Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Nâng cao hiệu quả xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.07 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ QUANG HUY

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HĨA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An - 2017


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ QUANG HUY

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HĨA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƢƠNG BẰNG

Nghệ An - 2017




2
LỜI CÁM ƠN
Để hồn thành Luận văn Thạc sĩ Chính trị học này, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc đến quý Thầy (Cô) Khoa Giáo dục chính trị, phịng Sau
Đại học trường Đại học Vinh, Đại học Sài Gịn, q Thầy (cơ) trực tiếp giảng
dạy lớp Cao học chính trị học khóa 23 tổ chức tại trường Đại học Sài Gòn, đã
dạy dỗ và truyền đạt kiến thức và đam mê khoa học cho tôi trong suốt hai năm
học đã qua. Kiến thức và sự tận tụy của các Thầy (Cô) sẽ là động lực cho mỗi
học viên chúng tôi vững vàng hơn trong nhận thức và vận dụng vào thực tiễn
cuộc sống.
Cám ơn gia đình, bạn bè đã luôn ở bên cạnh và động viên, giúp đỡ tôi trong
những chặng đường đã qua và ở phía trước.
Đặc biệt, xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy PGS.TS Nguyễn Lương Bằng
đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tơi hồn thành bài
luận văn tốt nghiệp này. Cám ơn Thầy (Cô) trong hội đồng phảm biện bảo vệ đề
cương luận văn thạc sỹ tại Đại học Vinh đã chỉ bảo, góp ý tận tình để tơi khẳng
định đề tài và xây dựng một nội dung đề cương phù hợp, đến hôm nay tơi đã
hồn thành đề tài của mình. Mặc dù tác giả đã cố gắng tìm tịi nghiên cứu, học
hỏi để hồn thành đề tài của mình, nhưng do thời gian có hạn, đề tài thì đề cập
đến rất nhiều vấn đề của xã hội, và trình độ nhận thức của bản thân cịn hạn chế,
cho nên khơng tránh khỏi những thiếu sót . Rất mong sự góp ý của Thầy (Cơ) để
tác giả có hướng nghiên cứu ngày càng hoàn thiện hơn!
Xin trân trọng cám ơn!


3

MỤC LỤC

Trang phụ bìa ...................................................................................................... 1
Lời cám ơn ........................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
NỘI DUNG......................................................................................................... 10
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA .......................................... 10
1.1. Một số vấn đề chung về gia đình văn hóa ............................................. 10
1.2. Tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa hiện nay ........................................ 25
1.3. Tính tất yếu của việc nâng cao hiệu quả xây dựng gia đình văn hóa
hiện nay ..................................................................................................... 29
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 46
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HĨA Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................... 47
2.1. Đặc trưng của gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh................... 47
2.2. Hiệu quả xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh trong
thời gian qua.............................................................................................. 62
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 75
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HĨA Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH ............................................................................. 76
3.1. Phương hướng xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh .76
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả gia đình văn hố ở thành phố
Hồ Chí Minh ....................................................................................... 88
Kết luận chƣơng 3 ........................................................................................... 112
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 114
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 116


4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bất kì quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm đến vấn đề gia đình, vì
gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì các chức năng của gia đình, bảo tồn và
phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, phòng chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề gia đình và đã lấy ngày 28- 6 - 2001 là ngày gia
đình Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam trong các văn kiện đại hội Đảng luôn
khẳng định: phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
thích ứng với những địi hỏi của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc và bền vững thực sự là tổ ấm của mỗi
người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là mơi trường quan trọng hình thành, ni
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống
tốt đẹp tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề gia đình. Người
cho rằng gia đình là hạt nhân, là yếu tố cốt lõi để tạo nên sự phát triển, tiến bộ cho
xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Chính vì vậy
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý xây dựng gia đình đặc biệt trong
thời kỳ mở cửa hội nhập Quốc tế hiện nay.
Thực tế cho thấy, gia đình yên ấm hạnh phúc là điều kiện đầu tiên cho sự hình
thành, phát triển nhân cách mỗi người. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm xây
dựng gia đình, thực hiện các chức năng của gia đình. Trách nhiệm đó là của tất các
các thành viên gia đình, nhưng trước hết là vai trò của cha mẹ, đặc biệt là của người
phụ nữ, người vợ, người mẹ. Cùng với đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia
đình với giáo dục ở nhà trường, xã hội chứ không nên tuyệt đối hố giáo dục trong
gia đình mà xem nhẹ giáo dục ở nhà trường và xã hội.
Xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở kế thừa những giá trị
tốt đẹp nhất của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại


5

về gia đình. Hơn nhân tiến bộ, một vợ một chồng, xây dựng mối quan hệ bình
đẳng, u thương, có trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Xây dựng
mối quan hệ giữa gia đình và cộng đồng với các tổ chức chính trị, xã hội khác, đảm
bảo các quyền lợi cho người phụ nữ và bảo đảm sự tơn trọng lẫn nhau giữa các
thành viên trong gia đình. Dưới tác động của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đang làm
thay đổi và biến chuyển gia đình theo hướng tăng số lượng gia đình hạt nhân.
Cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam với những thành tựu quan trọng đã góp phần
vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhiều gia đình. Tuy nhiên song
song với đó, chúng ta cũng đang phải chấp nhận những biến đổi sâu sắc về cấu trúc
và chức năng của gia đình Việt Nam. Bên cạnh những thành quả là nhiều khó khăn
bất trắc đang tồn tại, gây ra sự bất ổn cho gia đình và xã hội. Lối sống thực dụng
ích kỷ, đề cao cuộc sống hưởng thụ, ... đang là nguy cơ mất đi nhiều giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Cùng với cả nước, gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng và
tác động của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự thay đổi của gia đình ở thành phố
Hồ Chí Minh đang diễn ra mạnh mẽ. Là đầu tàu kinh tế của cả nước, những thay
đổi của thành phố Hồ Chí Minh ở bất cứ lĩnh vực nào cũng tác động đến sự phát
triển của đất nước trong thời kì hội nhập. Do đó, nghiên cứu về gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh và tìm ra những giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc, bền
vững là một yêu cầu cần thiết để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
Đảng và Nhà nước. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Nâng cao hiệu
quả xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ
Chính trị học.
Gia đình là một trong những nội dung, nghiên cứu của hệ thống chính trị,
triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học, các văn kiện đại hội Đảng, hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam, hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh… Nội
dung này đã được nghiên cứu khá nhiều, nhất là trong những năm gần đây.
Chúng ta có thể chia ra thành nhóm các vấn đề:



