Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Phát triển văn hóa kinh doanh tại ngân hàng công thương Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.86 KB, 89 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, vẫn không ít người coi văn hoá là lĩnh vực đứng ngoài kinh
tế, thậm chí phụ thuộc vào kinh tế, bám sau kinh tế. Nghĩa là chỉ khi nào kinh
tế phát triển ổn định thì mới có điều kiện để chăm lo đến đời sống tinh thần.
Tuy nhiên, nói đến văn hoá là nói đến cái đúng, cái đẹp, cái tốt, nghĩa là nói
đến phẩm chất thuộc đạo đức trong các mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên cũng như trong sự tu dưỡng không ngừng
để mong tiến tới hoàn thiện bản thân. Điều quan trọng để phát triển hoạt động
kinh doanh là kết hợp được giữa văn hóa và kinh doanh. Như vậy làm sao có
thể dung hoà hai lĩnh vực nói trên? Làm sao có thể đưa nhân tố văn hoá vào
kinh doanh và ngược lại, đưa các nhân tố kinh doanh vào văn hoá, nhưng
không làm tổn hại đến văn hoá?
Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập của các nước trên
thế giới mỗi nước muốn đứng vững trên thương trường ngoài việc có một
tiềm lực kinh tế mạnh mẽ cũng cần phải có văn hóa kinh doanh.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu và là một yêu cầu khách quan
đối với bất kỳ quốc gia nào trong quá trình phát triển. Việt Nam không nằm
ngoài xu hướng khách quan đó. Trong lĩnh vực Ngân hàng, để thực hiện hội
nhập, từ nay đến 2010, Việt Nam tiếp tục thực thi các cam kết trong Hiệp
định Thương mại Việt- Mỹ, bắt đầu thực hiện Hiệp định chung về Thương
mại dịch vụ (GATS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo các
cam kết này, đến năm 2010, các ngân hàng Mỹ cũng được đối xử bình đẳng
như tất cả các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước.
Bắt đầu từ 2011 đến 2020, Việt Nam phải thực hiện những cam kết còn
lại trong khuôn khổ của Hiệp định thương mại Việt Mỹ cũng như các yêu cầu
còn lại của GATS về mở cửa dịch vụ tài chính- ngân hàng.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
1
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Như vậy, sau khi hội nhập ngành ngân hàng ở Việt Nam đứng trước


những thách thức rất lớn đó là sự cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng
nước ngoài. Theo như một số nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và phân tích thì đạo
đức tỷ lệ thuận với lợi nhuận. Do đó, bên cạnh việc nâng cao khả năng cạnh
tranh thì việc phát triển văn hóa kinh doanh cũng là một vấn đề cần được
quan tâm.
Ngân hàng công thương khu vực Ba Đình là một trong những chi
nhánh của NHCT VN được thành lập từ rất lâu nên có bề dày lịch sử và cũng
là một trong những chi nhánh xuất sắc nhất của hệ thống NHCT VN.
Trong một thời gian thực tập ngắn hạn tại chi nhánh NHCT Ba Đình,
em nhận thấy ngân hàng đã có kết quả hoạt động kinh doanh rất có hiệu quả
và để đạt được điều đó thì việc ứng dụng phát triển văn hóa kinh doanh của
ngân hàng rất được chú trọng. Bởi vậy, em đã chọn đề tài : “ Phát triển văn
hóa kinh doanh tại ngân hàng công thương Ba Đình” để nghiên cứu.
Đề tài của em gồm có những nội dung chính sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về văn hóa kinh doanh của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng văn hóa kinh doanh tại Ngân hàng công thương
Ba Đình.
Chương 3: Giải pháp phát triển văn hóa kinh doanh tại Ngân hàng công
thương Ba Đình.
Do thời gian và khả năng có hạn nên chuyên đề của em không thể tránh
được những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ các
thầy cô và toàn thể cán bộ ngân hàng.
Em xin chân trọng cảm ơn cô giáo Ths. Lê Thanh Tâm và các cô chú ở
phòng khách hàng cá nhân của Chi nhánh NHCT Ba Đình đã rất nhiệt tình
hướng dẫn và chỉ bảo để em hoàn thành chuyên đề này.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA KINH
DOANH TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.Khái quát về văn hóa kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về văn hóa kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải có
một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó.
Trên thực tế, cũng đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa. Nhưng
cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào
thoả mãn được cả về định tính và định lượng
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng lớn, liên quan đến mọi
mặt của cuộc sống con người và do vậy có rất nhiều cách hiểu. Có tới hàng
trăm định nghĩa về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và
đánh giá khác nhau. Từ năm 1952, hai nhà nhân loại học người Mỹ là Alfred
Kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê được 164 định nghĩa khác nhau về
văn hóa trong các công trình nghiên cứu nổi tiếng thế giới. Các định nghĩa về
văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các
định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều.
- Theo nghĩa gốc của từ
Tại phương Tây, văn hóa – culture (trong tiếng Anh, tiếng Pháp) hay
kultur (tiếng Đức) … đều xuất sứ từ chữ Latinh cultus có nghĩa là khai hoang,
trồng trọt, trông nom cây lương thực, nói ngắn gọn là sự vun trồng. Sau đó từ
cultus được mở rộng nghĩa, dùng trong lĩnh vực xã hội chỉ sự vun trồng, giáo
dục, đào tạo và phát triển mọi khả năng của con người.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Ở phương Đông, trong tiếng Hán cổ, từ văn hóa bao hàm ý nghĩa văn là
vẻ đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ con người có thể đạt được
bằng sự tu dưỡng của bản thân và cách thức cai trị đúng đắn của nhà cầm

