cứu các tác giả đã
lồng ghép, đề cập đến vấn đề này. Tiêu biểu có: Nguyễn Thăng Long: “Nâng
cao năng lực cạnh tranh của Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh”, đề tài cấp cơ cở Trƣờng Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
[19]; Trần Phƣớc, Trần Thứ Ba: “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng giảng dạy và xây dựng phương pháp quản lý công tác giảng dạy hiệu quả
tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh”, đề tài cấp cơ sở
Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh [27]; Dƣơng Phúc Tý:
“Chiến lược xây dựng các khoa, viện trọng điểm của Trường Đại học Cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2025”, Tạp chí Đại học Cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh [34]...
2.3. Giá trị, hạn chế của các cơng trình tổng quan có liên quan đến
đề tài và những nội dung đề tài tiếp tục làm sáng tỏ
- Các cơng trình kể trên đã đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu một
cách khá cơng phu trên nhiều góc độ, phƣơng diện khác nhau. Điều đó khơng
chỉ cho thấy sự đa dạng, phong phú trong các nghiên cứu mà còn để lại nhiều
giá trị quan trọng về mặt học thuật. Hầu hết các kết quả nghiên cứu đã đạt
đƣợc những giá trị lý luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học đó sẽ là tiền đề
thuận lợi cho chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: phát triển văn hóa học
đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ở chừng mực nhất định, các cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến
văn hóa học đƣờng tại Trƣờng Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, nội dung này vẫn cịn nằm rải rác, lẫn vào trong các nội dung



7
khác. Hiện vẫn chƣa có cơng trình nào nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề này một
cách chuyên sâu, có hệ thống dƣới góc độ chính trị - xã hội. Chính vì vậy,
trên cơ sở kế thừa kết quả đạt đƣợc của các cơng trình nghiên cứu trƣớc đó, đề
tài sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này trên các phƣơng diện cơ bản nhƣ: một
số vấn đề lý luận về phát triển văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại học; thực
trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng
Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua; phƣơng hƣớng
và giải pháp phát triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Từ việc phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh thời gian qua; đề tài đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm thực
hiện tốt hơn công tác này tại Trƣờng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Thứ nhất, hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về phát triển văn hóa học
đƣờng tại trƣờng đại học
Thứ hai, phân tích thực trạng phát triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng
Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Thứ ba, nêu phƣơng hƣớng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
phát triển văn hóa học đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Về cơ sở lý luận: Đề tài đƣợc triển khai trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về văn hóa và văn hóa học đƣờng.
- Về phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phƣơng pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu



8
chuyên ngành và liên ngành nhƣ: phân tích và tổng hợp, lơgíc và lịch sử, diễn
dịch và quy nạp, thống kê và so sánh, trừu tƣợng hóa và khái quát hóa, điều
tra xã hội học, quan sát, trị chuyện…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu phát triển văn hóa học
đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu phát triển văn hóa học
đƣờng tại Trƣờng Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trên các
thành tố cấu thành và những biểu hiện cơ bản của nó; trong đó, trọng tâm là sinh
viên, giảng viên và nhân viên – những chủ thể đông đảo, quan trọng nhất ở
trƣờng đại học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng
tỏ một cách có hệ thống và sâu sắc những vấn đề lý luận chung về phát triển
văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại học.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp
phần làm luận cứ khoa học cho Đảng bộ và Ban Giám hiệu, lãnh đạo các đơn
vị hoạch định các chính sách phát triển Trƣờng nói chung và văn hóa học
đƣờng nói riêng trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể
đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những nội
dung liên quan đến văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại học.
7. Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và
phần phụ lục, nội dung chính của đề tài đƣợc kết cấu gồm có 3 chƣơng, 9 tiết.


9
Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA, VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hóa thuộc kiến trúc
thƣợng tầng, là “thiên nhiên thứ hai” do con ngƣời sáng tạo ra trong sự tác
động qua lại với tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ con ngƣời. Bắt nguồn từ
sức sáng tạo của con ngƣời là hoạt động liên tục và phát triển vô cùng, vơ tận;
nên quan niệm của con ngƣời về văn hóa cũng ngày càng đƣợc bổ sung, hoàn
thiện và mang những sắc thái khơng giống nhau. Chính vì vậy, đến thời điểm
hiện nay đã có rất nhiều quan niệm về văn hóa tồn tại, mỗi quan niệm lại có
tính hợp lý của nó, song vẫn chƣa có quan niệm nào đƣợc xem là hoàn chỉnh.
Thứ nhất, quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin
về văn hóa. Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta không
thấy một tác phẩm chuyên biệt nào bàn riêng về vấn đề văn hóa; vì thế, cả
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chƣa từng đƣa ra một định nghĩa cụ thể nào về
văn hóa. Song, từ những nghiên cứu về con ngƣời, xã hội, lịch sử; sự luận giải
về các vấn đề sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần; cũng nhƣ khi đề cập đến
các hiện tƣợng nhƣ: nhà nƣớc, pháp luật, tƣ tƣởng, đạo đức, giáo dục, nghệ
thuật,…các ông đã gián tiếp thể hiện quan điểm của mình về văn hóa.
Theo C.Mác, để tồn tại và phát triển, con ngƣời phải lao động. Nhờ
quá trình lao động, con ngƣời tiến hóa, hồn thiện bản thân, hình thành các
nhu cầu vật chất và tinh thần. Hay nói cách khác, quá trình lao động của con
ngƣời đã tạo nên các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Các giá trị đó chính
là văn hóa – yếu tố bảo đảm để con ngƣời tồn tại, phát triển. Vì vậy, C.Mác
khẳng định: “Lao động là nguồn gốc của cải và của văn hóa” [24, tr.28].