6
Nhóm thứ nhất: Các tác phẩm viết lý luận chung về gia đình, gia đình ở
Việt Nam, thời gian qua đã thu hút nhiều nhà khoa học nguyên cứu, làm rõ vị trí,
chức năng của gia đình tiêu biểu theo hướng này, có các cơng trình.
C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;Hồ
Chí Minh (1996; Tồn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.Đặng Thị
Linh (2004), Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay, Nxb. Viện
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyên
Minh (2012), Hỏi đáp pháp luật về kết hôn, ly hôn và cấp dưỡng theo pháp luật
hơn nhân gia đình Việt Nam, Nxb. Tư Pháp; Nguyễn Tiến Vững (1999), "Chính
sách dân số - nhân tố phát triển các chức năng gia đình, góp phần xây dựng
chuẩn mực gia đình văn hóa", Khoa học chính trị; Dương Thị Minh (2004), Gia
đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb, Khoa học
xã hội, Hà Nội; Lê Thi, Với các tác phẩm Vai trị gia đình trong xây dựng nhân
cách con người Việt Nam, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, năm 1997, Gia đình Việt Nam
trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2002
;Huyền Giang (2012), Xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân
tộc; Nguyễn Đình Chú với bài viết về vấn đề Vai trò của gia tộc trong sự phát
triển văn hóa dân tộc; Phan Đại Dỗn và Nguyễn Quang Ngọc với Mối quan hệ
làng họ và gia đình truyền thống trong cơng trình Những nghiên cứu về gia
đình Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1996; Dương Thị Xuân
(2010), Hỏi đáp về chính sách dân số và xây dựng gia đình Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hồng Hà với bài viết để Nhận thức rõ hơn một số
vấn đề cơ bản trong lý luận về gia đình ở nước ta; Lê Thảo (2009), Gia đình
Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
Nhóm thứ hai: Các bài viết trên các tạp chí nghiên cứu khoa học về văn hóa
gia đình.
Kim Anh (2004), Phải nâng cao kiến thức sức khỏe sinh sản cho vị thành



7
niên, Tạp chí Gia đình và xã hội, số 109; Đỗ Thị Bình (2002), Gia đình Việt
Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Nxb Khoa học xã hội; Nguyễn Viết Bình (2003), Gia đình cội nguồn của
lịng nhân ái, Tạp chí Gia đình hạnh phúc lứa đơi, số 39; Quỳnh Châu (2004),
Những thách thức mới cho cuộc sống gia đình hiện đại, Tạp chí Gia đình và xã
hội, Số 2; Cục Thống kê thành phố Hồ chí Minh (2010), Niên giám thống kê
thành phố Hồ Chí Minh 2009, Nxb. Thống kê, Hà Nội; Cục Thống kê thành phố
Hồ chí Minh (2015), Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 2009, Nxb.
Thống kê, Hà Nội.
Nhóm thứ ba: Các luận án, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về văn hóa gia đình.
Những năm gần đây, những đề tài nghiên cứu về gia đình đã dần được quan tâm.
Mặc dù số lượng đề tài nghiên cứu chưa nhiều nhưng đã cho thấy dấu hiệu tích
cực của xã hội khi tìm tịi những giải pháp cho những tồn tại của gia đình Việt Nam.
Một số đề tài tiêu biểu có thể kể đến là: Phạm Thị Hồng Tứ ( 2013), Luận
văn thạc sỹ giáo dục “Nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa gia đình ở huyện Bố
Trạch Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay” ( Đại Học Vinh); Nguyễn Thị Lệ
(2010) Luận văn thạc sĩ luật học "Luật phòng chống bạo lực gia đình với việc
hạn chế ly hơn do bạo lực gia đình" (ĐH luật Hà Nội); Nguyễn Thị Hà Giang
(2013), luận văn thạc sĩ, “Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình dưới
tác động của q trình đơ thị hóa” (ĐH Văn hóa Hà Nội);Bùi Văn Tuấn (2010),
Đề tài nghiên cứu khoa học “Đơ thị hóa và những vấn đề xã hội vùng ven đô Hà
Nội hiện nay, trường hợp nghiên cứu xã Mễ Trì, Từ Liêm, Hà Nội” (ĐH Quốc
gia Hà Nội); Trần Thị Thu Nhung (2016), luận án tiến sĩ “Văn hóa ứng xử của
gia đình trẻ trong q trình đơ thị hóa ở Hà Nội hiện nay” (ĐH Văn hóa Hà Nội).
Những cơng trình này đã thể hiện một số nội dung về các mối quan hệ trong
gia đình của người Việt Nam nói chung. Thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hố
đang diễn ra hết sức mạnh mẽ ở các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam
chúng ta nói riêng. địi hỏi gia đình phải phát huy thế mạnh và khắc phục những tồn



