Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện quyết sách chính trị trong quá trình phát triển kinh tế xã hội tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 109 trang )

01

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN LÊ VÂN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYẾT SÁCH
CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2017


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN LÊ VÂN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYẾT SÁCH
CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Cán bộ hướng dẫn: PGS. TS. Đinh Thế Định

Nghệ An , 2017


2

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt khóa học ở trường, để đạt được kết quả như ngày hôm nay, em
xin chân thành cảm ơn q thầy cơ giáo Khoa Giáo dục Chính trị và Phòng Đào
tạo Sau đại học thuộc Trường Đại học Vinh, cũng như Trường Đại học Sài Gòn.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS.
TS. GVCC. Đinh Thế Định.
Em cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình, sự giúp
đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng nghiệp tại Sở Thông tin và Truyền Thơng
tỉnh Bình Phước, tập thể Lớp Chính trị học K23, trong suốt quá trình học tập và
viết Luận văn.
Cuối cùng, em xin gửi tới các Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà khoa học, các bạn
đồng nghiệp lời cảm ơn sâu sắc nhất.

Tác giả

Nguyễn Lê Vân


3

MỤC LỤC
Trang

TRANG BÌA PHỤ ................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 2
MỤC LỤC ............................................................................................................. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................... 4
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
B. NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chương 1 ............................................................................................................. 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUYẾT SÁCH CHÍNH TRỊ
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.............................. 10
1.1. Quyết sách chính trị và các đặc trưng cơ bản của quyết sách chính trị ....... 10
1.2. Cơ sở khoa học và điều kiện xây dựng quyết sách chính trị........................ 13
1.3. Quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị trong q trình
phát triển kinh tế - xã hội ................................................................................... 19
Chương 2 ............................................................................................................. 37
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYẾT SÁCH CHÍNH TRỊ Ở TỈNH BÌNH
PHƯỚC ............................................................................................................... 37
2.1. Các yếu tố tự nhiên và tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Bình Phước ảnh
hưởng đến quyết sách chính trị của tỉnh ............................................................. 37
2.2. Đánh giá về thực hiện quyết sách chính trị trong q trình phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Bình Phước ..................................................................................... 51
Chương 3 ............................................................................................................. 78
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
QUYẾT SÁCH CHÍNH TRỊ Ở TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY .................. 78
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện quyết sách chính trị trong phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước ......................................................................... 78
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyết sách
chính trị ở tỉnh Bình Phước hiện nay .................................................................. 84
C. KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
D. DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................ 104
E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 105



4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ cái viết tắt

Chữ viết

1

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

2

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4


HCM

Hồ Chí Minh

5

KTTT

Kinh tế thị trường

6

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

7

MTQG

Mục tiêu quốc gia

8

NQĐH

Nghị quyết đại hội

9


NTM

Nơng thơn mới

10

PCTN

Phịng chống tham nhũng

11

UBND

Ủy ban nhân dân

12

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đánh giá: Ba mươi năm đổi mới là một
giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự

trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là q trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để,
là sự nghiệp cách mạng to lớn của tồn Đảng, tồn dân vì mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nhìn tổng thể, “qua 30 năm đổi
mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [13, tr.
65]. Chứng minh giá trị định hướng và chỉ đạo có ý nghĩa to lớn của Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991, bổ sung, phát
triển năm 2011), đồng thời cũng thấy rõ những vấn đề mới đặt ra cần giải đáp.
Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước Việt
Nam theo định hướng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn. Một trong những bài học kinh
nghiệm để đạt kết quả đó, được Đảng ta khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX là: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công
của sự nghiệp đổi mới”, con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những
kinh nghiệm bài học đúc kết từ thực tiễn đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để
đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Tất cả
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân. Đường lối của Đảng và quyết sách chính trị giữ vai trị hết sức
to lớn, quyết định tiến trình phát triển của đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện
nền kinh tế thế giới đang trong thời kỳ khủng hoảng và kinh tế Việt Nam đang
gặp khơng ít khó khăn, thời kì tồn cầu hố kinh tế và người dân ta thường gọi