10

Với Ph.Ăngghen, ơng cũng cho rằng: “Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích
ứng đƣợc với động tác ngày càng mới, nhờ di truyền của sự phát triển đặc biệt
đã đạt đƣợc bằng cách đó của các cơ, của các gân, và sau khoảng thời gian dài
hơn, cả xƣơng nữa. Và cuối cùng, nhờ luôn luôn áp dụng lại sự tinh luyện
thừa hƣởng đƣợc đó vào những động tác mới, ngày càng phức tạp hơn – mà
bàn tay con ngƣời mới đạt đƣợc trình độ hồn thiện rất cao khiến nó có thể
nhƣ một sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Raphaen, các pho
tƣợng của Tôvanxen và các điệu nhạc Paganini” [23, tr.643]. Theo đó, sự phát
triển của lao động dẫn tới gia tăng các mối quan hệ xã hội, nảy sinh ngôn ngữ,
chữ viết, các quan hệ đạo đức, chính trị, pháp luật, nghệ thuật,… Nhƣ vậy,
theo quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, con ngƣời là chủ thể của văn hóa,
chính q trình lao động, sáng tạo, con ngƣời đã hình thành nên văn hóa. Đó
là các giá trị vật chất và tinh thần đảm bảo cho con ngƣời tồn tại và phát triển.
Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, trong quá trình hoạt động cách
mạng, V.I.Lênin đã rất nhiều lần đề cập đến các thuật ngữ “văn hóa”, “cách
mạng văn hóa”, “văn hóa vơ sản”,… Có thể nói, trong tƣ tƣởng V.I.Lênin
“văn hóa” có nội hàm rất rộng: có khi ơng xem giáo dục là một lĩnh vực quan
trọng của văn hóa, nhằm nâng cao dân trí, phát triển con ngƣời: “Tồn bộ
quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản. Sự thay
đổi căn bản đó là ở chỗ: trƣớc đây chúng ta đã đặt và không thể đặt trọng tâm
công tác của chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng,… Ngày nay,
trọng tâm ấy đã chuyển sang cơng tác hịa bình tổ chức văn hóa. Tơi dám quả
quyết rằng trọng tâm của chúng ta đã chuyển sang hoạt động giáo dục” [17,
tr.424]. Có khi V.I.Lênin sử dụng từ văn hóa với nghĩa: trình độ học vấn, tri
thức. Khi khác, ông lại xem sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, hƣớng đến sự nghiệp giải
phóng con ngƣời, các giá trị “chân – thiện – mỹ” là sự nghiệp văn hóa: “văn
hóa vô sản = chủ nghĩa cộng sản” [18, tr.382]. Theo đó, văn hóa là tồn bộ
những giá trị do con ngƣời sáng tạo ra thông qua hoạt động thực tiễn nhằm



11
phục vụ cho sự nghiệp giải phóng và phát triển con ngƣời. Nhƣ vậy, theo
V.I.Lênin, văn hóa đƣợc hiểu với nhiều cấp độ khác nhau: cấp độ rộng, văn
hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra
trong tiến trình lịch sử; ở cấp độ hẹp, văn hóa là hình thái ý thức xã hội, thuộc
lĩnh vực tinh thần; ở cấp độ hẹp hơn, văn hóa là trình độ học vấn, giáo dục.
Thứ hai, quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
về văn hóa. Trong q trình hoạt động cách mạng, trên cơ sở tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản tƣ
tƣởng vô cùng quý giá, trong đó có tƣ tƣởng về văn hóa. Ở phần ghi cuối của
tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943), lần đầu tiên Ngƣời đã đƣa ra định nghĩa
về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, lồi ngƣời mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà lồi ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn” [20, tr.431]. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa
đƣợc hiểu với nghĩa rộng nhất của nó, bao gồm toàn bộ các giá trị vật chất và
tinh thần mà con ngƣời sáng tạo ra, cũng nhƣ phƣơng thức sử dụng chúng
nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của con ngƣời.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo đất nƣớc thời kỳ đổi mới, trong nhiều Văn
kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt Đảng ta khẳng định
vị trí, vai trị quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nƣớc; mặt khác, Đảng ta đã đề ra các đƣờng lối chỉ đạo về văn hóa. Nổi
bật nhất trong số đó chính là Nghị quyết Trung ƣơng 5 khóa VIII (1998) về:
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
ngay ở phần lời nói đầu đã viết: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn

năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cƣờng dựng nƣớc và giữ nƣớc của cộng