8
tại của mình để đóng vai trị là tế bào của xã hội. Đó là vấn đề, nhiệm vụ của mỗi
gia đình và cũng là của tồn xã hội. Như trên đã nói, một trong những nhân tố đóng
vai trị chủ chốt góp phần vào việc thực hiện thành cơng, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì xây dựng gia đình văn hóa là điều hết sức cần thiết và quan trọng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả xây dựng gia đình văn hóa
- Phân tích thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
- Nêu một số phương hướng và đề ra một số giải pháp xây dựng gia đình
văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Gia đình, gia đình văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về gia đình.
Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu và trình bày đề tài, tác giả đã sử
dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn
dịch và quy nạp đối chiếu và so sánh, lịch sử và lôgich, … để nghiên cứu và
trình bày đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần làm rõ hiệu quả của xây dựng gia đình văn hóa ở thành phố
Hồ Chí Minh
- Ý nghĩa thực tiễn



9
Đề tài đóng góp những giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình
văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học
tập các môn khoa học xã hội, môn giáo dục công dân ở các trường Trung học cơ
sở, Trung học phổ thông.
7. Kết cấu của đề tài
- Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo
- Gồm có 3 chương 7 tiết


10
NỘI DUNG

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HĨA
1.1. Một số vấn đề chung về gia đình văn hóa
1.1.1. Khái niệm gia đình
Cho đến nay trên thế giới cũng như Việt Nam đã có rất nhiều các khái niệm
khác nhau về gia đình, chính vì vậy các tác giả có những cách hiểu và tiếp cận
khác nhau về gia đình. Gia đình là một khái niệm khơng ngừng thay đổi cùng
với sự vận động, biến đổi của xã hội. Mỗi giai đoạn lịch sử có quan niệm khác
nhau về gia đình.
Khi nghiên cứu về gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những đóng góp
rất quan trọng. Những tư tưởng chủ đạo của Ph.Ăngghen về vấn đề này được
trình bày một cách căn bản và tập trung trong tác phẩm Nguồn gốc gia đình, chế
độ tư hữu và Nhà nước viết năm 1884. Trong đó, ơng đã làm rõ nhiều vấn đề
quan trọng như nguồn gốc, vị trí và vai trị… của gia đình trên quan điểm duy

vật biện chứng về lịch sử.
Dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử, Ph.Ăngghen đã xem xét, nghiên cứu
sự phát triển gia đình trong sự phát triển của sản xuất vật chất. Ông cho rằng,
“… nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản
xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những cơng cụ cần thiết
để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra bản thân con người, là
sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại
sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác
là do trình độ phát triển của gia đình”[44, tr.44]


11
Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta thấy, trong
suốt tiến trình xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, bao giờ các ông cũng dựa
vào những tiền đề hiện thực.Những tiền đề hiện thực này thường được các ông
sử dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để nghiên cứu, mổ xẻ các quá
trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn, các xu hướng vận
động và phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được biểu hiện một cách
cụ thể qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, phạm trù con người, phạm trù
sở hữu,... Ở đây, điều đáng nói là, tất cả các phạm trù này đều có liên quan đến
phạm trù gia đình. Bởi, trong quan niệm của các ơng, gia đình là tế bào của xã
hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản
phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ
tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Và, ngược lại,
các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao động, giáo dục
và đào tạo,…. đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi hình thức
và kết cấu gia đình. Khái niệm gia đình được gắn với hơn nhân như là khái niệm
phát sinh từ chính hôn nhân, song không thể quy trực tiếp vào chế độ hơn nhân.

Gia đình địi hỏi phải có sự liên kết giữa các cá thể trong q trình thỏa mãn
khơng chỉ nhu cầu tình dục, mà cịn có cả nhu cầu ăn uống, sinh hoạt giáo dục
và tình cảm.
Đến tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845) C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra
định nghĩa về gia đình: “Hàng ngày tái tạo ra con người và đời sống của bản
thân mình, con người đã tái tạo những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [43, tr. 21] “Sự sản xuất
ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống
của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ
song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ với xã hội” [43, tr.42]
Không chỉ thế, khi nhấn mạnh vai trị của gia đình đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng,


12
thực ra, gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội,
“Với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các
quan hệ xã hội khác. “Và, theo ý nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia
đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành xã hội và khi
xã hội lồi người được hình thành thì những hoạt động của nó thường xuyên tác
động tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về cả hình thức, cấu trúc cũng như
vai trị của nó đối với xã hội. Chính vì vậy, các ơng ln địi hỏi nghiên cứu gia
đình, nghiên cứu lịch sử lồi người phải gắn liền với lịch sử của công nghiệp và
của sự trao đổi sản phẩm” [43, tr.42] Theo quan niệm này, khái niệm gia đình
được làm rõ: thứ nhất, gia đình được hình thành dựa trên hai mối quan hệ chủ
yếu là hôn nhân (vợ - chồng) và huyết thống (cha mẹ - con cái, anh chị - em
ruột, ông bà – cháu); thứ hai, gia đình xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với xã
hội loài người.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO)
đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống

và ngân sách chung” [56, tr.10] Định nghĩa này đã nhấn mạnh hai chức năng cơ
bản của gia đình là: chức nă ng kinh tế và chức năng duy trì nịi giống. Ở đây,
khái niệm gia đình dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành dựa trên quan hệ
hơn nhân và huyết thống, phản ánh mối quan hệ chung sống giữa cha mẹ, con
cái, họ hàng với nhau, đồng thời để duy trì sự bền vững của các mối quan hệ ấy
thì cần có sự đóng góp về vật chất của các thành viên.
Gia đình ln gắn liền với những đặc trưng và trình độ của một phương
thức sản xuất nhất định. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong quá trình vận động
của mình, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có những hình thức gia đình tương ứng.
Ph.Ăngghen đã tán thành với quan điểm của nhà dân tộc học người Mỹ - Mooc
gan “Gia đình là một yếu tố năng động, nó khơng bao giờ đứng ngun một chỗ,
mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình thức cao, như xã hội phát triển từ một