quyền. Còn chữ hóa trong văn hóa là việc đem cái văn (cái đẹp, cái tốt, cái
đúng) để cảm hóa giáo dục và hiện thực hóa trong thực tiễn, đời sống. Vậy
văn hóa chính là nhân hóa hay nhân văn hóa. Đường lối văn trị hay đức trị
của Khổng Tử là từ quan điểm cơ bản này về văn hóa ( văn hóa là văn trị giáo
hóa, là giáo dục, cảm hóa bằng điển chương, lễ nhạc, không dùng hình phạt
tàn bạo và sự cưỡng bức).
Như vậy, văn hóa trong cả từ nguyên của cả phương Đông và phương Tây
đều có một nghĩa chung căn bản là sự giáo hóa, vun trồng nhân cách con
người ( bao gồm cá nhân, cộng đồng và xã hội loài người), cũng có nghĩa là
làm cho con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
- Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng mà thuật ngữ “văn hóa” được sử dụng để phản ánh
ba cấp độ nghiên cứu chính về văn hóa đó là :
+ Theo phạm vi nghiên cứu rộng nhất, văn hóa là tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thân do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử.
Loài người là một bộ phận của tự nhiên nhưng khác với sinh vật khác, loài
người có một khoảng trời riêng, một thiên nhiên thứ hai do con người sáng
tạo ra nuôi sống con người, giúp loài người hình thành và sinh tồn như không
khí, đất đai … thì văn hóa là cái nôi thứ hai – nơi ở đó toàn bộ đời sống vật
chất và tinh thần của loài người được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển.
Nếu con người không thể tồn tại khi tách khỏi giới tự nhiên thì cũng vậy, con
người không thể trở thành “người” theo đúng nghĩa nếu tách khỏi môi trường
văn hóa.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Do đó, nói đến văn hóa là nói đến con người – nói tới những đặc trưng
riêng chỉ có ở loài người, nói tới việc phát huy những năng lực và bản chất
của con người nhằm hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng vươn

tới “chân - thiện – mỹ”. Đó là ba giá trị trụ cột vĩnh hằng của văn hóa nhân
loại.
Cho nên, theo nghĩa này, văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của
con người dù đó chỉ là những suy tư thầm kín, những giao tiếp ứng xử cho
đến những hoạt động kinh tế, chính trị và xã hội. Như vậy, hoạt động văn hóa
là hoạt động sản xuất ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm giáo dục con
người khát vọng hướng tới chân - thiện – mỹ và khả năng sáng tạo chân –
thiện – mỹ trong đời sống.
Theo UNESCO “ Văn hóa là một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện
mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, linh cảm … Văn hóa không chỉ bao gồm
nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng …”
Theo Hồ Chí Minh: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,khoa
học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ở và các phương tiện, phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống, và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Theo E.Herriot: “Văn hóa là cái còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả,
là cái vẫn còn thiếu sau khi người ta đã học tất cả”
+ Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những hoạt động và giá trị tinh thần của con
người. Trong phạm vi này, văn hóa khoa học (toán học, vật lý học, hóa học
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
…), văn hóa nghệ thuật ( văn học, điện ảnh … ) được coi là hai phân hệ chính
của hệ thống văn hóa.
+ Theo nghĩa hẹp hơn nữa, văn hóa được coi như một ngành – ngành văn hóa
– nghệ thuật để phân biệt với các ngành kinh tế - kỹ thuật khác. Cách hiểu này

thường kèm theo cách đối xử sai lệch về văn hóa: coi văn hóa là lĩnh vực hoạt
động đứng ngoài kinh tế, sống được là nhờ trợ cấp của nhà nước và “ ăn theo”
nền kinh tế.
Trong ba cấp độ phạm vi nghiên cứu kể trên về thuật ngữ văn hóa, hiện
nay người ta thường dùng văn hóa theo nghĩa rộng nhất. Loại trừ những
trường hợp đặc biệt và người nghiên cứu đã tự giới hạn và quy ước.
- Căn cứ theo hình thức biểu hiện
Văn hóa được phân loại theo văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hay
đúng hơn theo cách phân loại này văn hóa bao gồm văn hóa vật thể (tangible)
và văn hóa phi vật thể (intangible).
Các đền chùa, cảnh quan, di tích lịch sử cũng như các sản văn hóa truyền
thống như tranh Đông Hồ, gốm bát tràng, áo dài, áo tứ thân … đều thuộc loại
hình văn hóa vật thể. Các phong tục, tập quán, các làn điệu dân ca hay bảng
giá trị, các chuẩn mực đạo đức của một dân tộc … là thuộc loại hình văn hóa
phi vật thể. Tuy vậy, sự phân loại trên chỉ có ý nghĩa tương đối bởi vì trong
một sản phẩm văn hóa thường có cả yếu tố “vật thể” và “phi vật thể” như “
như cái hữu thể và cái vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau, như
thân xác và tâm trí con người”. Điển hình như văn hóa cồng chiêng của các
dân tộc Tây Nguyên, ẩn sau cái vật thể hữu hình của nó là những cồng, những
chiêng, những con người của núi rừng. những nhà sàn, nhà rông mang đậm
bản sắc … là cái vô hình của âm hưởng, phong cách và quy tắc chơi nhạc đặc
thù, là cái hồn của thời gian, không gian và giá trị lịch sử.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Như vậy, khái niệm văn hóa rất rộng, trong đó những giá trị vật chất và tinh
thần được sử dụng làm nền tảng định hướng cho lối sống, đạo lý tâm hồn và
hành động của mỗi dân tộc và các thành viên vươn tới cái đúng, cái tốt, cái
đẹp, cái mỹ trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Từ ý nghĩa đó, chúng ta rút được khái

niệm về văn hóa như sau:
“ Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người tạo ra
trong quá trình lịch sử”.
* Những nét đặc trưng của văn hóa
Văn hóa có một số đặc trưng tiêu biểu sau:
- Văn hóa mang tính tập quán: Văn hóa quy định những hành vi được
chấp nhận hay không được chấp nhận trong một xã hội cụ thể. Có
những tập quán đẹp tồn tại lâu đời như một sự khẳng định những nét
độc đáo của một nền văn hóa này so với nền văn hóa kia như tập quán
“mời trầu” của người Việt Nam, tập quán các thiếu nữ Nga mời
khách bánh mỳ và muối. Song cũng có những tập quán không dễ gì
cảm thông ngay như tập quán “cà răng căng tai” của một số dân tộc
thiểu số của Việt Nam.
- Văn hóa mang tính cộng đồng: Văn hóa không thể tồn tại do chính
bản thân nó mà phải dựa vào sự tạo dựng, tác động qua lại và củng cố
của mọi thành viên trong xã hội. Văn hóa như là một sự quy ước
chung cho các thành viên trong cộng đồng. Đó là những lề thói,
những tập tục mà một cộng đồng người cùng tuân theo một cách rất
tự nhiên, không cần phải ép buộc. Một người nào đó làm khác đi sẽ bị
cộng đồng lên án hoặc xa lánh tuy rằng xét về mặt pháp lí những việc
làm của anh ta không có gì là phi pháp.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
- Văn hóa mang tính dân tộc: Văn hóa tạo nên nếp suy nghĩ và cảm
nhận chung của từng dân tộc mà người dân tộc khác không dễ gì hiểu
được. Vì thế mà một câu chuyện cười có thể làm cho người dân các
nước phương Tây cười chảy nước mắt mà người dân Châu Á chẳng
thấy có gì hài hước ở đó cả. Vì vậy, cùng một thông điệp mà ở nhiều
nước lại có thể mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