6

là “thời buổi kinh tế thị trường”, điều này nói lên rằng kinh tế hiện nay có vai trị
vơ cùng quan trọng đối với tình hình chính trị xã hội hiện tại và việc quản lý tốt
nền kinh tế hiện tại để cho đất nước không rơi vào khủng hoảng là nhiệm vụ

quan trọng của chính trị Việt Nam. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện quyết
sách chính trị đối với việc phát triển kinh tế - xã hội là công việc được Đảng ta
rất quan tâm, nhằm phát triển kinh tế và giải quyết tốt những vấn đề xã hội nảy
sinh trong quá trình xây dựng đất nước với một nền dân chủ hiện đại.
Sau 20 năm tái lập tỉnh (01/01/1997 – 01/01/2017), tỉnh Bình Phước đã tích
cực góp phần xây dựng quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách
chính trị của Đảng về phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Tỉnh đã phát huy
những ưu thế và khắc phục khó khăn để địa phương phát triển ngày càng bền
vững hơn. Tuy nhiên, việc xây dựng quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện
quyết sách chính trị của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cịn có
những hạn chế nhất định: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng,
chưa giải quyết được tình trạng ơ nhiễm môi trường, chưa đảm bảo tốt an sinh
xã hội cho người lao động… Những hạn chế này cần nhanh chóng được khắc
phục, giải quyết kịp thời để tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của tỉnh
Bình Phước và công cuộc xây dựng đất nước, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được yêu cầu đó rất cần
những quyết sách chính trị đúng đắn, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và tổ chức thực hiện có hiệu quả cao. Xuất phát từ u cầu cấp bách đó,
tơi thực sự quan tâm tới vấn đề này, bởi vì, nó giúp cá nhân khơng những nâng
cao nhận thức mà cịn có tầm nhìn khoa học hơn. Do vậy, tôi chọn vấn đề
“Nâng cao hiệu quả thực hiện quyết sách chính trị trong q trình phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước”, để làm đề tài luận văn Cao học Thạc sỹ,
chuyên ngành Chính trị học.
Vấn đề Quyết sách chính trị đã được các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác
nghiên cứu và đưa ra nhiều luận giải. Gần đây, trên các tạp chí, các nhà xuất bản


7

cũng như tại các Trường đại học, các Viện nghiên cứu đã có nhiều học viên cao
học và nghiên cứu sinh nghiên cứu, như:

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc (1999), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
PGS.TS. Nguyễn Hữu Đổng và TS. Ngô Huy Đức (2011), Nhận thức khái niệm
“Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền” theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí
Xây dựng Đảng; PGS, TS. Trần Đình Thảo (2011), Giáo trình Chính trị học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Quang (2014), “Tính chính đáng
của Đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ; Nguyễn Thế Nghĩa
(2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng;
GS.TS Vương Đình Huệ (2015), Những thành tựu nổi bật về kinh tế của Việt
Nam sau 30 năm đổi mới, Ban Kinh tế Trung ương.
Ths Nguyễn Thị Bích Thủy (2005), Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng - Nhân tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay, Tạp chí Triết học; Ths Lê Thị Anh Đào (2009), “Khái niệm quyết sách
chính trị dưới góc độ nghiên cứu của chính trị học”, Tạp chí Khoa học chính trị;
Ths Lê Văn Anh (2009), “Những biện pháp cơ bản xây dựng quyết sách chính
trị”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận; Nguyễn Phước Bình (2011), “Quyết sách chính
trị trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Bình
Dương”; PGS.TS. Đinh Thế Định (2015), Giảng dạy các môn Lý luận Chính trị
ở trường Đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế; Thủ tướng Chính phủ
(2014), Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; T. Đồng
(2017), Những Quyết sách “đòn bẩy”, Báo Bình Dương điện tử.
Phạm Thắng (2013), Quyết sách của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn vùng Đồng bằng sơng Cửu Long, Tạp chí Cộng sản; Ngun Linh – Trần
Lê Tuấn (2014), Tập trung vào các quyết sách kinh tế, Báo điện tử Chính phủ;
Nhật Thanh (2014), Bình tâm, vững chí để có những quyết sách đúng đắn về


8


tình hình Biển Đơng; Thanh Hà Thủy (2016), Nhiều Quyết sách phát triển kinh
tế - xã hội, Báo Công thương; Nguyễn Quỳnh (2016), Chính Phủ quyết sách kịp
thời để duy trì tăng trưởng kinh tế 2016, Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam;
PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà, Nhìn vào lịng dân để có quyết sách đúng, Báo tuổi
trẻ điện tử; Văn phòng Trung ương Đảng (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ
trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao
chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhìn chung các cơng trình đã nêu là nguồn tư liệu rất quý báu cũng như
giúp cho tôi về phương pháp luận tiếp cận và nghiên cứu vấn đề trong quá trình
viết luận văn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhiều cơng trình về quyết
sách chính trị ở tỉnh Bình Phước hoặc nghiên cứu về Bình Phước. Điều đó vừa
là khó khăn nhưng cũng đã đặt ra trách nhiệm cho tôi khi tiến hành nghiên cứu
vấn đề này.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết sách chính trị, vai trị
của quyết sách chính trị trong sự nghiệp đổi mới đất nước, quá trình phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải
pháp nhằm phát huy tính năng động, nâng cao hiệu quả thực hiện quyết sách
chính trị đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Phước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quyết sách chính trị và tiêu chí đánh giá hiệu quả
thực hiện quyết sách chính trị trong phát triển kinh tế - xã hội.
Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình thực hiện quyết sách chính trị đối
với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Phước.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyết sách
chính trị đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Phước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