13
giai đoạn thấp lên giai đoạn cao” [44, tr.57] Trong quá trình phát triển của lịch
sử, gia đình đã lần lượt trải qua các hình thức từ thấp đến cao như sau:
Gia đình huyết tộc: là hình thức gia đình trong đó tất cả những người đàn
ơng và đàn bà cùng một thế hệ đều là chồng và vợ chung của nhau. Trong hình
thức gia đình này, chỉ có tổ tiên và con cháu, cha mẹ và con cái là khơng có
quyền và nghĩa vụ vợ chồng đối với nhau.
Gia đình Pu – na – lu – an: là hình thức gia đình dựa trên cơ sở quần hơn
giữa anh chị em ruột và anh chị em họ. Trong hình thức gia đình này, một số chị
em gái cùng mẹ hoặc chị em gái họ, đều là vợ chung của những người chồng
chung, trừ những anh em trai của họ ra; những người chồng đó khơng gọi nhau
là anh em nữa mà gọi nhau là “pu – na – lu – an” (bạn thân). Cũng như vậy, một
số anh em trai lấy chung nhau một số người phụ nữ làm vợ, trong đó khơng có
chị em gái của họ và những người vợ ấy đều gọi nhau là pu – na – lu – an. Nếu
bước tiến đầu tiên trong tổ chức gia đình là xóa bỏ quan hệ tính giao giữa cha
mẹ và con cái thì bước tiến thứ hai là hủy bỏ quan hệ tính giao giữa anh chị em.

Hai hình thức gia đình trên đều dựa trên cơ sở của chế độ hơn nhân quần hơn, ở
đó người ta chỉ biết chính xác mẹ của một đứa bé chứ khơng biết người cha là
ai. Vì vậy, huyết tộc chỉ được tính về bên mẹ, chỉ nữ hệ được thừa nhận. Về sau,
hôn nhân giữa những người cùng huyết thống bị cấm đốn, thay thế cho chế độ
hơn nhân ấy là gia đình cặp đơi.
Gia đình đối ngẫu: là hình thức gia đình dựa trên hơn nhân theo từng cặp
nhất định. Trong hình thức gia đình này, người đàn ơng có một người vợ chính
trong số rất nhiều vợ và đối với người vợ chính đó, anh ta là người chồng chính
trong số rất nhiều người chồng.
Chế độ mẫu quyền chỉ tồn tại trên cơ sở của một trình độ kinh tế - xã hội
thấp kém. Sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội ở thời đại đồ kim khí đã
đem lại những chuyển biến mới trong xã hội và làm thay đổi địa vị người phụ
nữ. Khi những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên dần cạn kiệt, hoạt động hái lượm


14
khơng cịn phù hợp nữa mà thay vào đó là săn bắt, thuần dưỡng súc vật, khai phá
đất đai và mở rộng diện tích trồng trọt. Khỏe mạnh, nhanh nhẹn, dũng cảm…là
bản chất vốn có của nam giới đã tỏ ra thích hợp với cơng việc này. Sự tăng lên
về của cải do lao động của nam giới tạo ra đã mang lại cho họ địa vị quan trọng
hơn trong gia đình, đồng thời là cơ sở để thúc đẩy họ phá bỏ chế độ mẫu hệ thay
thế bằng chế độ hôn nhân mới. Chế độ phụ hệ (phụ quyền) được xác lập. Chế độ
phụ quyền xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chế độ hôn nhân và gia đình một
vợ, một chồng.
Gia đình một vợ một chồng: hình thức gia đình này dựa trên hơn nhân theo
từng cặp đôi đồng cư. Theo Ph.Ăngghen, chế độ hôn nhân và gia đình một vợ
một chồng là bước tiến dài trong lịch sử, quan hệ vợ chồng đã trở nên chặt chẽ
hơn và hai bên không thể tùy ý ly dị. Tuy nhiên, thời kỳ đầu do tính chất của xã
hội, của quan hệ sản xuất quy định nên chưa có sự bình đẳng giữa hai giới,
người phụ nữ phải phục tùng vô điều kiện quyền lực của chồng. Như vậy, theo

tiến trình phát triển của lịch sử, hình thức gia đình đã trải qua hàng loạt những
biến đổi theo hướng mà quan hệ hôn nhân, lúc đầu là rất đông, về sau thu hẹp
lại, cuối cùng là một vợ một chồng “ở thời đại mơng muội, có chế độ hơn nhân
quần hơn; ở thời đại dã man, có chế độ hơn nhân cặp đơi; ở thời đại văn minh,
có chế độ một vợ, một chồng…” [43, tr.119]
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học – cơng nghệ đã làm biến
đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, quan niệm về gia đình có nhiều
thay đổi. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, đã xuất hiện các kiểu gia đình như: gia
đình kép, gia đình đơn, gia đình khơng con, gia đình khuyết thiếu, gia đình hợp
đồng, gia đình đồng tính luyến ái…Tuy nhiên, những hình thức gia đình đó
khơng phải là quy luật phổ biến đối với tất cả các nước trên thế giới. Hiện nay,
gia đình một vợ một chồng là sự lựa chọn của hầu như mọi quốc gia. Nó ln
được củng cố và thay đổi theo xu hướng bình đẳng hơn giữa các thành viên
trong gia đình.