12
đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lƣu và tiếp thu tinh hoa của nhiều
nền văn minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang
của dân tộc” [8, tr.40]. Ở phần đánh giá thực trạng, Nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế của văn hóa nƣớc
ta trên các mặt nhƣ: tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống, giáo dục, khoa học, văn học,
nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lƣu văn hóa, thể chế văn hóa.
Thứ ba, một số quan niệm tiêu biểu khác về văn hóa. UNESCO – tổ
chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa thuộc Liên hiệp quốc, khi quyết định
phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1987 - 1997), ông Federico
Mayor Zaragoza - Tổng giám đốc UNESCO đã đƣa ra định nghĩa về văn hóa:
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống con ngƣời đã diễn ra trong quá khứ và cũng nhƣ đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị,
truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định
bản sắc riêng của mình” [25, tr.22]. Nhƣ vậy, theo quan niệm của UNESCO,
yếu tố quan trọng nhất của văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con ngƣời sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, chính các giá trị đó tạo nên
bản sắc riêng của từng dân tộc.
Còn trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4 định nghĩa văn hóa là:
“tồn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nƣớc,
một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nƣớc
và giữ nƣớc” [28, tr.798]. Ở định nghĩa này đã nhấn mạnh đến giá trị văn hóa
của một cộng đồng dân tộc. Theo đó, mỗi một dân tộc có những hoạt động
sáng tạo khác nhau nên tạo ra một nền văn hóa khác nhau.
Trong tác phẩm “Văn hóa xã hội chủ nghĩa”, các tác giả của cuốn sách

đã đƣa ra quan niệm văn hóa: “Đó là hoạt động nhằm phát huy những năng
lực bẩm sinh và bản chất của con ngƣời, vƣơn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội – là môi


13
trƣờng thứ hai, cái nơi ni dƣỡng sự hình thành nhân cách con ngƣời” [16,
tr.31-32]. Ở định nghĩa này, văn hóa đƣợc coi là hoạt động sáng tạo của con
ngƣời, chính các sản phẩm sáng tạo do con ngƣời tạo ra lại góp phần bồi
dƣỡng, hồn thiện, nâng cao giá trị con ngƣời.
Có thể nói, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều
quan niệm, định nghĩa khác nhau về văn hóa. Song, chúng ta cũng dễ dàng
nhận ra đƣợc những điểm khá thống nhất nhƣ: văn hóa là sản phẩm riêng có
của con ngƣời, dấu hiệu đặc trƣng để phân biệt con ngƣời với giới động vật,
tự nhiên, xã hội; văn hóa là những giá trị do con ngƣời sáng tạo ra về mặt vật
chất và tinh thần; văn hóa là cái mang giá trị, chất chứa trong đó là những cái
đẹp, nhân văn, do con ngƣời và vì con ngƣời; những cái đối lập với nó khơng
thể xem là văn hóa; văn hóa khơng chỉ thể hiện sắc thái mà cịn là thƣớc đo
trình độ phát triển của mỗi cộng đồng, dân tộc.
Nhƣ vậy, tổng hợp từ các quan niệm tiêu biểu nhƣ trên, chúng ta có
thể hiểu: Văn hóa là tất cả các hệ thống giá trị vật chất, tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn và các phương thức sử
dụng nó để phục vụ nhu cầu tồn tại, phát triển của con người.
1.1.2. Quan niệm về văn hóa học đƣờng và phát triển văn hóa học
đƣờng tại trƣờng đại học
Nếu nhƣ khái niệm văn hóa đã có lịch sử nghiên cứu hàng trăm năm,
thì khái niệm “văn hóa học đƣờng” mới xuất hiện cách đây khoảng vài chục
năm. Theo GS Phạm Minh Hạc, thuật ngữ “văn hóa học đƣờng” xuất hiện vào
khoảng đầu những năm 1990 ở các nƣớc nói tiếng Anh nhƣ: Mĩ, Úc [15,
tr.8]… Mặc dù còn khá mới mẻ, song những năm gần đây ở nƣớc ta, vấn đề

văn hóa học đƣờng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học. Trong cuốn sách “Văn hóa học đƣờng” [30], tác giả Phạm Ngọc Trung
đã liệt kê một số quan niệm về văn hóa học đƣờng của các nhà khoa học nhƣ:
Tác giả Trần Thị Tùng Lâm viết đại ý rằng: văn hóa học đƣờng là một
bộ phận của văn hóa, bao gồm ba thành tố cơ bản: văn hóa nhận thức, văn hóa