9

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình xây dựng, thực hiện và vai trị, tác động của quyết sách chính trị
đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của tỉnh Bình
Phước nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những yếu tố có liên quan đến q trình xây dựng, thực hiện quyết sách
chính trị và vai trị, tác động của quyết sách chính trị đối với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Phước, các số liệu từ thực tiễn của tỉnh Bình Phước từ năm
2010 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về xây
dựng, thực hiện quyết sách chính trị và tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện
quyết sách chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn sử dụng các phương pháp như: phương pháp thống nhất giữa lịch
sử - logic; phương pháp thu nhập và phân tích số liệu, phương pháp đọc và tổng
hợp các tài liệu có liên quan; phương pháp so sánh v.v…
6. Những đóng góp mới của đề tài
Góp phần nâng cao nhận thức về quá trình xây dựng, triển khai thực hiện
và vai trò, tác động của quyết sách chính trị trong q trình phát triển kinh tế xã hội.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan Đảng,
chính quyền và các tổ chức chính trị- xã hội ở tỉnh Bình Phước.
Đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên và các bạn
học viên cao học chuyên ngành chính trị học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 7 tiết.



10

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUYẾT SÁCH CHÍNH TRỊ
TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Quyết sách chính trị và các đặc trưng cơ bản của quyết sách chính trị
1.1.1. Quyết sách chính trị
Chính trị xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, đối kháng giai
cấp và có nhà nước. Chính trị ra đời đã có một vai trò đặc biệt quan trọng trong
đời sống xã hội, những vấn đề chính trị ln được các nhà tư tưởng chú tâm
nghiên cứu.
V.I. Lênin một trong những vị lãnh tụ thiên tài của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, cho rằng: Cái quan trọng nhất trong chính trị là tổ chức chính
quyền nhà nước. Chính trị là sự tham gia vào các công việc nhà nước, định
hướng nhà nước. Bất kỳ hoạt động xã hội nào cũng mang tính chính trị, như việc
giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, với vấn đề quyền
lực.
Do tính chất phong phú, đa dạng và phức tạp của chính trị đồng thời xuất
phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau về lĩnh vực chính trị cho đến nay
vẫn còn những quan niệm khác nhau về chính trị.
Các tác giả cuốn “Từ điển triết học” đã đưa ra định nghĩa: “Chính trị, theo
nghĩa của nó, là những công việc nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những
quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt
nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [48, tr. 319].
Trong cuốn sách “Khoa học mới về quyết sách quản lý” của Herbert
A.Simon là đại diện chủ yếu của lý luận quyết sách thuộc khoa học hành vi và là
một giáo sư đại học ở Mỹ, đã phân tích: Trên thực tế, trước khi bắt đầu bất cứ
cơng việc gì, người ta đều phải tiến hành quyết sách trước tiên. Bất kỳ công việc



11

quản lý nào do các nhà quản lý tiến hành đều có vấn đề quyết sách. Quyết sách
là hoạch định kế hoạch, là lựa chọn một trong hai phương án hành động đã được
chuẩn bị, là thiết lập cơ cấu tổ chức, phân định quyền hạn và nghĩa vụ; so sánh
tình hình thực tế với kế hoạch, lựa chọn phương pháp kiểm tra. Điều đó có nghĩa
là quyết sách phải quán xuyến các mặt của kế hoạch, tổ chức, điều khiển. Hơn
nữa, cán bộ quản lý các cấp của tổ chức đều phải tiến hành quyết sách. Cán bộ
quản lý ở bậc cao nhất là người quyết định mục đích và phương châm chung của
tổ chức. Cán bộ quản lý cấp cơ sở là người bố trí, sắp xếp cơng việc hàng ngày
để thực hiện mục tiêu và kế hoạch của bộ phận; thậm chí mỗi cơng nhân trong
q trình làm việc cũng cần lựa chọn đối tượng lao động, công cụ lao động,
phương pháp lao động. Trong lịch sử nhân loại vấn đề quyết sách đã được sử
dụng nhiều, đặc biệt là đối với các vĩ nhân, lãnh tụ trong quá trình lãnh đạo quần
chúng, thực hiện mục tiêu, ý chí của mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quyết sách chính trị là những
quyết định chính trị có khả năng định hướng, điều chỉnh hành vi chính trị của
chủ thể, dự báo khuynh hướng phát triển của xã hội. Vì vậy, quyết sách chính trị
có vai trị làm tiền đề cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội.
Quyết sách chính trị là quyết định của một tổ chức lãnh đạo hệ thống (hay
phong trào) chính trị vạch ra đường lối, xác định quan điểm, đề ra chủ trương,
hoạch định chính sách hoạt động chính trị cho cả hệ thống hay phong trào đó,
trong những cuộc vận động chính trị nhất định, dưới các hình thức cơ bản như:
cương lĩnh, đường lối, nghị quyết chính trị của Đảng.
Việc xây dựng quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách chính
trị được qui định một cách khách quan gắn bó hữu cơ với chức năng lãnh đạo
của Đảng. Thực tế lịch sử nhân loại đã cho thấy nơi nào, đảng cầm quyền nào đề
ra được quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách đúng, nhận thức
đầy đủ vai trò của quyết sách chính trị thì đó sẽ là bước quyết định cho thắng lợi