15
Ở Việt Nam, khi bàn đến khái niệm gia đình, tùy theo góc độ tiếp cận, các
nhà nghiên cứu đã đưa ra những khái niệm khác nhau.Dưới góc độ tâm lý học,
tác giả Ngơ Cơng Hồn đưa ra định nghĩa: “Gia đình, là một nhóm nhỏ xã hội,
có quan hệ gắn bó về hơn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung các giá
trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch nhất định” [29, tr.19]
Dưới góc độ dân tộc học, nhà nghiên cứu Phạm Quang Hoan đưa ra khái
niệm: “Gia đình được thiết lập trên cơ sở những gắn bó với nhau bằng quan hệ
hơn nhân hay quan hệ thân thuộc và có một cấu trúc riêng là sự tổ chức những
sợi dây liên hệ, những mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong gia đình. Ở
đây muốn nói đến quan hệ giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ - con cái, giữa những
người anh chị em và họ hàng thân thuộc khác, những người sinh sống một nơi
nhất định và có một cơ sở kinh tế chung”[26, tr.11] Và gia đình cũng là “một tổ
chức phức tạp, chứa đựng trong nó các quan hệ xã hội – sinh học, sản xuất kinh

tế, pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ, tâm lý. Cái thiết chế xã hội này có tính độc lập
tương đối trong q trình phát triển có những mối liên hệ, quan hệ riêng và quy
luật phát triển riêng”[26, tr.12] Theo tác giả Vũ Đình Lợi, để tạo nên một gia
đình cần có đầy đủ hai tiêu chí “một là, gia đình là một tế bào tái sản xuất dân cư
(cả phương diện sinh học lẫn phương diện văn hóa xã hội) và là liên hợp những
người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân hay quan hệ thân thuộc, hai là, có
một nền tảng kinh tế chung”[41, tr.63]
Với cách nhìn, cách nghĩ của một nhà văn, trong bài viết “Một tổ hợp xinh
xắn, cân đối và mạnh mẽ”, tác giả Ma Văn Kháng cho rằng: “Gia đình là sáng
tạo của tự nhiên, kỳ diệu của con người. Gia đình, một tổ hợp đẹp, xinh xắn hài
hòa và mạnh mẽ. Gia đình cái đơn vị nhỏ nhất của xã hội lồi người, mặc những
biến động lớn nhỏ, mặc sự tan rã, có khi cả một tập thể cộng đồng lớn này khác,
vẫn cứ tồn tại và bền vững” [37, tr.45] Dưới góc độ triết học, nhà nghiên cứu
Nguyễn Linh Khiếu cho rằng: “Gia đình, đó là một nhóm xã hội gắn bó với nhau


16
bởi tình cảm và huyết thống. Nó được hình thành trên cơ sở hơn nhân và quan
hệ huyết thống có được từ quan hệ hơn nhân đó” [39, tr.59]
Tác giả Dương Thị Minh viết: “Gia đình là một nhóm xã hội gồm những
người chung sống với nhau trong một không gian sinh tồn có quan hệ tình cảm,
tình dục, huyết thống với nhau được thừa nhận bởi pháp luật hay luật tục. Họ có
trách nhiệm đạo đức với nhau, có quan hệ kinh tế, văn hóa với nhau và cùng
thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội” [49, tr.15] Với quan niệm trên,
gia đình vừa là tổ chức xã hội, vừa là một nhóm tâm lý tình cảm. Gia đình được
bắt nguồn, hình thành và tồn tại từ những người có chung quan hệ huyết thống
và quan hệ tình cảm. Quan hệ giữa họ là huyết thống, là tình cảm, là trách nhiệm
gắn bó lâu dài để cùng nhau xây dựng gia đình bền vững. Với tư cách là một tổ
chức xã hội, gia đình tồn tại cùng với các tổ chức khác để tạo nên xã hội; chịu sự
quản lý của xã hội. Cùng với những tác động về mặt kinh tế - văn hóa, gia đình

cịn bị chi phối bằng sự thừa nhận của pháp luật.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm gia đình, tùy theo
mục đích, đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học. Trong phạm vi đề tài
nghiên cứu của mình, tơi đồng ý với định nghĩa đã nêu trong giáo trình Chủ
nghĩa chủ nghĩa xã hội khoa học của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Đó là: “Gia đình là
một hình thức cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù,
được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục” [6, tr.246]
1.1.2. Khái niệm văn hóa gia đình và gia đình văn hóa
Văn hóa: Là một hiện tượng xã hội gắn liền với hoạt động của con người,
nó có mặt trong mọi lĩnh vực của đời song xã hội. từ khi con người khẳng định
mình thực sự là người thì cũng là lúc văn hóa xuất hiện.
Chính vì vậy “Văn hóa”có hàm nghĩa rất rộng và tới nay đã có rất nhiều
các định nghĩa khác nhau về văn hóa. Mỗi định nghĩa nhìn nhận và đánh giá
khác nhau về từng góc độ. Trong từ điển triết học văn hóa là một bộ phận giá trị


17
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong thực tiễn xã hội – lịch sử và
tiêu biểu trong trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa rộng
người ta quen nói về văn hóa vật chất kĩ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật
chất …và văn hóa tinh thần là khoa học, nghệ thuật, văn học, triết học… văn hóa
là một hiện tượng lịch sử phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh
tế xã hội. Ủy ban Liên hợp quốc định nghĩa “văn hóa là một tập hợp các hệ
thống đặc trưng , điều tiết hành vi và tạo điều kiện giao tiếp qua lại cho một số
đông người, thiết lập họ thành một cộng đồng đặc thù và khác biệt” [9, tr.23]
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một số quan niệm về văn hóa “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về, mặc, ăn ,ở và các phương thức sử

dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”
[45,tr. 431]
Trong định nghĩa này Hồ Chí Minh đã xác định văn hóa bao gồm những
thành quả của sự sáng tạo cả về vật chất lẫn tinh thần nhằm đáp ứng sự tồn tại và
phát triển của lồi người. Như vậy văn hóa và sáng tạo của con người là quá
trình của lịch sử, chỉ trình độ của con người. Văn hóa biểu hiện những giá trị của
xã hội, nói cách khác văn hóa là sự hiểu biết kinh nghiệm của con người được
tích lũy trong q trình hoạt động thực tiễn của xã hội.
Và khi bàn về gia đình, gia đình văn hóa chúng ta có các cách tiếp cận như
sau: Gia đình là một khái niệm rộng, từ khi xuất hiện đến nay đã có nhiều thay
đổi. Hiện nay chúng ta chính thức gọi là “gia đình văn hóa”, cịn trước đây gọi
bằng các tên gọi khác nhau như: gia đình mới, gia đình có nếp sống văn hóa, gia
đình văn hóa xã hội chủ nghĩa…. Chính vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng,
xây dựng gia đình văn hóa thực chất là văn hóa gia đình mới, xuất phát từ việc