14
tổ chức và văn hóa ứng xử. Trong văn hóa nhận thức, tác giả nhấn mạnh đến
việc các thành viên trong trƣờng, từ thầy đến trò phải nhận thức đƣợc mục
đích đào tạo của nhà trƣờng để có những hành vi tƣơng ứng. Trong văn hóa tổ
chức, tác giả nhấn mạnh đến ban lãnh đạo nhà trƣờng cần có các biện pháp và
hình thức tổ chức, điều hành giảng dạy, học tập, vui chơi giải trí của cán bộ và
sinh viên; tác giả đề cao tinh thần dân chủ, thân thiện trong văn hóa tổ chức.
Giảng viên phải biết tổ chức hoạt động giảng dạy, hoạt động giáo dục một
cách khoa học, hợp lý. Sinh viên phải có phƣơng pháp học tập, rèn luyện phù
hợp và phải biết tổ chức cuộc sống một cách khoa học, hiệu quả. Trong văn
hóa ứng xử, các thành viên phải đề cao tinh thần đồn kết, tơn trọng lẫn nhau
để đạt kết quả đào tạo nhƣ mong muốn. Ở đây, tác giả cịn nói đến khía cạnh
ứng xử của con ngƣời với tự nhiên và môi trƣờng xung quanh. Mọi ngƣời cần
phải bảo vệ cảnh quan tự nhiên, giữ gìn vệ sinh chung, bảo vệ của công và
thực hành tiết kiệm. Với quan niệm nhƣ trên, tác giả Trần Thị Tùng Lâm đã
đƣa ra định nghĩa: văn hóa học đƣờng là hệ thống các thành viên trong nhà
trƣờng, những giá trị đó có ảnh hƣởng trực tiếp đến sự hình thành nhân cách
của các thành viên, phù hợp với mục đích giáo dục của đất nƣớc. Cụ thể hóa
nhận thức của mình về văn hóa học đƣờng, tác giả Trần Thị Tùng Lâm đã nêu
lên những biểu hiện của văn hóa học đƣờng ở trƣờng đại học bao gồm các
mặt: trang phục, giao tiếp ứng xử.
Tƣơng tự nhƣ cách tiếp cận của tác giả Trần Thị Tùng Lâm, tác giả
Đào Thị Oanh trong bài viết của mình đăng trên Tạp chí Tâm lý học, số 10,

tháng 10, năm 2008 cũng cho rằng: Hiểu một cách chung nhất thì văn hóa học
đƣờng là giá trị cần có của một nhà trƣờng. Nhìn chung khái niệm văn hóa
học đƣờng đã đƣợc nhất trí cho rằng, đó là một cấu trúc gồm ba thành tố có sự
tác động ảnh hƣởng lẫn nhau là:
- Hệ thống thái độ và niềm tin của tất cả những cá nhân trong và
ngồi nhà trƣờng.
- Hệ thống các chuẩn mực văn hóa của nhà trƣờng.


15
- Hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân bên trong trƣờng
với nhau, giữa các cá nhân của trƣờng với cộng đồng.
Tác giả Phạm Thị Kim Anh lại có một cách nhìn, cách tiếp cận khác
về văn hóa học đƣờng. Theo tác giả, văn hóa học đƣờng có bốn vấn đề nhƣ:
văn hóa ứng xử, văn hóa dạy, văn hóa học, văn hóa thi cử. Cụ thể:
- Văn hóa ứng xử trong nhà trƣờng, tác giả nhấn mạnh đến mối quan
hệ giữa ngƣời lãnh đạo, ngƣời quản lý với giáo viên. Tác giả đề cao tinh thần
dân chủ trong trƣờng học, xem đó là chất keo gắn bó các thành viên với nhau
để tạo nên sức mạnh của một tập thể. Sau đó là văn hóa ứng xử giữa thầy với
thầy, giữa thầy với trò và ngƣợc lại giữa trị với thầy.
- Văn hóa dạy, tác giả đề cao đạo đức và trình độ của ngƣời thầy giáo
khi đứng trên bục giảng bài cho sinh viên và cả khi chấm bài, đánh giá trình
độ của sinh viên. Muốn tạo ra động lực và niềm say mê học tập của sinh viên,
thầy giáo phải khơng ngừng tích lũy kiến thức, rèn luyện đạo đức để trở thành
mẫu mực cho sinh viên noi theo.
- Văn hóa học, tác giả cảm thấy lo lắng khi có 89% sinh viên sử dụng
tài liệu trong phịng thi; 85% sinh viên khơng chịu học hành, chỉ lo quay cóp;
42% sinh viên sao chép luận văn, đồ án; 36% sinh viên xin điểm, mua điểm;
21% sinh viên thi hộ, thi kèm (Báo giáo dục và thời đại, ngày 21/12/2006).
- Văn hóa thi cử, thi cử từ xƣa đến nay, không phải chỉ để kiểm tra

kiến thức mà ở đó cịn thể hiện tinh thần học tập, thái độ học tập với tƣ cách
của thí sinh. Mọi biểu hiện thiếu trung thực, gian lận trong thi cử cần đƣợc
kiểm tra kịp thời và kỷ luật thích đáng [xem, 30].
Cịn theo cách hiểu rộng nhất của chính tác giả cuốn sách “Văn hóa
học đƣờng” là: “Văn hóa học đƣờng là một hệ thống những giá trị vật chất và
tinh thần đƣợc hình thành và tích lũy trong lịch sử bao gồm những suy nghĩ,
quan niệm, những thói quen, tập quán, tƣ tƣởng, luật pháp, thiết chế…nhằm
thiết lập mối quan hệ giữa thầy, trò và các thành viên có liên quan đến việc
dạy và học đạt kết quả cao. Văn hóa học đƣờng là nét đặc trƣng của môi