của cách mạng.


12

Trong đời sống xã hội ta thường gặp các quyết định chính trị với các hình
thức khác nhau như: cương lĩnh, đường lối, sách lược của Đảng; các quyết định
pháp lý của nhà nước (dưới hình thức hiến pháp, luật và các quyết định hành
chính khác…), các nghị quyết, chủ trương các khẩu hiệu hành động của các
đoàn thể, tổ chức quần chúng… Trong số nghị quyết của các tổ chức chính trị
thì nghị quyết của các chính Đảng là quan trọng nhất, ở nước ta đó là nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, nghị quyết của Đảng có 2 loại cơ bản:
Một là, các nghị quyết mang tính nội bộ của Đảng như nguyên tắc, điều lệ,
thành lập hoặc xóa tên một tổ chức v.v… đây khơng phải là quyết sách.
Hai là, những quyết định về kế sách chính trị của Đảng, nó là những quyết
định, qui định hoạt động của Đảng, đường lối tổ chức và hoạt động của nhà
nước, khuynh hướng vận động của xã hội. Đây là các lĩnh vực có thể sử dụng
nhiều quyết sách chính trị.
Quyết sách chính trị được thể hiện dưới hình thức các chủ trương và chính
sách mang tầm vĩ mơ, mang định tính và nó tác động liên quan đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Chúng ta cần phân biệt quyết định chính trị và quyết sách
chính trị, đây là hai khái niệm khơng hồn tồn đồng nhất với nhau mặc dù
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa quyết sách chính trị
và quyết định chính trị là quan hệ giữa cái tồn thể và cái bộ phận. Quyết sách
chính trị trước hết là quyết định chính trị, nhưng khơng phải mọi quyết định
chính trị đều là quyết sách chính trị. Bởi vì, quyết sách chính trị là một loại
quyết định đặc biệt, có vai trị tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyết sách chính trị cịn đề ra con đường, biện
pháp và những bước đi cụ thể cho từng giai đoạn cách mạng để từ đó tránh được

bệnh hữu khuynh và tả khuynh. Như vậy, quyết sách chính trị luôn là tiền đề,
kim chỉ nam định hướng cho mọi hoạt động của đời sống xã hội.


13

Xuất phát từ vai trò quan trọng nêu trên, trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Đảng đã xác định phải “phát huy vai trò làm chủ, tinh
thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực, của nhân dân; phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” [13, tr. 69] tham gia xây dựng đường lối, chủ
trương, quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyết sách chính trị
Thứ nhất, quyết sách chính trị là những quyết định chính trị quan trọng.
Thứ hai, tính chất quan trọng của quyết sách chính trị thể hiện khả năng
định hướng, điều chỉnh hành vi chính trị của các chủ thể, làm tiền đề cho mọi
hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội.
Thứ ba, quyết sách chính trị có phạm vi bao qt rộng, ảnh hưởng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến vận mệnh của hàng triệu con người.
Thứ tư, chủ thể ban hành quyết sách chính trị có thể là Đảng chính trị, là
Nhà nước.
Thứ năm, hình thức phổ biến của quyết sách chính trị là đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng, hiến pháp, luật của Nhà nước.
Như vậy, quyết sách chính trị là những quyết định chính trị quan trọng, có
khả năng điều chỉnh hành vi chính trị của các chủ thể, do Đảng và Nhà nước ban
hành, có phạm vi bao quát rộng, làm tiền đề cho mọi hoạt động trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng.
1.2. Cơ sở khoa học và điều kiện xây dựng quyết sách chính trị
1.2.1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng và thực hiện quyết sách chính trị
1.2.1.1. Vận dụng phép biện chứng duy vật vào quá trình xây dựng và tổ chức

thực hiện quyết sách chính trị
Biết phân tích và đánh giá tồn diện, chín chắn tương quan lực lượng giữa
các giai cấp, khuynh hướng quan hệ qua lại giữa các giai cấp; Biết nhìn thấy mặt