- Văn hóa có tính chủ quan: Con người ở các nền văn hóa khác nhau có
suy nghĩ, đánh giá khác nhau về cùng một sự việc. Cùng một sự việc
có thể được hiểu một cách khác nhau ở các nền văn hóa khác nhau.
Một cử chỉ thọc tay vào túi quần và ngồi gếch chân lên bàn để giảng
bài của một thầy giáo có thể được coi là rất bình thường ở nước Mỹ,
trái lại không thể chấp nhận được ở nhiều nước khác.
- Văn hóa có tính khách quan: Văn hóa thể hiện quan điểm chủ quan
của từng dân tộc, nhưng lại có cả một quá trình hình thành mang tính
lịch sử, xã hội được chia sẻ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi người. Văn hóa tồn
tại khách quan ngay cả với các thành viên trong cộng đồng. Chúng ta
có thể học hỏi các nền văn hóa, chấp nhận nó, chứ không thể biến đổi
chúng theo ý muốn chủ quan của mình. Chẳng hạn quan niệm “trọng
nam khinh nữ” đã ăn rất sâu trong lịch sử Việt Nam không dễ gì xóa
bỏ được.
- Văn hóa có tính kế thừa: Văn hóa là sự tích tụ hàng trăm, hàng ngàn
năm của tất cả các hoàn cảnh. Mỗi thế hệ đều cộng thêm đặc trưng
riêng biệt của mình vào nền văn hóa dân tộc trước khi truyền lại cho
thế hệ sau. Ở mỗi thế hệ, thời gian qua đi, những cái cũ có thể loại trừ
và tạo nên một nền văn hóa quảng đại. Sự sàng lọc và tích tụ qua thời
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
gian đã làm cho vốn văn hóa của một dân tộc trở nên giàu có, phong
phú và tinh khiết hơn.
- Văn hóa có thể học hỏi được: Văn hóa không chỉ được truyền lại từ
đời này qua đời khác, mà nó còn phải do học mới có. Đa số kiến thức
mà một người có được là do học mà có hơn là bẩm sinh đã có. Do
vậy, con người ngoài vốn văn hóa có được từ nơi mình sinh ra và lớn
lên, có thể còn học được từ những nơi khác, những nền văn hóa khác.

- Văn hóa luôn tiến hóa: Một nền văn hóa không bao giờ tĩnh lại và bất
biến. Ngược lại văn hóa luôn luôn thay đổi và rất năng động. Nó luôn
tự điều chỉnh cho phù hợp với trình độ và tình hinh mới. Trong quá
trình hội nhập và giao thoa với các nền văn hóa khác, nó có thể tiếp
thu các giá trị tiến bộ, hoặc tích cực của các nền văn hóa khác. Ngược
lại, nó cũng tác động ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác.
Việc nắm bắt được những nét đặc trưng của văn hóa cho chúng ta một
tầm nhìn bao quát, rộng mở và một thái độ hết sức quan trọng và thận trọng
với những vấn đề văn hóa. Mọi sự kết luận vội vàng hoặc một sự thiếu trách
nhiệm đều có thể làm thui chột khả năng sáng tạo văn hóa. Nhận biết đầy đủ
và sâu sắc những đặc trưng này sẽ giúp chúng ta xác định được biểu hiện và
vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động kinh
doanh nói riêng.
1.1.1.2. Khái niệm văn hóa kinh doanh
Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với
hàng hóa và thị trường. Nếu là danh từ thì kinh doanh là một nghề - được
dùng để chỉ những người thực hiện các hoạt động nhằm mục đích kiếm lợi,
còn nếu là động từ thì kinh doanh là một hoạt động – là việc thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng các dịch vụ trên thị trường. Dù xét từ giác độ nào thì
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh
hay bản chất của kinh doanh là để kiếm lời.
Các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh là những người làm kinh
doanh, họ gồm các cấp độ như cá nhân, nhóm và tổ chức; họ có mối liên hệ
liên kết chặt chẽ với nhau và tạo thành tầng lớp các nhà kinh doanh hay tầng
lớp doanh nhân. Nhà kinh doanh sẽ căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu và sở thích
của khách hàng để cung cấp hàng hóa và dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận.

Ngoài ra, trong quá trình kinh doanh, các doanh nhân có mối liên hệ chặt chẽ
với môi trường bên ngoài vì hoạt động của nó có ảnh hưởng rất lớn đến các
hoạt động khác của con người, nên ngoài sự điều chỉnh từ phía khách hàng,
kinh doanh còn chịu sự điều tiết của pháp lý, xã hội … Đồng thời, những tín
hiệu từ phía môi trường bên ngoài cũng rất có ý nghĩa với chủ thể kinh doanh,
nó tác dụng đến quá trình tồn tại và quá trình ra quyết định của chủ thể kinh
doanh. Như vậy, chủ thể kinh doanh và môi trường bên ngoài có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, không có môi trường bên ngoài thì không thể tồn tại chủ
thể kinh doanh lẫn hoạt động kinh doanh và ngược lại.
Trong kinh doanh, những sắc thái văn hóa có trong toàn bộ quá trình tổ
chức và hoạt động của hoạt động kinh doanh, nó thể hiện từ cách chọn và
cách bố trí máy móc và dây chuyền công nghệ; từ cách tổ chức bộ máy về
nhân sự và hình thành quan hệ giao tiếp ứng xử giữa các thành viên trong tổ
chức cho đến các phương thức quản lý kinh doanh mà chủ thể kinh doanh áp
dụng sao cho có hiệu quả nhất. Hoạt động kinh doanh cố nhiên không lấy các
giá trị của văn hóa làm mục đích trực tiếp, song nghệ thuật kinh doanh, từ
việc tạo vốn ban đầu, tìm địa bàn kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, cách thức
tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh, tiếp thị sản phẩm, dịch vụ và bảo
lãnh sau bán hàng … được “thăng hoa” lên với những biểu hiện và giá trị tốt
đẹp thì kinh doanh cũng là biểu hiện sinh động văn hóa của con người.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Do đó, bản chất của văn hóa kinh doanh là làm cho cái lợi gắn bó chặt
chẽ với cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Từ đó, khái niệm về văn hóa kinh doanh
được khái quát như sau:
“ Văn hóa kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể kinh doanh
chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản
sắc kinh doanh của chủ thể đó”.
1.1.2. Vai trò của văn hóa kinh doanh .