16
trƣờng học tập và là tấm gƣơng phản chiếu trình độ phát triển của xã hội. Nếu
diễn đạt một cách ngắn gọn nhất thì văn hóa học đƣờng có thể đƣợc hiểu là
những nét đẹp ở nơi học đƣờng” [30, tr.51]. Tác giả cuốn sách cũng nhấn
mạnh: “trong thực tế nơi học đƣờng ln ln có hai mặt tích cực và hạn chế,
tốt đẹp và xấu xa, do vậy xây dựng văn hóa học đƣờng thực chất là một q
trình đấu tranh để bảo vệ và khẳng định những cái tiến bộ, đẹp đẽ, phù hợp
với thời đại, đồng thời đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, gian lận,
kém ý chí vƣơn lên, thiếu tự giá, tự trọng” [30, tr.51]…
Còn theo giáo sƣ Phạm Minh Hạc, trong bài viết “Giáo dục giá trị xây
dựng văn hóa học đƣờng” [15, tr.9] đã đƣa ra định nghĩa: “văn hoá học đƣờng
là hệ thống các chuẩn mực, giá trị giúp các cán bộ quản lý nhà trƣờng, các
thầy cô, các vị phụ huynh và các em học sinh, sinh viên có các cách thức suy
nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp”. Cũng trong bài viết này, giáo sƣ Phạm
Minh Hạc cho rằng: văn hóa học đƣờng cần đảm bảo ba yếu tố: cơ sở vật chất
đảm bảo, môi trƣờng giáo dục và văn hóa giao tiếp, ứng xử.
Tổng quan các quan niệm về văn hóa học đƣờng nhƣ trên cho thấy,
hiện có rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Mặc dù
có những điểm khác biệt, song cũng dễ dàng nhận ra một số điểm tƣơng đồng

mang các thuộc tính cơ bản, phổ biến của văn hóa học đƣờng nói chung nhƣ:
Một là, văn hóa học đƣờng là một bộ phận của khái niệm văn hóa.
Nếu nhƣ “văn hóa” tồn tại trong một khơng gian rộng lớn, có tính bao qt
tồn bộ xã hội; thì “văn hóa học đƣờng” thƣờng tồn tại ở phạm vi hẹp hơn,
trong khơng gian ở trƣờng học.
Hai là, văn hóa học đƣờng là hệ thống giá trị các chuẩn mực. Giá trị
đề cập ở đây là các quy chuẩn mong muốn con ngƣời điều chỉnh hành vi để
đạt đƣợc; đồng thời cũng là những giá trị con ngƣời phải ra sức xây dựng, bảo
vệ và phát huy ở trƣờng học.
Ba là, chủ thể của văn hóa học đƣờng là các mối quan hệ nhƣ: giữa
thầy, trò, các thành viên khác liên quan đến quá trình giáo dục và đào tạo.


17
Bốn là, mục đích của văn hóa học đƣờng là hƣớng các chủ thể tới
những giá trị có tính chuẩn mực; nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng của
hoạt động giáo dục và đào tạo một cách toàn diện.
Trên cơ sở rút ra những nội dung cơ bản, so sánh giữa các quan niệm
về văn hóa học đƣờng trƣớc đó, cũng nhƣ xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của
đề tài, chúng tơi cho rằng: văn hố học đường ở trường đại học là hệ thống các
giá trị vật chất và tinh thần mang tính chuẩn mực, giúp đội ngũ cán bộ quản lý,
giảng viên, nhân viên, lực lượng sinh viên, học viên và các vị phụ huynh có suy
nghĩ, tình cảm và hành động tốt đẹp. Định nghĩa trên khơng chỉ đề cập đến các
giá trị có tính chuẩn mực, mà còn bao quát đƣợc các chủ thể, thuộc tính quan
trọng của văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại học.
Có thể nói, trƣờng đại học đƣợc xem là một trong những cơ sở, trung
tâm văn hóa của xã hội. Tuy nhiên, trình độ văn hóa của mỗi trƣờng đại học nói
chung, hay của các bộ phận cấu thành nói riêng không phải khi nào cũng nhƣ
nhau; lại càng không phải là bất biến, không cần phải phát triển; mà chính bản
thân mỗi trƣờng đại học phải ln phát triển để phù hợp với sự vận động và biến

đổi của đời sống kinh tế, xã hội. Với xuất phát điểm nhƣ vậy, chúng tơi cho rằng:
phát triển văn hóa học đường ở trường đại học chính là q trình hồn thiện hệ
thống các giá trị vật chất và tinh thần từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ chỗ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn nhằm giúp đội ngũ cán bộ quản lý, giảng
viên, nhân viên, lực lượng sinh viên, học viên và các vị phụ huynh có suy nghĩ,
tình cảm và hành động tốt đẹp. Một trong những ngun tắc quan trọng trong
q trình phát triển văn hóa học đƣờng ở mỗi trƣờng đại học chính là việc phủ
định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao, phát huy các nhân tố tích cực.
Vì vậy, phát triển văn hóa học đƣờng, nhất là văn hóa học đƣờng ở trƣờng đại
học khơng chỉ có tầm quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội mà còn
đối với bản thân mỗi cơ sở giáo dục và đào tạo. Thế nên, khái niệm về văn hóa
học đƣờng và khái niệm về phát triển văn hóa học đƣờng nhƣ trên sẽ là công cụ
quan trọng để chúng tôi triển khai các nội dung tiếp theo của đề tài.