18
kế thừa văn hóa gia đình truyền thống, nâng cao văn hóa gia đình lên một mức
cao hơn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội mới. Gia đình văn hóa có thể hiểu
khái qt là một loại hình gia đình trong đó có các mối quan hệ cơ bản của nó
được hình thành và tồn tại, phát triển hồn tồn dựa trên các chuẩn mực chung
về văn hóa với mục tiêu chung là xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc.
Xây dựng gia đình văn hóa cũng là chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và của Đảng và Nhà nước ta. Tác phẩm “ Đời sống mới trong một quốc gia độc
lập mới” viết năm 1946 Hồ Chí Minh đã rất coi trọng cơng tác xây dựng gia
đình văn hóa mới và sau này người nhắc lại trong tác phẩm “Đời sống mới trong
một nhà” Phong trào xây dựng gia đình mới bắt đầu từ những năm 1960. Bắt

đầu từ 06 gia đình ở thôn Ngọc Tỉnh, Huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên đã tự giác
xây dựng gia đình văn hóa với ba nội dung: Gương mẫu chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trọng tâm là tham gia xây dựng hợp tác xã,
xây dựng tinh thần đồn kết thơn xóm, giúp nhau trong lao động sản xuất, gia
đình về sinh ngăn nắp, gọn gàng, chi tiêu tiết kiệm. Và kể từ đó phong trào xây
dựng gia đình văn hóa mới đã được nhân rộng phổ biến khắp cả nước, nó trở
thành những tiêu chuẩn xây dựng gia đình mới ở nơng thơn. Dựa trên q trình
tổng kết thực tiễn Đảng và Nhà nước ta đã phát động các phong trào “ Xây dựng
gia đình văn hóa” năm 1986 rồi “ Xây dựng gia đình văn hóa mới” năm 1991.
Trên tinh thần đó các Đại hội VIII (năm 1996) đến Đại hội IX ( năm 2001),
Đại hội X ( năm 2006) đều nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng gia đình văn
hóa để góp phần thực hiện thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đến Đại hội XI (năm 2011) Đảng ta khẳng định “Xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách”[18,tr.77] Đó là một nhận thức, một phương hướng lớn và chính xác để
góp phần quan trọng ổn định xã hội. Những chuyển biến kinh tế xã hội to lớn và


19
sự giao lưu hội nhập quốc tế tồn diện, khơng thể khơng tác động sâu sắc đến
gia đình Việt Nam hiện nay. Để gia đình Việt Nam bền vững, là tế bào lành
mạnh của xã hội như chiến lược của Đảng, cần có sự kết hợp giữa nếp sống của
gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. Cơng việc ấy là của toàn xã hội,
nhưng trước hết là việc của mỗi gia đình, của mỗi thành viên trong gia đình
cùng có trách nhiệm vun đắp cho tổ ấm của mình để hình thành nhân cách cho
các cơng dân của xã hội.
Bên cạnh đó là các Bộ ban ngành đã góp phần đã ban hành các quy chế
khen thưởng và đồng thời cơng nhận danh hiệu “ Gia đình văn hóa”. Q trình
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế đang tạo nhiều cơ hội và điều

kiện cho các gia đình phát triển cũng như những tồn tại và hạn chế của nó. Vì
vậy ngày 21/ 2 / 2008 Ban bí thư đã có chỉ thị 49CT/TW về việc “ Xây dựng gia
đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” với mục tiêu: Ổn định
củng cố và xây dựng gia đình theo tiêu chí ít con ( mỗi cặp vợ chồng chỉ có một
hoặc hai con) ấm no bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để mỗi gia đình Việt Nam
thực sự là tổ ấm, là tế bào lành mạnh của xã hội. Thông báo số 18/ TB-BVHTTMTTƯ ngày 04/4/2003 của Bộ văn hóa thơng tin – Ban thường trực Đoàn chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam về phong trào “Tồn dân
đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”
Chương trình phối hợp số 285 CTPH/HND-VHTT ngày 14/6/2001 của Hội
nông dân Việt Nam- Bộ văn hóa thơng tin về thực hiện phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Xây dựng gia đình nơng dân văn
hóa”Chương trình phối hợp hoạt động số 684YT-DP ngày 23/1/2003 của Bộ Y
Tế- Bộ văn hóa thơng tin- Ban thường trực đồn chủ tịch Ủy ban Trung ương
mặt trận Tổ Quốc Việt Nam về việc phối hợp hoạt động đẩy mạnh chăm sóc sức
khỏe nhân dân trong phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn
hóa”.