1.1.2.1. Văn hóa kinh doanh đối với xã hội
Để biết được vai vai trò của văn hóa đối với xã hội như thế nào thì trước tiên
chúng ta nên tìm hiểu vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội như
thế nào.
* Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Có quan điểm cho rằng: sự phát triển của các quốc gia chính là sự tăng
trưởng cao về mặt kinh tế. Quan điểm này có nguồn gốc từ lý luận “quyết
định luật kinh tế” cho rằng kinh tế quy định,quyết định mọi mặt của đời sống
xã hội và vì vậy, phát triển kinh tế bằng mọi hình thức và với bất kỳ giá nào là
mục đích tối cao của các quốc gia.
Nhưng thực tế cho thấy rằng việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh
tế bằng mọi giá có những thành tựu là nhu cầu vật chất của dân cư được đáp
ứng, các thành tựu về khoa học công nghệ đã giúp con người thám hiểm được
vũ trụ, đại dương … nhưng kèm theo nó là biết bao hậu quả nghiêm trọng đe
dọa cuộc sống con người như ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh tật …
Để lập lại cân bằng giữa tự nhiên và con người, giữa tăng trưởng kinh
tế với ổn định và phát triển hài hòa trình độ phát triển của các quốc gia không
chỉ căn cứ vào sự tăng trưởng hay sự phát triển kinh tế của nó, mà thước đo
sự phát triển quốc gia căn cứ vào mức độ phát triển con người.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Như vậy, mục đích hay mục tiêu cao cả nhất của các quốc gia phải là
sự phát triển con người toàn diện, là việc nâng cao chất lượng đời sống cho
nhân dân chứ không phải là mục tiêu phát triển kinh tế hay phat triển một số
bộ phận, một số mặt nào đó của đời sống xã hội. Và văn hóa theo nghĩa rộng
nhất – nghĩa được sử dụng phổ biến – với tư cách là phương thức sống và sự
phát triển con người toàn diện – chính là mục tiêu tối thượng cho sự phát triển
của các quốc gia.
* Văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội

Động lực của sự phát triển là cái thúc đẩy sự phát triển khi bản thân sự
phát triển đó đã có, đã nảy sinh. Muốn biết những động lực của sự phát triển
xã hội cần phải tìm ra những yếu tố gây nên, kích thích, thúc đẩy sự hoạt
động của con người và trước hết là của khối đông người.
Động lực phát triển của xã hội hay của một quốc gia là một hệ thống
động lực mà trong đó văn hóa có vị trí trung tâm là cốt lõi của nó. Một số lý
do chính để văn hóa có vai trò tạo ra sự kích thích, thúc đẩy và phát triển của
các quốc gia và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung như sau:
- Thứ nhất: Văn hóa với hệ thống những thành tố của nó – bao gồm các
giá trị vật chất như máy móc, dây chuyền công nghệ, công trình kiến
trúc, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ … và các giá trị tinh thần như các
phát minh sáng kiến, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghệ
thuật âm thanh, lễ hội, sân khấu tuồng chèo kịch, nghề thủ công, ngôn
ngữ, văn chương, điện ảnh nhiếp ảnh … - chính là “kiểu sống” của
một dân tộc nhất định; nó là lối sống đặc thù và rất ổn định của dân
tộc ấy. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu
kiểu sống của dân tộc phù hợp với các yếu tố văn minh; phù hợp giữa
hiện đại với truyền thống thì văn hóa sẽ cổ vũ, tăng cường cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Trái lại, khi truyền thống không phù hợp và
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
chống lại hiện đại, khi đó văn hóa sẽ trở thành lực lượng kìm hãm
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kìm hãm sự phát triển.
- Thứ hai, văn hóa có thể trở thành nguồn lực, sức mạnh tinh thần vô
hình nhưng vô cùng mạnh mẽ đối với sự phát triển xã hội. Đây là thứ
nguồn lực tồn tại tiềm ẩn trong mỗi cá nhân cũng như cộng đồng dân
tộc. Nhưng tại thời điểm đặc biệt – khi xuất hiện nguy cơ đối với sự
tồn vong của quốc gia dân tộc – nếu nhà nước có một ý chí lớn và sự
khôn ngoan biết đánh thức, khơi dậy và phát huy sức mạnh văn hóa

thì sẽ tạo được động lực rất mạnh mẽ thúc đẩy cả đất nước đứng lên.
- Thứ ba: Các loại hình văn hóa nghệ thuật, các sản phẩm văn hóa hữu
hình và vô hình nếu được khai thác và phát triển hợp lý sẽ tạo ra sự
giàu có về đời sống vật chất và tinh thần của quốc gia, tạo động lực
thúc đẩy phát triển xã hội.
*Văn hóa là linh hồn và hệ điều tiết của phát triển
Vai trò của các nhà nước là lãnh đạo và quản lý sự phát triển kinh tế -
xã hội của quốc gia. Để thực hiện vai trò này, nhà nước phải định hướng
đường lối, kế hoạch, chính sách, mô hình và các chiến lược phát triển của
quốc gia. Trong công việc và quá trình này, văn hoá đóng vai trò là “tính
định” của sự phát triển, là nhân tố cơ bản mà nhà nước cần phải dựa vào để
tạo lập và vận hành mô hình phát triển, một kiểu quốc gia mà nó cho là tốt
nhất hay tối ưu nhất.
Nhân tố văn hóa có trong mọi công tác, hoạt động xã hội và thường tác
động tới con người một cách gián tiếp, vô hình tạo ra các “khuôn mẫu” xã
hội. Do đó văn hóa đóng vai trò điều tiết, dẫn dắt sự phát triển thể hiện ở mọi
mặt của đời sống xã hội : chính trị, hành chính nhà nước, phát triển kinh tế,
giáo dục, ngoại giao … sự định hướng và tác động của văn hóa sẽ mạnh mẽ
hơn, hiệu quả hơn nếu nhà nước tổ chức nghiên cứu tìm ra hệ thống các giá trị
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
của văn hóa dân tộc và chính thức phát huy, phát triển bản sắc của dân tộc
trong mọi mặt và quá trình phát triển xã hội.
Như vậy, văn hóa có tác động rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế
xã hội. Khi văn hóa được ứng dụng trong linh vực kinh – gọi là văn hóa kinh
doanh – thì sự tác động này còn mang ý nghĩa trực tiếp hơn. Bởi vì văn hóa
kinh doanh sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho những doanh nghiệp áp dụng. Sự
phát triển của một quốc gia bao hàm cả sự phát triển kinh tế, khi có tác động
của văn hóa kinh doanh, kinh tế có thêm bàn đạp để thúc đẩy sự tăng trưởng