18
1.2. CÁC THÀNH TỐ VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA
VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.2.1. Các thành tố cơ bản của văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại
học. Văn hóa học đƣờng ở mỗi trƣờng đại học bao giờ cũng có nhiều thành tố
cấu tạo nên; trong đó, sinh viên, giảng viên, nhân viên, cơ sở vật chất, trang
thiết bị, hệ thống các nội quy, quy chế… là những thành tố cơ bản nhất.
Một là, lực lượng sinh viên. Ở một số nƣớc trên thế giới, chủ yếu ở
phƣơng Tây, khái niệm “sinh viên” có phạm vi khá rộng, bao gồm cả những
ngƣời đang học ở trƣờng đại học, cao đẳng, các trƣờng trung học và trƣờng
dạy nghề [4, tr.20]. Còn ở nƣớc ta, “sinh viên” dùng để chỉ những ngƣời đang
học tập ở các cơ sở giáo dục đại học (bao gồm các trƣờng đại học, cao đẳng
và các học viện). Đây là lực lƣợng đông đảo, nhân vật trung tâm, có vai trị
quyết định nhất đối với sự tồn tại, phát triển của mỗi cơ sở giáo dục đại học.
Về độ tuổi, sinh viên thƣờng nằm trong khoảng từ 18 đến 25 tuổi là

chủ yếu. Ở độ tuổi này, họ đã có sự trƣởng thành về mặt sinh học và mặt xã
hội, khá hoàn chỉnh về mặt hình thể và phát triển tƣơng đối đầy đủ về hệ thần
kinh trung ƣơng. Nhiều ý kiến tán thành rằng: sinh viên là lực lƣợng rất năng
động, nhạy cảm, thích sự tìm tịi, sáng tạo, ƣa những điều mới lạ, giàu ƣớc
mơ, hoài bão, ham hiểu biết, ƣa chuộng sự thông thái và muốn đƣợc trang bị
kiến thức để trở nên thơng thái, họ có nhu cầu cao về tình bạn, tình u, ln
muốn khẳng định bản thân, ít bị lệ thuộc vào ngƣời khác, không thích sự gị
bó, ép buộc, thích giao lƣu, tham gia các hoạt động cộng đồng, xã hội...
Sinh viên ngày nay có nguồn gốc xuất thân rất đa dạng, đƣợc tập hợp
từ các giai cấp, tầng lớp, từ các địa phƣơng, vùng miền, dân tộc, tơn giáo,
thậm chí cịn từ các quốc gia khác nhau. Là một bộ phận của thanh niên, song
sinh viên là bộ phận ƣu tú nhất với những phẩm chất, trí tuệ, năng lực vƣợt
trội hơn. Tuy nhiên, họ cũng có những hạn chế nhƣ thiếu kinh nghiệm sống,
hiếu thắng, dễ bị kích động, tình cảm đơi khi lấn át lý trí, hay dao động, thích
phiêu lƣu mạo hiểm, khi gặp khó khăn thƣờng hay dễ hoang mang, chán nản…


19
Có thể nói, với những đặc điểm cơ bản nêu trên, mỗi sinh viên có phát
huy đƣợc năng lực tiềm ẩn, những mặt tích cực của mình hay khơng một mặt
phụ thuộc vào sự cố gắng rèn luyện, nỗ lực phấn đấu của chính bản thân mỗi
sinh viên; mặt khác cịn phụ thuộc vào điều kiện, mơi trƣờng mà họ sinh hoạt,
học tập. Vì vậy, xây dựng một mơi trƣờng sƣ phạm có văn hóa sẽ là bệ đỡ,
chất xúc tác quan trọng để xây đắp nên các nền tảng giá trị, chuẩn bị những
hành trang cần thiết để sinh viên bƣớc vào cuộc sống lập thân, lập nghiệp.
Hai là, đội ngũ giảng viên và nhân viên. Trƣớc hết, đối với đội ngũ
giảng viên. Theo Luật Giáo dục năm 2005 của nƣớc ta quy định, giảng viên là
nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học và sau đại học. Cấp
đại học đào tạo trình độ đại học và cao đẳng, cấp sau đại học đào tạo trình độ
thạc sĩ và tiến sĩ. Đội ngũ giảng viên là tập hợp những ngƣời có tri thức và