20
Từ tổng kết những vấn đề trên chúng ta có thể khẳng định gia đình văn hóa
là giá trị tích hợp của văn hóa gia đình. Vậy khái niện “Gia đình văn hóa” được
hình thành trên cơ sở của khái niệm “Văn hóa gia đình”. Gia đình văn hóa là
một kiểu văn hóa gia đình mới một trình đơ gia đình mới ở Việt Nam. Trên cơ
sở kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống, nâng văn hóa gia đình lên một
trình độ cao hơn cho phù hợp với thực tiễn đặt ra của xã hội ngày nay. Gia đình
khơng những là gía trị văn hóa mà cịn là một thực thể văn hóa, cho nên tất cả
các quan hệ và hoạt động của gia đình đều biểu hiện đặc trưng của văn hóa con
người. Xây dựng gia đình văn hóa phải trên cơ sở định hướng những giá trị văn
hóa gia đình, và mục tiêu là phải làm thế nào để xây dựng được: gia đình hịa
thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tổ chức lao động sản xuất, kinh doanh, công tác, học

tập, nâng cao ý thức cho các thành viên trong gia đình, song gương mẫu chấp
hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giáo dục cho mọi thành
viên trong gia đình ý thức, nghĩa vụ, trách nhiêm, tình cảm… với cộng đồng.
Để có gia đình văn hóa đúng với u cầu, địi hỏi phải thực hiện một cách
nghiêm túc cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phải thực sự tơn trọng các
giá trị văn hóa gia đình, phải khai thác những giá trị văn hóa đặ biệt là các giá trị
đạo đức gia đình Việt Nam truyền thống, đồng thời học hỏi và bổ sung những
giá trị văn hóa mới, dân chủ, bình đẳng … nâng lên thành giá trị văn hóa gia
đình hiện đại, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng gia đình
văn hóa với tư cách là một hình thức gia đình kiểu mới ở nước ta, là sự kế thừa
các giá trị văn hóa truyền thống nói chung cũng như các giá trị đạo đức của gia
đình truyền thống Việt Nam nói riêng được bổ sung bởi các giá trị văn hóa hiện
đại, phù hợp với gia đình trong điều kiện của gia đình trong xã hội mới, gia đình
hiện đại mang bản sắc của Việt Nam.
1.1.3. Cấu trúc gia đình văn hóa
Nghiên cứu cấu trúc gia đình văn hố có nhiều hình thức nghiên cứu khác
nhau: Gia đình được thể hiện ở các dạng hoạt động cơ bản của gia đình. Văn hố
sinh sản, ni dạy con cái, văn hố vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất,


21
văn hoá tinh thần và hưởng thụ các sản phẩm tinh thần.
Gia đình văn hóa thể hiện ở các giá trị của gia đình như: “Các giá trị cấu
trúc các giá trị gắn với quan hệ bên trong của gia đình, các giá trị chức năng giá
trị thể hiện vai trị của gia đình đối với sự phát triển xã hội, các giá trị tâm linh
những giá trị không vụ lợi, mang tính thiêng liêng, bí ẩn…” [25, tr.228]. Sự chia
tách trên đây cũng chỉ là tương đối. Có thể thấy, gia đình văn hố ngồi yếu tố
cốt lõi là hệ giá trị, gia đình cịn được xem xét như là một tập hợp của những
biểu hiện văn hoá gắn với các mặt quan hệ và đời sống gia đình. Văn hố gia
đình vừa là sự biểu hiện giá trị trong q trình phát triển, vừa có vai trị định

hướng và mục tiêu cho sự phát triển gia đình qua mỗi thời đại lịch sử.
Ở đây, chúng ta đi vào tìm hiểu cấu trúc văn hóa gia đình được thể hiện ở
hệ giá trị của gia đình như sau:
Các giá trị cấu trúc của gia đình văn hóa:
Giá trị cấu trúc là giá trị biểu hiện các mối quan hệ bên trong của gia đình,
quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái và quan hệ anh, chị, em và
quan hệ giữa ông, bà và các cháu trong gia đình. Trước hết là mối quan hệ giữa
vợ và chồng. Các giá trị văn hóa thể hiện mối quan hệ này ở mỗi hình thái gia đình
có sự khác nhau. Ở hình thái gia đình của xã hội phong kiến, vai trị của người phụ
nữ (người mẹ) ln tuân thủ quyết định của người cha, vì lẽ vợ phải theo chồng,
luôn phụ thuộc người chồng, người vợ chỉ biết sinh đẻ, phục vụ mọi sinh hoạt trong
gia đình, nuôi dạy con.
Ngày nay trong xu thế tiến bộ xã hội, quan hệ vợ chồng được xây dựng trên
cơ sở tình u đơi lứa, hịa hợp với lối sống và văn hóa gia đình. Đảng ta đã xây
dựng chủ trương “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, làm
cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội…” [18, tr.77] Là tổ ấm của
mỗi người. “Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá
trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác” [15, tr.112] Ở Việt Nam,
quan hệ vợ chồng được “Luật hôn nhân và gia đình” xác định: Vợ chồng chung


22
thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ giữa vợ, chồng, Luật quy định: Vợ chồng bình đẳng với nhau, có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Ngồi ra Luật cịn có
những điều quy định rõ việc tơn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng,
việc tơn trọng quyền tự do, tín ngưỡng, tơn giáo của vợ chồng, việc giúp đỡ tạo
điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ
sở pháp luật nêu trên có ý nghĩa đề cao vai trị của gia đình trong đời sống xã

hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
Quan hệ cha mẹ và con cái: Là mối quan hệ hai chiều, cha mẹ đối với con
cái và con cái đối với cha mẹ. Đó là mối quan hệ mang đậm tình thương và trách
nhiệm. Cha mẹ dành cho con tình thương u, chăm lo ni dưỡng, giáo dục con nên
người trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Con đối với cha mẹ, chính là sự
ghi nhớ cơng lao sinh thành, dưỡng dục, kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ,
làm vui lịng cha mẹ từ buổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
Quan hệ giữa anh,chị, em. Là quan hệ ruột thịt trong cùng một tổ ấm mà
mỗi người đều có bổn phận, trách nhiệm đối với nhau. Trong gia đình truyền
thống cũng như trong xã hội hiện đại, quan hệ giữa anh,chị, em là quan hệ “máu
mủ ruột rà”, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, kính trên nhường dưới và gắn kết
“máu chảy ruột mềm”. Tuy nhiên ở chế độ phong kiến đề cao vai trị của con
trưởng, anh ta có quyền thay cha theo quan điểm “Quyền huynh thế phụ”,
ngược lại các em phải phục tùng anh trai hoặc chị phục tùng em trai như phục
tùng cha mẹ. Ngày nay, mối quan hệ đó cũng đã được định rõ trong Luật hơn
nhân và gia đình của nước ta hiện nay: Anh, chị em, có bổn phận thương yêu
chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, ni dưỡng nhau
trong trường hợp khơng cịn cha mẹ hoặc cha mẹ khơng có điều kiện trong nom,