14

mạnh và mặt yếu của mọi lực lượng. Chỉ trên cơ sở đó mới tiến hành một chính
trị hiện thực.
Biết phân tích và vận dụng những mâu thuẫn thực tế giữa các giai cấp hay
bên trong giai cấp; Biết chú ý tới sự phù hợp về những lợi ích nào đó giữa các
giai cấp nhất định. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể xác định được hướng tấn cơng
chủ yếu, bạn đồng minh lâu dài và tạm thời.
Khả năng xây dựng một sách lược đấu tranh mềm dẻo, duy nhất đúng; Biết
nhanh chóng thay thế các hình thức đấu tranh; Điều chỉnh đường lối chính trị
phù hợp với sự thay đổi của hồn cảnh và kinh nghiệm chính trị đã được tích
lũy, biết sử dụng tất cả các khả năng thực tế để giành thắng lợi.
Biết dựa vào cuộc sống để lựa chọn phương án tối ưu, biết đạt được sự nhất
trí của nhân dân đối với những Nghị quyết của Đảng. Điều đó liên quan tới nghệ
thuật tổ chức và tuyên truyền.
Việc quán triệt những yêu cầu cơ bản của phép biện chứng duy vật vào xây
dựng cũng như tổ chức thực hiện quyết sách chính trị là một trong những nhân
tố cơ bản cho phép hình thành những quyết sách chính trị đúng đắn.
Đương thời C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần soạn thảo ra những quyết
sách đúng cho giai cấp vô sản, để đưa phong trào công nhân từ tự phát thành tự
giác, từ thắng lợi trong kinh tế đến thắng lợi chính trị, tạo tiền đề cho cuộc chiến
đấu có ý nghĩa quyết định nhằm giải phóng triệt để giai cấp cơng nhân và xã hội
nói chung. Đạt được kết quả như vậy, là nhờ luôn luôn quán triệt phương pháp
luận duy vật biện chứng vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách
chính trị của giai cấp vô sản. Nêu lên cống hiến đó, V.I. Lênin đã từng viết:

“Vận dụng phép biện chứng duy vật vào chính sách và sách lược của giai cấp vơ
sản, đó là điều mà Mác và Ăngghen chú ý nhất, đó là cống hiến căn bản nhất của
hai ông” [21, tr. 247].
Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng và tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị vì:


15

Quyết sách chính trị giúp hiểu được nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng
và quá trình xã hội, giúp phát hiện những mâu thuẫn, những động lực của sự
phát triển xã hội. Nhờ đó có thể xác định được chiều hướng chung của sự phát
triển lịch sử, xác định được vai trò và thái độ của lực lượng chủ yếu. Tất cả
những cái đó tạo thành cơ sở xuất phát để xây dựng và tổ chức thực hiện quyết
sách chính trị.
Phép biện chứng duy vật giúp cho giai cấp vô sản cách mạng giải quyết
một cách khoa học mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện. Trong khi kiên trì
mục tiêu về quyết sách thì phải linh hoạt thay đổi phương pháp, phương tiện
hoạt động tùy thuộc điều kiện khách quan vốn luôn luôn thay đổi.
Phép biện chứng duy vật cho phép phân định rõ ràng ranh giới tính ngun
tắc với chủ nghĩa giáo điều, bệnh rập khn máy móc, giữa tính linh hoạt cách
mạng với chủ nghĩa xã hội, xét lại.
Cuộc sống đã xác nhận tính đúng đắn trong lời tiên đoán sau đây của V.I.
Lênin: Chỉ có Đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm trịn vai trị của chiến sĩ tiên phong. “Lý luận tiên phong” mà V.I.
Lênin nói ở đây khơng có gì khác hơn là chủ nghĩa Mác, trong đó chủ nghĩa duy
vật biện chứng là cơ sở triết học của nó. Nắm vững triết học của chủ nghĩa Mác,
lấy đó làm cơ sở và phương pháp luận xuất phát cho việc xây dựng quyết sách
chính trị là điều kiện bảo đảm thắng lợi cho cách mạng. Điều đó giải thích vì sao
trong khi khẳng định tầm quan trọng của cách mạng vô sản, V.I .Lênin lại khẳng