đồng thời cũng tạo nên sự phát triển đối với một xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của văn hóa kinh doanh với doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là sự tổng hòa của quan niệm giá trị, tiêu chuẩn
đạo đức, triết lý kinh doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương
thức quản lý và quy tắc chế độ được toàn thể thành viên trong doanh nghiệp
chấp nhận, tuân theo. Văn hóa doanh nghiệp lấy việc phát triển toàn diện con
người làm mục tiêu cuối cùng. Cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp là tinh thần
doanh nghiệp và quan điểm giá trị của doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp đều nỗ lực xây dựng một hệ
thống quan điểm giá trị để công nhân viên chức chấp nhận, tạo ra sự hài hòa
trong nội bộ doanh nghiệp, một không khí văn hóa tích cực để phát huy thế
mạnh văn hóa của tập thể, tăng cường nội lực và sức mạnh của doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp là một giai đoạn phát triển của tư tưởng quản lý doanh
nghiệp hiện đại, thể hiện sự chuyển dịch chiến lược phát triển kỹ thuật nhằm
tạo nên những sản phẩm hàm chứa hàm lượng văn hóa cao. Bởi thế, có thể coi
văn hóa doanh nghiệp là yếu tố tối quan trọng của thực tiễn doanh nghiệp
đương đại.
Vai trò của văn hóa kinh doanh đối với doanh nghiệp vô cùng quan
trọng, nó là bàn đạp cho những bước tiến cao hơn trong hoạt động kinh
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
14
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
doanh. Sự thắng thế của bất cứ một doanh nghiệp nào không phải ở chỗ là có
bao nhiêu vốn và sử dụng công nghệ gì mà nó được quyết định bởi việc tổ
chức những con người như thế nào. Con người có thể đi lên từ tay không về
vốn nhưng không bao giờ từ tay không về văn hóa để bắt đầu kinh doanh.
Văn hoá chỉ có nền tảng chứ không có điểm mốc đầu cuối. Do vậy,
xuất phát điểm của doanh nghiệp có thể sẽ là rất cao nếu như nó được xây
dựng trên nền tảng văn hoá. Các doanh nghiệp khi xây dựng đều phải có nhận
thức và niềm tin triệt để, lúc đó văn hoá sẽ xuất hiện. Mọi cải cách chỉ thực sự

có tính thuyết phục khi nó tách ra khỏi lợi ích cá nhân, còn văn hoá doanh
nghiệp thì phải bảo vệ cho mọi quyền lợi và lợi ích của cá nhân. Văn hoá của
doanh nghiệp được thể hiện ở phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo và tác
phong làm việc của nhân viên
Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu
tố văn hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì
doanh nghiệp đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng
xã hội ngày nay thì các nguồn lực của một doanh nghiệp là con người mà văn
hoá doanh nghiệp là cái liên kết và nhân lên nhiều lần các giá trị của từng
nguồn lực riêng lẻ. Do vậy, có thể khẳng định văn hoá doanh nghiệp là tài sản
vô hình của mỗi doanh nghiệp.
Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới.
Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có
những bước tính khôn ngoan, lựa chọn sáng suốt. Không thể để xảy ra tình
trạng quốc tế hóa văn hóa doanh nghiệp, mà phải trên cơ sở văn hóa Việt
Nam để thu hút lấy tinh hoa của nhân loại, sáng tạo ra văn hóa doanh nghiệp
tiên tiến nhưng phù hợp với tình hình và bản sắc văn hóa Việt Nam.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
15
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Để phát huy ưu thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
cạnh tranh kinh tế toàn cầu, khi đối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải xem xét và kiện toàn hơn nữa vấn đề văn
hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp khi được xây dựng hoàn thiện
không những kích thích sức phát triển sản xuất mà còn có ý nghĩa quan trọng
để xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Hiện nay, việc xây dựng
văn hóa doanh nghiệp ở nước ta cần chú ý đồng bộ 5 phương diện sau:
Một là, xây dựng quan niệm lấy con người làm gốc. Văn hóa doanh
nghiệp lấy việc nâng cao tố chất toàn diện của con người làm trung tâm để

nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp, làm cho quan niệm giá trị của doanh
nghiệp thấm sâu vào các tầng chế độ chính sách, từng bước chấn hưng, phát
triển doanh nghiệp. Điều đó bao gồm các nội dung cơ bản: 1- Bồi dưỡng tinh
thần trách nhiệm của công nhân viên chức để phát huy tính tích cực, tính chủ
động của họ; 2- Bồi dưỡng quan điểm giá trị doanh nghiệp và tinh thần doanh
nghiệp để nó trở thành nhận thức chung của đông đảo công nhân viên chức và
trở thành động lực nội tại khích lệ tất cả mọi người phấn đấu; 3- Tăng cường
đào tạo và phát triển tài nguyên văn hóa trong doanh nghiệp nhằm tạo ra
không khí văn hóa tốt đẹp để nâng cao tố chất văn hóa và trình độ nghiệp vụ
của công nhân viên chức; 4- Có chế độ thưởng, phạt hợp lý, có cơ chế quản lý
dân chủ khiến cho những người có cống hiến cho sự phát triển của doanh
nghiệp đều được tôn trọng và được hưởng lợi ích vật chất xứng đáng với công
sức mà họ đã bỏ ra.
Hai là, xây dựng quan niệm hướng tới thị trường. Việc các doanh
nghiệp phải trở thành doanh nghiệp tự chủ để phù hợp với kinh tế thị trường
đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng hình thành quan niệm thị trường linh
động, sát với thực tiễn. Quan niệm thị trường bao gồm nhiều mặt như giá
thành, khả năng tiêu thụ, chất lượng đóng gói và chất lượng sản phẩm, các
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
16
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
dịch vụ sau bán hàng, các kỳ khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng… Tất cả
phải hướng tới việc tăng cường sức cạnh tranh, giành thị phần cho doanh
nghiệp của mình. Cần phải coi nhu cầu thị trường là điểm sản sinh và điểm
xuất phát của văn hóa doanh nghiệp.
Ba là, xây dựng quan niệm khách hàng là trên hết. Doanh nghiệp
hướng ra thị trường nói cho cùng hướng tới khách hàng. Phải lấy khách hàng
làm trung tâm, cụ thể: 1- Căn cứ vào yêu cầu và ý kiến của khách hàng để
khai thác sản phẩm mới và cung cấp dịch vụ chất lượng cao; 2- Xây dựng hệ
thống tư vấn cho người tiêu dùng, cố gắng ở mức cao nhất để thỏa mãn nhu