23
nuôi dưỡng, giáo dục con. Như vậy, mối quan hệ này đã có phần dân chủ và
được tơn trọng nhau hơn.
Giá trị cấu trúc gia đình văn hóa cịn được biểu hiện ở quy mơ gia đình - ở
số lượng các mối quan hệ trong các hình thái gia đình và vai trị của các thành
viên của gia đình trong các hình thái đó.
Các mơ hình gia đình tiêu biểu ở nước ta hiện nay: Gia đình một thế hệ (vợ
và chồng). Gia đình hai thế hệ (Cha mẹ và các con). Gia đình ba thế hệ (Ơng bà,
cha mẹ, con cháu)

Mơ hình gia đình nhỏ: hay cịn gọi là gia đình hạt nhân bao gồm một thế hệ
(vợ chồng), hai thế hệ (cha, mẹ và con cái chưa trưởng thành), Gia đình hạt nhân
là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống. Mối quan hệ trong gia đình
là quan hệ bình đẳng, dân chủ, yêu thương nhau, có nghĩa vụ trách nhiệm giúp
đỡ nhau, ni dạy con cái và tham gia các hoạt động vì lợi ích của xã hội. Cấu
trúc gia đình hạt nhân đang là hình thái mà con người ở xã hội hiện đại ưa thích
hơn vì nó phù hợp với u cầu phát triển kinh tế xã hội và con người về nhân cách.
Mơ hình gia đình lớn (đại gia đình): thường có 3 hoặc 4 thế hệ cùng chung
sống với nhau trong một ngơi nhà. Gia đình lớn đã trở thành tập thể chủ yếu và chỗ
dựa tuyệt đối suốt cuộc đời của mỗi người. Con người bị ràng buộc trong tình nghĩa
sâu nặng và trong khuôn phép chặt chẽ của gia đình.
Về quyền quyết định hơn nhân
Trong gia đình truyền thống việc chọn vợ, chọn chồng cho các thành viên
là thuộc về cha mẹ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tiếng nói của cha mẹ có sức
mạnh to lớn, thực hiện quyết định đó là một nghĩa vụ đạo đức cao cả của con cái
và xem đó như một giá trị. Song nhiều khi có những quyết định nghiệt ngã, hũy
diệt tình yêu và thể xác con người, biến thành yếu tố phản giá tri, vơ nhân đạo.
Gia đình hạt nhân tôn trọng sự lựa chọn chồng, vợ của con cái khi đến tuổi
trưởng thành. Việc lựa chọn dựa trên tình u đơi lứa và nhu cầu chung sống gia


24
đình chính đáng của họ và quyền lựa chọn ấy ở bất cứ hình thái nào cũng là một
gia trị văn hóa đẹp đẽ của mọi thời đại.
Chức năng của văn hóa gia đình
Thực chất các giá trị chức năng của gia đình là sự biểu hiện vai trị, vị trí
của gia đình đối với các thành viên của nó và đối với xã hội. Các giá trị chức
năng của gia đình ln ln biến động theo từng thời kỳ lịch sử. Các nhà nghiên
cứu đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau, tùy theo điều kiện lịch sử xã hội, mỗi gia
đình có đầy đủ các chức năng hay khơng. Trên cơ sở tiếp cận cách nhìn xã hội

học, từ góc nhìn văn hóa hoặc chúng ta có xem xét chức năng của văn hóa gia
đình theo các nội dung cụ thể như sau:
Một là, chức năng tái sản sinh ra các thành viên mới cho gia đình và xã hội
(chức năng sinh đẻ).
Hai là, chức năng kinh tế (sản xuất ra các giá trị vật chất).
Ba là, chức năng giáo dục.
Bốn là, chức năng thoả mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên gia đình.
Năm là, chức năng tiêu dùng
Các chức năng của gia đình gắn bó với nhau một cách hữu cơ và hợp thành
hệ giá trị văn hóa gia đình, trong đó giá trị cấu trúc tương đối bền vững, cịn giá
trị chức năng có tính chất động hơn, dễ biến đổi. Vì vậy gia đình là thiết chế đa
chức năng. Thơng qua việc thực hiện các chức năng trên đây mà gia đình tồn tại
và phát triển. Đồng thời tác động đến tiến độ chung của cộng đồng (làng, xã,
khu phố…) và xã hội. Các chức năng thực hiện trong sự thúc đẩy hỗ trợ, tương
tác lẫn nhau. Dĩ nhiên việc phân chia các chức năng gia đình chỉ là tương đối. Ở
các giai đoạn lịch sử khác nhau, những nội dung của mỗi chức năng được biến
đổi phù hợp với điều kiện cụ thể, với điều kiện phát triển của xã hội. Như vậy,
văn hố gia đình ngồi yếu tố cốt lõi là hệ giá trị, gia đình cịn được xem xét như
là một tập hợp của những biểu hiện văn hoá gắn với các mặt quan hệ và đời sống
gia đình. Gia đình văn hố vừa là sự biểu hiện giá trị trong quá trình phát triển,


×