định rằng: “Những người mácxít chắc chắn là chỉ mượn của học thuyết Mác
những phương pháp quý báu mà nếu khơng có nó thì khơng thể hiểu được
những quan hệ xã hội” [22, tr. 179]. Đương thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho
rằng, chúng ta nắm vững chủ nghĩa Mác- Lênin là nắm vững phương pháp xử lý
mọi việc và đối xử với mọi người.
Trong số “Những phương pháp quý báu” do triết học duy vật biện chứng
đem lại, cái có ý nghĩa bao trùm là phép biện chứng giữa khách quan và chủ


16

quan, khoa học và cách mạng. Mối quan hệ đó phải trở thành cơ sở phương pháp
luận đầu tiên để xây dựng và tổ chức thực hiện mọi quyết sách chính trị.
Quyết sách chính trị biểu hiện ý chí của Đảng và nhân dân trong việc thay
đổi tự nhiên và xã hội. Tổ chức thực hiện quyết sách biểu hiện ý chí và khả năng
của các cấp lãnh đạo hiện thực hóa quyết sách đó trong thực tiễn cuộc sống. Tất
cả những cái đó thuộc vào phạm trù nhân tố chủ quan của quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng XHCN, bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và
khách quan, song khách quan ln là tính thứ nhất so với nhân tố chủ quan. Các
quyết sách có biến thành hiện thực hay không, mức độ hiệu quả tổ chức thực
hiện các quyết sách đó ra sao … tất cả đều tùy thuộc một cách quyết định vào sự
phù hợp của chúng với điều kiện khách quan, quy luật khách quan của sự thay
đổi xã hội. Bởi vậy, trong khi khơng một chút nào coi nhẹ vai trị của tình cảm
trong quá trình cách mạng, V.I. Lênin đã từng nói: “Người ta khơng thể dựa trên
tình cảm cách mạng mà định ra một sách lược cách mạng được. Khi định ra sách
lược, phải trầm tĩnh, phải hết sức khách quan” [22, tr. 452]. Quán triệt tư tưởng
đó, trong cương lĩnh của Đảng ta cũng khẳng định “Mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tơn trọng quy luật khách quan”
Quyết sách chính trị không chỉ đề ra mục tiêu thay đổi hiện thực mà còn đề cập
tới những phương pháp chủ yếu để thực hiện những thay đổi đó. Phương pháp

hành động để hiện thực hóa quyết sách phụ thuộc vào phạm trù nhân tố khách
quan. Nhưng mọi phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện quyết sách chính trị
chỉ có hiệu quả khi nó phù hợp với thực tế khách quan.
1.2.1.2. Quyết sách chính trị và cách thức tổ chức thực hiện phải xuất phát từ
hiện thực khách quan
Các quyết sách chính trị đều nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể do thực
tiễn đề ra. Những vấn đề như vậy không chỉ khác nhau ở cấp độ bao quát về
phạm vi tác động, về mục tiêu, về ý nghĩa của nó đối với sự phát triển mà cịn
khác nhau về điều kiện nảy sinh cũng như thời điểm giải quyết.


17

Tính đa dạng của vấn đề quyết định tính đa dạng, phong phú của các quyết
sách và sự khác nhau trong phương thức tổ chức thực hiện chúng.
Tính cụ thể của quyết sách chính trị và phương thức thực hiện chỉ đạt được
khi chủ thể cách mạng có tinh thần sáng tạo, tinh thần đó là một trong những
yếu tố tạo thành bản chất cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin của giai cấp
công nhân và của cách mạng vô sản nói chung.
Bản chất sáng tạo đó biểu hiện tập trung ở chỗ: trên cơ sở phân tích tình
hình cụ thể của sự vật trong thời gian nhất định, biết đề ra những quyết sách
đúng đắn, trong đó, một mặt bảo đảm sự chi phối của những vấn đề có tính quy
luật chung; mặt khác, thể hiện được tính đặc thù của đối tượng mà quyết sách sẽ
phát động, như vậy, bản chất sáng tạo rất xa lạ với chủ nghĩa giáo điều (bao gồm
giáo điều lý luận lẫn giáo điều về kinh nghiệm) sự sáng tạo chân chính khơng
loại trừ mà còn đòi hỏi phải thận trọng và sử dụng hiệu quả những luận điểm lý
luận chung, những kinh nghiệm quý báu do lịch sử để lại như là một trong
những cơ sở quan trọng để xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị.
Vận dụng phép biện chứng giữa cái riêng và cái chung vào quá trình xây
dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị đòi hỏi phải thấy rằng: mọi quyết

sách và phương thức tổ chức thực hiện đều chỉ thực hiện hóa thông qua hoạt
động cụ thể của các ngành, các địa phương và cơ sở khi đó mọi quyết sách đều
biểu hiện ra thành cái đặc thù cả về nội dung và phương thức thực hiện. Nắm
vững phép biện chứng, đó là cơ sở cho sự sáng tạo trong cách mạng, bởi vì, sự
sáng tạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị khơng gì khác
hơn là tìm ra hình thức biểu hiện cụ thể của những cái gì chung trong từng
trường hợp riêng biệt. Nhờ đó, một mặt, có thể giải đáp đúng vấn đề cụ thể của
ngành, của địa phương đặt ra; Mặt khác, xác định được các cách thức, phương
pháp hoạt động thích hợp nhằm hiện thực hóa những chủ trương trong từng
trường hợp riêng lẻ.