học vấn cao, có sự hiểu biết sâu rộng trong lĩnh vực mình giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, có cơ cấu đa dạng với nhiều bộ môn, phân ngành khác nhau.
Thiên chức hàng đầu của ngƣời giảng viên chính là truyền bá tri thức.
Với trình độ học vấn cao, vốn hiểu biết chuyên sâu, cộng với tâm huyết nghề
nghiệp; bằng các kỹ năng, nghiệp vụ khác nhau, đội ngũ giảng viên đã thực
hiện chức năng truyền bá những tri thức cần thiết cho ngƣời học. Q trình đó
có thể thực hiện trực tiếp thông qua các hoạt động nhƣ: giảng dạy, hƣớng dẫn
thực hành, thực tập, thực hiện luận văn, luận án; hay cũng có thể gián tiếp
nhƣ: biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ học tập… Với những kiến thức, kỹ
năng đƣợc đội ngũ giảng viên trang bị ở trƣờng đại học sẽ là hành trang quan
trọng cho các cử nhân, kỹ sƣ tham gia thị trƣờng lao động sau khi tốt nghiệp.
Không những thế, ngƣời giảng viên cịn có thiên chức là nhà khoa
học. Có thể nói, hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai hoạt động
cơ bản nhất của ngƣời giảng viên ở trƣờng đại học. Hai hoạt động này có mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu nhƣ hoạt động nghiên cứu
khoa học là cơ sở, điều kiện góp phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy; thì hoạt
động giảng dạy là nơi nảy sinh, thôi thúc hoạt động nghiên cứu khoa học của


20
ngƣời giảng viên. Có ý kiến cho rằng, nếu ở trƣờng đại học mà khơng có hoạt
động nghiên cứu khoa học thì đó là “trƣờng phổ thơng cấp bốn” [41] chứ
không phải là trƣờng đại học đúng nghĩa; hay nếu nhƣ giảng viên không tham
gia nghiên cứu khoa học chỉ là “ca sĩ hát nhép” – diễn đạt lại câu chữ của
ngƣời khác trong sách vở, giáo trình một cách “vô hồn”, thiếu cảm xúc, chứ
chƣa thể coi là một ngƣời giảng viên thực thụ. Ngày nay, đội ngũ giảng viên ở
trƣờng đại học khơng chỉ góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dƣỡng nhân tài; mà thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học, đội ngũ
này cịn góp phần nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của quốc gia, tạo
tiền đề vững chắc để thúc đẩy đất nƣớc ta phát triển nhanh và bền vững.

Chính vì lẽ đó, trƣớc bối cảnh nhân loại chuyển sang nền kinh tế tri thức, xã
hội đang bị tác động, chi phối mạnh mẽ từ cuộc cách mạng 4.0; đội ngũ giảng
viên với nhân cách - đạo đức – khí phách - tri thức - vốn hiểu biết của mình
đang đƣợc coi là nguồn lực đặc biệt quan trọng của đất nƣớc.
Ngoài ra, để trở thành ngƣời giảng viên chân chính, cùng với u cầu
về trình độ chun môn, nghiệp vụ sƣ phạm, năng lực lao động sáng tạo;
ngƣời giảng viên cịn phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, bản lĩnh chính trị
vững vàng, lối sống lành mạnh, mơ phạm. Tính mơ phạm đối với nhà giáo –
ngƣời giảng viên biểu hiện ở chỗ: có những hành vi ngƣời thầy khơng thể
làm, có những ngơn từ ngƣời thầy khơng thể nói, có những quy ƣớc ngƣời
thầy khơng thể phá bỏ. Bởi mỗi thầy giáo, cô giáo không chỉ là những kỹ sƣ
tâm hồn, chiến sĩ tiên phong trên các lĩnh vực văn hóa – tƣ tƣởng, mà còn là
tấm gƣơng sáng, nhân cách tiêu biểu cho ngƣời học và xã hội noi theo.
Bên cạnh đội ngũ giảng viên, trong bất kỳ trƣờng đại học nào cũng cần
có sự hợp tác, hỗ trợ, phục vụ của các nhân viên làm việc ở các khoa, phòng, ban
nhƣ: giáo vụ ở các khoa, nhân viên Thƣ viện, nhân viên Phòng Đào tạo, Phịng
Cơng tác sinh viên, Phịng Tài chính Kế tốn, Phịng Quản trị… Đội ngũ này
một mặt có nhiệm vụ tham mƣu cho nhà trƣờng trong việc xây dựng các nội
quy, quy chế, mặt khác còn trực tiếp thực thi các quy chế, quy định đó nhằm


21
quản lý các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hoạt động văn - thể - mỹ
của giảng viên, sinh viên và chính bản thân đi vào nề nếp, có chất lƣợng, đáp
ứng yêu cầu phát triển của nhà trƣờng, đòi hỏi của đời sống xã hội.
Ba là, cơ sở vật chất, trang thiết bị và hệ thống các nội quy, quy chế.
Trƣớc hết, nói đến cơ sở vật chất, trang thiết bị ở trƣờng đại học là nói đến các
bộ phận cấu thành nhƣ: phòng học, xƣởng thực hành, phịng thí nghiệm, thƣ
viện… Đây là những điều kiện tiên quyết đảm bảo cho các hoạt động đào tạo
và nghiên cứu khoa học ở trƣờng đại học đƣợc diễn ra. Trong giáo dục truyền