cầu của người tiêu dùng cùng với việc nâng cao chất lượng phục vụ để tăng
cường sức mua của khách hàng; 3- Xây dựng quan niệm phục vụ là thứ nhất,
doanh lợi là thứ hai. Tiến hành khai thác văn hóa đối với môi trường sinh tồn
của doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp tốt đẹp.
Bốn là, xí nghiệp trong quá trình phát triển phải tăng cường ý thức đạo
đức chung, quan tâm đến an sinh xã hội. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX vấn đề
bảo vệ môi trường, vấn đề sản xuất các loại hàng hóa tiêu dùng không độc hại
đã thành định hướng giá trị mới của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó là
một thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay, các
doanh nghiệp phát triển nhanh chóng nhưng hậu quả của sự phát triển ấy cũng
hết sức nặng nề mà biểu hiện rõ nhất là ô nhiễm môi trường và lãng phí tài
nguyên. Để khắc phục tình trạng đó, cần thông qua văn hóa doanh nghiệp
hướng tới mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững tránh được tình trạng phát
triển vì lợi ích trước mắt mà bỏ quên lợi ích con người. Định hướng của phát
triển là phải kết hợp một cách hữu cơ sự phát triển của doanh nghiệp với tiến
bộ của loài người nhằm bảo đảm sự phát triển doanh nghiệp một cách liên
tục, ổn định, hài hòa.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
17
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Năm là, xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội. Một doanh nghiệp
không những phải coi sản phẩm của mình là một bộ phận làm nên quá trình
phát triển nhân loại mà còn phải coi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp
mình là một bộ phận của văn hóa nhân loại. Doanh nghiệp đóng góp cho xã
hội không chỉ ở số lượng của cải mà còn phải thỏa mãn được nhu cầu văn hóa
nhiều mặt của xã hội hiện đại như tích cực ủng hộ, tài trợ cho sự nghiệp giáo
dục, văn hóa, xã hội, thúc đẩy khoa học - kỹ thuật phát triển và tiến bộ. Thông
qua các hoạt động nhân đạo và văn hóa này hình ảnh doanh nghiệp sẽ trở nên
tốt đẹp hơn, uy tín của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể. Đó cũng là
hướng phát triển lành mạnh, thiết thực để các doanh nghiệp đóng góp ngày

càng nhiều hơn vào công cuộc đổi mới, vì mục đích: “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã đề ra và được toàn dân ủng hộ.
1.1.2.3. Vai trò của văn hóa kinh doanh với khách hàng
“Không có khách hàng sẽ không có bất cứ công ty nào tồn tại”. Nhận định
của nhà kinh tế nổi tiếng Erwin Frand đã cho thấy vai trò của khách hàng
trong mọi hoạt động kinh doanh. Trong những thời kỳ kinh doanh suy thoái,
các doanh nghiệp đã phải đối mặt với sự sụt giảm đáng kể của doanh thu, kéo
theo việc cắt giảm nhân viên và thu hẹp quy mô dịch vụ. Tuy nhiên, điều này
thực sự không giúp doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng. Và trong lúc khó
khăn, dịch vụ lại càng phải được ưu tiên quan tâm hàng đầu: càng thu hút
được nhiều khách hàng, càng mau chóng và dễ dàng vượt qua giai đoạn
khủng hoảng.
Khi cuộc chiến giá cả gặp thất bại, các công ty thường có xu hướng
xem dịch vụ như một cứu cánh giúp họ có tạo lợi thế cạnh tranh. Nhiều nhà
tiếp thị của các công ty lớn đang quay trở lại với quan điểm “đưa dịch vụ lên
hàng đầu”. Tuy nhiên, trong khi rất nhiều công ty “bán” các dịch vụ khách
hàng hoàn hảo, thì một số công ty chỉ dừng lại ở mức độ “cung cấp”. Vấn đề
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
18
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
chính là ở chỗ có rất ít nhà tiếp thị đã từng một lần thực sự phục vụ khách
hàng của họ.
Trong kinh doanh ý kiến của khách hàng hết sức quan trọng vì sự bất
mãn của khách hàng đôi khi không bắt nguồn từ sản phẩm nghèo nàn, mà lại
nảy sinh từ những thái độ phục vụ khách hàng của nhân viên.
Nhiều cuộc nghiên cứu về khách hàng đã vén bức màn bí mật về những số
liệu khách hàng cảm thấy không thoải mái với dịch vụ của các công ty:
- 96% khách hàng không thỏa mãn không bao giờ trực tiếp phàn nàn với
nhà cung cấp.
- 90% khách hàng bất mãn sẽ không quay trở lại.

- Một khách hàng không hạnh phúc sẽ kể về điều này với 9 người khác.
Như vậy, theo những số liệu thống kê trên cho thấy rằng phần lớn khách
hàng sẽ không tự động giãi bày về nỗi thất vọng của họ đối với chất lượng
dịch vụ mà họ sẽ rời bỏ bạn và không bao giờ quay lại nữa.
Do đó, việc hỏi ý kiến khách hàng là cần thiết để nâng chất lượng dịch
vụ cũng như nâng cao doanh số bán hàng. Việc hỏi ý kiến khách hàng về mức
độ thỏa mãn cũng chứng tỏ rằng công ty đang thực sự quan tâm tới công việc
kinh doanh của mình và quan tâm tới khách hàng. Cho dù có thể chúng ta
nghe phải một số lời chỉ trích, bù lại bạn có thể thấy được những công việc
mình đang làm có đúng không và cần phải cải thiện như thế nào. Ngoài các
ích lợi trên, chúng ta sẽ còn có được nhiều ích lợi khác từ việc giao tiếp. Mỗi
cuộc giao tiếp là một cơ hội cho dịch vụ khách hàng.
Trong một nền kinh tế lành mạnh, khách hàng phải được tôn trọng,
không chỉ với nghĩa là những người trả tiền để mua hàng hoá và dịch vụ.
Doanh nhân phải có trách nhiệm đối với hàng hóa và dịch vụ và bảo vệ khách
hàng, cói đó không chỉ như nghĩa vụ hợp đồng mà còn là nghĩa vụ đạo đức.
1.1.3. Nội dung cơ bản của văn hóa kinh doanh
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
19
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Văn hóa kinh doanh là một phương diện của văn hóa trong xã hội và là
văn hóa trong lĩnh vực kinh doanh. Văn hóa kinh doanh bao gồm toàn bộ các
giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con
người được tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh doanh. Theo hướng tiếp
cận này, để tạo nên hệ thống văn hóa kinh doanh hoàn chỉnh với bốn nhân tố
cấu thành (bao gồm triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh
nhân và các hình thức văn hóa khác) chủ thể kinh doanh phải kết hợp đồng
thời hai hệ giá trị sau:
Trước hết, chủ thể kinh doanh sẽ lựa chọn và vận dụng các giá trị văn
hóa dân tộc, văn hóa xã hội… vào hoạt động kinh doanh để tạo ra sản phẩm,