18

Trong xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị cịn phải xuất
phát từ mâu thuẫn nội tại của sự vật. Ở đây, việc nắm vững mâu thuẫn cơ bản là
cơ sở xây dựng đường lối chiến lược cách mạng, nắm vững những mâu thuẫn
chủ yếu ở từng thời kỳ, trên từng lĩnh vực, trong từng địa bàn … là cơ sở để xây
dựng nghị quyết.
Khi khẳng định: ở từng giai đoạn phát triển trong từng lúc, sách lược với
giai cấp vơ sản phải tính đến biện chứng khách quan của xã hội, V.I. Lênin cũng
chỉ ra rằng, tính biện chứng của sự phát triển xã hội diễn ra trong mâu thuẫn và
thông qua các mâu thuẫn. Xây dựng quyết sách chính trị, phải xuất phát từ biện
chứng khách quan, điều đó cũng có nghĩa là phải xuất phát từ mâu thuẫn của nó.
Mục tiêu của mọi quyết sách chính trị khơng gì khác hơn là nhằm thay đổi xã
hội theo hướng tiến bộ, điều đó khơng thể thực hiện được, nếu không phát hiện
đúng những mâu thuẫn khách quan hiện đang tồn tại, xác định phương hướng
phát triển những lực lượng, những biện pháp và phương tiện cơ bản để giải
quyết chúng.
Toàn bộ nghệ thuật lãnh đạo và quản lý như V.I. Lênin nói “là ở chỗ phải

biết kịp thời tính tốn và nhìn rõ đâu là nơi cần tập trung những lực lượng chủ
yếu và sự chú ý của mình” [20, tr. 423]. Để xác định được những khâu trung tâm
như thế, cần phát hiện ra những mâu thuẫn chủ yếu trong từng thời kỳ, ở từng
ngành từng địa phương. Tất cả những quyết sách cụ thể ở từng cấp là nhằm giải
quyết những mâu thuẫn như vậy một cách đồng bộ, có bước đi phù hợp; Tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả
những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
1.2.2. Điều kiện xây dựng quyết sách chính trị
1.2.2.1. Điều kiện khách quan
Thứ nhất, Những nhân tố khách quan được sử dụng làm cơ sở hình thành
quyết sách chính trị phải là những nhân tố phản ánh quy luật khách quan được


19

lựa chọn qua nhận thức chủ quan của chủ thể. Tơn trọng qui luật khách quan là
một bài học có tính nguyên tắc khi hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách. Những nhân tố khách quan là cơ sở hình thành quyết sách chính trị.
Thứ hai, Tinh hoa tri thức của nhân loại và dân tộc thể hiện trong những
học thuyết chính trị - xã hội và được đúc kết trong học thuyết Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Thứ ba, Những bài học kinh nghiệm thực tiễn của phong trào cách mạng
thế giới và kinh nghiệm hoạch định chính sách phát triển đất nước của các quốc
gia khác, cũng như thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và tiến hành đổi mới,
xây dựng phát triển đất nước ở Việt Nam.
Thứ tư, Những tiềm năng của đất nước và dân tộc, đó là tiềm năng về con
người; Tiềm năng về kinh tế, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý; Những di sản văn hóa, xã hội, truyền thống dân tộc.
Thứ năm, Mối quan hệ lợi ích và sự hợp tác hay đấu tranh giữa giai cấp,

tầng lớp trong xã hội là những nhân tố khách quan nội tại ảnh hưởng đến việc
hoạch định quyết sách chính trị.
1.2.2.2. Điều kiện chủ quan
Nhân tố chủ quan để hoạch định các quyết sách chính trị là bản thân đảng
chính trị - chủ thể và là “tác giả” của quyết sách chính trị. Những nhân tố chủ
quan đó là:
Thứ nhất, Q trình hoạt động của một đảng với những thử thách tạo nên
bản lĩnh chính trị của đảng.
Thứ hai, Trí tuệ tập thể của tồn đảng và năng lực thực tiễn của đảng viên.
Thứ ba, Sức chiến đấu, bản lĩnh chính trị của Đảng, năng lực nhạy bén
trong các bước ngoặt quan trọng của cách mạng dựa trên sức mạnh tập thể của
Đảng; Sự đoàn kết nhất trí đó dựa trên nền tảng của hệ tư tưởng khoa học.
1.3. Quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị
trong q trình phát triển kinh tế - xã hội