thống trƣớc đây, “một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, phƣơng pháp
dạy học theo kiểu “đọc chép” là chủ yếu - ngƣời học chỉ cần nắm bắt đƣợc các
kiến thức giảng viên truyền đạt trên lớp là đủ; khi đó, các trang thiết bị nhƣ
máy chiếu, thƣ viện, tài liệu tham khảo…chƣa thực sự cần thiết cho hoạt động
này. Còn trong giáo dục đào tạo ngày nay, yêu cầu ngƣời học không chỉ phải
giỏi ngang thầy mà còn phải giỏi hơn thầy để thúc đẩy xã hội phát triển nhanh
hơn, tiến bộ hơn; phƣơng pháp dạy học theo lối truyền thụ kiến thức đơn thuần
đƣợc thay bằng phƣơng pháp lấy ngƣời học làm trung tâm, phát huy năng lực
của ngƣời học; sản phẩm của giáo dục và đào tạo ngày nay phải tạo ra đƣợc
con ngƣời có trí tuệ, sáng tạo, hành động và hội nhập chứ không phải là những
con ngƣời thông thạo kinh sử, nhẹ thực hành nhƣ trƣớc đây. Chính vì vậy, sự
đầy đủ, hiện đại của cơ sở vật chất, trang thiết bị là điều kiện cần thiết để phát
triển văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại học.
Cùng với cơ sở vật chất, trang thiết bị thì các nội quy, quy chế cũng cấu
tạo nên văn hóa học đƣờng ở trƣờng đại học. Có thể nói, mỗi trƣờng đại học có
các nội quy, quy chế khơng giống nhau, vì nó thƣờng phụ thuộc vào tính đặc
thù của từng trƣờng; song các nội quy, quy chế đó đều dựa trên cơ sở của Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nƣớc Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các Nghị
định, Thơng tƣ của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo... Các nội quy, quy
chế là cơ sở pháp lý quan trọng để mỗi trƣờng đại học điều hành hoạt động,
thực hiện các chức năng, mục tiêu, nhiệm vụ một cách chính xác, hiệu quả.


22
1.2.2. Những biểu hiện cơ bản của văn hóa học đƣờng tại trƣờng đại
học. Văn hóa học đƣờng là một phạm trù rất rộng, trong khn khổ mục đích,
đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung đi sâu phân
tích làm sáng tỏ trên một số phƣơng diện với những biểu hiện cơ bản nhƣ sau:
Một là, văn hóa giao tiếp. Trong đời sống, con ngƣời khơng chỉ có
mối quan hệ với thế giới tự nhiên mà cịn có mối quan hệ giữa ngƣời và ngƣời

trong xã hội; quan hệ đó đƣợc gọi là giao tiếp. Theo cách hiểu thơng thƣờng,
giao tiếp là q trình tác động qua lại và thể hiện sự tiếp xúc tâm lí giữa con
ngƣời với con ngƣời. Thơng qua q trình giao tiếp, một mặt con ngƣời thực
hiện việc trao đổi thông tin, chia sẻ cảm xúc, mặt khác con ngƣời còn chịu sự
chi phối, ảnh hƣởng lẫn nhau. Hay nói cách khác, “giao tiếp là q trình xác
lập và vận hành các quan hệ ngƣời – ngƣời, hiện thực hóa các quan hệ xã hội
giữa chủ thể này với chủ thể khác” [35, tr.49].
Ở trƣờng đại học, chủ thể cơ bản nhất của hoạt động giao tiếp là giảng
viên, nhân viên và sinh viên. Thông qua hoạt động giao tiếp mà sinh viên,
giảng viên và nhân viên có thể trao đổi thông tin, truyền đạt tri thức, chia sẻ
kinh nghiệm với nhau. Mặt khác, nó cịn là một trong những con đƣờng hình
thành nên tình cảm giữa ngƣời và ngƣời để từ đó con ngƣời nhận thức, đánh
giá lẫn nhau, điều chỉnh hành vi bản thân, tạo điều kiện để con ngƣời phối
hợp nhau giải quyết một nhiệm vụ nào đó. Phạm vi giao tiếp của sinh viên,
giảng viên và nhân viên đƣợc diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy và học,
trong quá trình thực thi các nội quy, quy chế của nhà trƣờng, cũng nhƣ trong
các hoạt động của Đoàn thể… So với trƣớc đây, hoạt động giao tiếp ngày nay
diễn ra khá phong phú, đa dạng với các hình thức nhƣ: giao tiếp trực tiếp (mặt
đối mặt) và giao tiếp gián tiếp (qua điện thoại, email, facebook, zalo…); hay
với các quy cách giao tiếp nhƣ: giao tiếp chính thức (có tính chất cơng việc),
giao tiếp khơng chính thức (mang tính cá nhân); hoặc, thơng qua các phƣơng
tiện giao tiếp nhƣ: giao tiếp ngôn từ (bằng lời nói, văn bản) và giao tiếp phi
ngơn từ (bằng ám hiệu, cử chỉ, ánh mắt, ngữ điệu trong câu nói)…


×