hàng hóa, dịch vụ. Đó là tri thức, kiến thức, sự hiểu biết về kinh doanh được
thể hiện từ việc tuyển chọn nhân công, lựa chọn nguyên nhiên vật liệu, lựa
chọn máy móc dây chuyền công nghệ…; ngôn ngữ được sử dụng trong kinh
doanh; niềm tin, tín ngưỡng và tôn giáo; là các giá trị văn hóa truyền thống;
các hoạt động văn hóa tinh thần…
Đồng thời, trong quá trình hoạt động, các chủ thể kinh doanh cũng tạp
ra các giá trị của riêng mình. Các giá trị này được thể hiện thông qua những
giá trị hữu hình như giá trị của sản phẩm, hình thức mẫu mã sản phẩm; máy
móc, thiết bị nhà xưởng; biểu tượng, khẩu hiệu, lễ nghi, sinh hoạt, thủ tục,
chương trình, truyền thuyết, các hoạt động văn hóa tinh thần (các phong trào
văn nghệ, thể dục thể thao…). Đó còn là những giá trị vô hình như phương
thức tổ chức và quản lí kinh doanh; hệ giá trị, tâm lí và thị hiếu tiêu dùng;
giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh; chiến lược, sứ mệnh và mục đích kinh
doanh; các quy tắc, nội quy trong kinh doanh, tài năng kinh doanh…
Tuy nhiên, sự phân biệt hai hệ giá trị kể trên chỉ là tương đối, các giá trị văn
hóa dân tộc, văn hoá xã hội đã được chọn lọc và các giá trị văn hóa được tạo ra
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
20
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
trong quá trình kinh doanh không thể tách bạch, chúng hòa quyện vào nhau tạo
thành một hệ thống văn hóa kinh doanh với bốn nhân tố cấu thành là:
*Triết lý kinh doanh:
Triết lý kinh doanh bao gồm toàn bộ sứ mệnh, tôn chỉ, phương châm,
chiến lược… có vai trò định hướng trong quá trình kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh kinh doanh chỉ có thể thực hiện khi có đủ 3 yếu
tố : con người (people), sản phẩm (product), lợi nhuận (profit). Chính những
quan niệm khác nhau về ý nghĩa và vai trò của 3 yếu tố này – được thể hiên
thông qua việc sắp xếp thứ tự ưu tiên từng yếu tố - sẽ dẫn đến thái độ cách
ứng xử khác nhau trong kinh doanh. Đó dược gọi là triết lý 3p trong kinh
doanh.

Một số triết lý kinh doanh của các doanh nhân Trung Quốc đã đưa họ
đến những thành công lớn trong hoạt động kinh doanh của mình:
- Phải có những cái nhìn mới mẻ, mạnh bạo: khác với nhiều doanh
nhân ở các quốc gia khác, các doanh nhân Trung Quốc không chấp
nhận “trói mình” trong một ngành nào đó. Họ không ngần ngại thay
đổi và biết tạo ra những thành tựu kỳ diệu cũng như gây được ấn
tượng ngay trong các ngành nghề truyền thống. Wong Kwong Yu, tỷ
phú trong việc bán lẻ trực tuyến của Trung Quốc cũng có cách xâm
nhập thị trường một cách rất sáng tạo. Ông không xâm nhập vào thị
trường Bắc Kinh đã có sẵn những đối tác mạnh mà ông lại chọn
Thượng Hải, bằng cách đưa nhân sự của mình sang công ty Wong
mới thành lập có tên là GoMe Tech. Vốn thực của công ty chính là
lương năm đầu tiên trả cho các nhân viên đó. Sau 1 năm công ty mới
trả lương cho các nhân viên, với vốn góp bằng 1 năm tiên lương của
mình, các nhân viên vẫn được bảo toàn trong số vốn đầu tư đồng thời
được chia sẻ lợi nhuận khi làm ăn có hiệu quả.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
21
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
- Cẩn trọng và hiệu quả trong quản lý : Các doanh nhân Trung Quốc
thường suy tính và lựa chọn cho mình những phương thức tổ chức
quản lý rất có hiệu quả. Họ thường chú trọng vào việc quản lý theo
định hướng một cách có tổ chức, quan tâm đến các nhà quản lý, vai
trò và trách nhiệm của nhà quản lý và đặc biệt là yếu tố tài chính.
- Giàu có nhưng không hoang phí.
- Khả năng suy tính và phán đoán.
- Coi trọng yếu tố nội lực và những giá trị truyền thống
Giải trí ngoài công sở: Gần một nửa các doanh nhân cho rằng mỗi ngày
trôi qua đối với họ tại công ty hay tập đoàn là một ngày đấu tranh. Tuy nhiên,
một trong những nhân tố giúp họ không ngừng vươn tới thành công là họ luôn

biết duy trì cân bằng giữa cuộc sống và công việc
Triết lý kinh doanh là một hệ thống bao gồm những giá trị cốt lõi có tính
pháp lý và đạo lý tạo nên phong thái đặc thù của chủ thể kinh doanh và
phương thức phát triển bền vững của hoạt động này. Đôi khi triết lý kinh
doanh còn là cơ sở để các nhà quản trị đưa ra các quyết định quản lý có tính
chiến lược quan trọng trong những tình huống mà sự phân tích lỗ lãi không
thể giải quyết. Đồng thời, triết lý kinh doanh còn là phương tiện để giáo dục
và phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động kinh doanh. Vì thế, nên trong
những công ty xuất sắc của Mỹ như IBM, HB, Intel… các nhà quản trị đều có
thói quen đối chiếu triết lý kinh doanh với các dự định hành động cũng như
các kế hoạch, chiến lược trong giai đoạn xây dựng, và vấn đề đầu tiên mà các
nhân viên mới phải học là sự hòa nhập với môi trường văn hóa của công ty
với trọng tâm là triết lý kinh doanh để giá trị của công ty được truyển tải và di
truyền vào từng thành viên, tạo nên sứ mệnh và hành vi chung của toàn thể
nhân viên trong công ty.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
22
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Hình thức thể hiện của triết lý kinh doanh cũng rất khác nhau với mỗi
một chủ thể kinh doanh cụ thể. Đó có thể là một văn bản được in thành một
cuốn sách nhỏ hoặc dưới dạng một câu khẩu hiệu hoặc bào hát. Triết lý kinh
doanh cũng có thể không được thể hiện bằng các dạng vật chất mà tồn tại ở
những giá trị niềm tin định hướng cho quá trình kinh doanh. Và dù dưới hình
thức nào thì triết lý kinh doanh luôn trở thành ý thức thường trực trong mỗi
chủ thể kinh doanh, chỉ đạo những hành vi của họ.
Kết cấu nội dung của triết lý kinh doanh thường gồm những bộ phận sau:
- Sứ mệnh và các mục tiêu kinh doanh cơ bản
- Các phương thức hành động để hoàn thành được những sứ mạng và
mục tiêu- nhằm cụ thể hóa hơn cách diễn đạt được những sứ mạng và
mục tiêu.

- Quan hệ trong nội bộ đơn vị kinh doanh và quan hệ với xã hội
* Đạo đức kinh doanh
Hiện nay, các doanh nghiệp đều thiết lập cho mình những quy tắc đạo
đức riêng dựa trên các khái niệm đạo đức thương trường đã có nền móng từ
hàng ngàn năm trước.
Đạo đức kinh doanh là hệ thống các quan niệm, các quy tắc xử sự, các
chuẩn mực đức, các quy chế, nội quy… có vai trò điều tiết các hoạt động của
quá trình kinh doanh nhằm hướng đến triết lý đã định.
Viện đạo đức kinh doanh quốc tế ( International Business Ethics
Institute) ở Mỹ đã từng xác định 4 công việc mà công ty cần phải thực hiện để
củng cố và gia tăng uy tín cho thương hiệu:
- Trung thực với các nhà đầu tư và tiêu dùng.
- Cải thiện ngày một tốt hơn tình hình nội bộ hãng bằng cách gia tăng
tinh thần trách nhiệm và lợi ích của nhân viên, tăng năng suất lao
động.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
23
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
- Đánh bóng thương hiệu một cách chuyên nghiệp và thực chất.
- Xử lý một cách bài bản những việc liên quan đến cổ phiếu và tài
chính, luôn luôn nhớ rằng thương hiệu tốt không tự nhiên mà có và
lợi nhuận tăng theo đạo đức.
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của đạo đức kinh doanh là
thái độ của lãnh đạo công ty đối với các nhân viên. Theo một công trình
nghiên cứu do Tạp chí Fast Company tiến hành năm 2001, 26% số nhân viên
Mỹ tuyên bố rằng họ quan tâm thực sự tới thành công của công ty họ làm
việc; 55% đánh đồng lợi ích công ty với lợi ích của ông chủ; chỉ có 19%
không yêu công ty mà họ phục vụ, chỉ vì đối xử không thỏa đáng với nhân
viên mà đại đa số các doanh nghiệp bị mất vô ích tới hai phần ba thời gian
làm việc của nhân viên.

Hành vi kinh doanh thể hiện tư cách của doanh nghiệp và chính tư cách
ấy tác động trực tiếp đến thành bại của tổ chức. Đạo đức kinh doanh trong
chiều hướng ấy trở thành một nhân tố chiến lược quan trọng trong việc phát
triển doanh nghiệp.
Hầu hết các doanh nghiệp đều nhận thấy đạo đức trong kinh doanh là
một vấn đề quan trọng trong kinh doanh nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn lúng
túng trong việc đưa vấn đề này vào hoạt động của mình. Để thực hiện được
cần phải:
- Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo: sự quyết tâm tôn trọng các
giá trị đạo đức, cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, và
sự gương mẫu trong việc thực hiện những giá trị này của lãnh đạo sẽ
tạo niềm tin và động lực cho mọi người cùng nhau làm an chân chính.
- Xây dựng bộ quy tắc đạo đức thống nhất: Bộ quy tắc đạo đức này được
xem như là một cẩm nang hướng dẫn cho nhân viên và là cơ sở để giải
quyết các vấn đề liên quan đến đạo đức trong doanh nghiệp.
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
24
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
- Các chương trình huấn luyện về đạo đức: có thể đó là những khóa học
tập trung hay ngoài giờ, hoặc các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề,
hay thi đố vui xử lý tình huống, diễn kịch tuyên truyền, thi viết báo
tường hay vẽ tranh cổ động.
- Xây dựng các kênh thông tin: thành lập hội đồng gồm các nhân viên
thường trực và chuyên trách về đạo đức.
Hoạt động kinh doanh đòi hỏi các chủ thể phải có những hành vi phù
hợp với đạo lý dân tộc và các quy chuẩn về cái thiện và cái tốt chung của toàn
nhân loại. Do vậy, đạo đức kinh doanh sẽ góp phần phát triển mối quan hệ với
người lao động, với chính quyền, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh, với
nhà cung cấp và với cộng đồng xã hội, từ đó góp phần tạo nên môi trường
kinh doanh ổn định.

* Văn hóa doanh nhân
Văn hóa doanh nhân chính là tài năng, đạo đức và phong cách của nhà
kinh doanh. Nó có vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa kinh
doanh của chủ thể kinh doanh.
Kinh doanh là một nghề phức tạp, đòi hỏi chủ thể kinh doanh vừa có
đức vừa có tài, trong đó đức là cơ sở của tài. Hay nói cách khác thì đạo đức,
tài năng, phong cách của chủ thể kinh doanh sẽ có vai trò quyết định trong
việc hình thành văn hóa kinh doanh. Doanh nhân không chỉ là người quyết
định cơ cấu tổ chức và công nghệ kinh doanh mà còn là người sáng tạo ra các
biểu tượng, các ý thức hệ, ngôn ngữ, niềm tin, nghi lễ, huyền thoại … Do đó,
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh doanh, văn hóa của doanh nhân sẽ
được phản chiếu lên văn hóa kinh doanh.
Phong cách doanh nhân chính là sự tổng hợp các yếu tố diện mạo, ngôn
ngữ, cách cư xử và cách hành động của doanh nhân. Phong cách của doanh
nhân thường được đồng nhất với phong cách kinh doanh của họ vì nhà kinh
§ång N«ng Nh QuÕ Ng©n hµng 46Q
25

×