20

1.3.1. Quy trình xây dựng quyết sách chính trị
Bước một: thu thập thông tin:
Yêu cầu: thông tin phải đầy đủ, khách quan, kịp thời và có độ chính xác
cao.
Phạm vi thu thập thông tin: đối với tất cả khách thể và chủ thể.
Điều kiện để có thơng tin đúng: phải nâng cao tính trung thực, nâng cao
năng lực và phương pháp thu nhập thông tin cũng như điều kiện vật chất để khai
thác thông tin.
Bước hai: xử lý thông tin:
Quá trình phân tích những thơng tin thu được bằng phương pháp tư duy
khoa học.
Bước ba: chọn phương án:

Việc xử lý những thông tin sẽ cho ra đời những phương án. Từ nhiều
phương án đó, cơ quan lãnh đạo cùng những chuyên gia tìm ra một phương án
tối ưu nhất. Việc lựa chọn hay đề ra một phương án tối ưu làm cơ sở hình thành
quyết sách chính trị là cơng việc của nhiều người.
Cuối cùng: ra quyết định:
Khâu cuối cùng mang tính quyết định là ra quyết định chính trị. Trong
những trường hợp cần thiết, do tính chất và tầm quan trọng của quyết sách nên
cấp ra quyết định có thể công bố dự thảo để nhân dân công khai góp ý kiến.
Thơng qua đó cơ quan lãnh đạo và các chuyên gia tổng hợp, chắt lọc ý kiến hợp
lý để bổ sung, hoàn thiện quyết sách.
Trong một số trường hợp và một số vấn đề nhất định, trước khi quyết định
chính sách chính thức, có thể tiến hành thực nghiệm trong phạm vi hẹp sau đó
mới có thể áp dụng cho diện tích.
1.3.2. Tổ chức thực hiện quyết sách chính trị
1.3.2.1. Quán triệt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân


21

Theo nghĩa chung nhất, quán triệt là làm cho đối tượng hoặc quần chúng
nhân dân hiểu thấu đáo về một tư tưởng nào đó đối với hiện thực và thể hiện đầy
đủ trong hoạt động. Quán triệt là một quá trình từ khi tiếp nhận nghị quyết cho
đến khi nghị quyết hết hiệu lực, chứ không phải một lần là xong. Đành rằng việc
quán triệt nhằm giúp đối tượng tiếp thu là vơ cùng quan trọng, nó bao gồm tự
qn triệt cho mình và quán triệt cho người khác, trong quán triệt còn bao hàm
phê phán các quan niệm sai trái với tư tưởng của nghị quyết đó. Để nghị quyết
của Đảng trở thành niềm tin, thành định hướng cơ bản cho tư tưởng và hành
động của cán bộ, Đảng viên và nhân dân ở cơ sở, phải luôn luôn qn triệt quan
điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân;

Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, việc quán triệt phải đảm bảo những
yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, phải đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tinh
thần của quyết sách và tình hình thực tế của địa phương
Quyết sách chính trị hay nghị quyết của Đảng mà nhất là Nghị quyết của
Trung ương có tầm bao quát rất rộng, nhưng cái thần của nghị quyết đó bao giờ
cũng khơng chỉ phản ánh, mà cịn định hướng cho việc giải quyết từng vấn đề cụ
thể tương ứng ở từng địa phương. Cho nên, quá trình quán triệt Nghị quyết của
Đảng, phải đảm bảo sự thống nhất giữa tinh thần của Nghị quyết và thực tế của
địa phương, phải nắm bắt được chúng trong tương quan với tổng thể những vấn
đề khác của toàn bộ hệ thống Nghị quyết của Đảng, trong quan hệ với hệ thống
pháp luật và chính sách hiện hành của Nhà nước. Phải nắm bắt được yêu cầu của
từng Nghị quyết trong quan hệ mật thiết với yêu cầu quyền lực và lợi ích của
nhân dân. Phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Có như vậy, việc tổ
chức thực hiện Nghị quyết của Đảng mới ngày một trở nên gần gũi với quảng
đại quần chúng, tạo ra sự kết dính tự nhiên giữa những ý tưởng cao đẹp của


22

Đảng trong từng Nghị quyết với đời sống bình thường của các tầng lớp nhân
dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X)
về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí” nêu rõ: “… tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở
nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây
hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong
những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta…”. Trên cơ sở đó,
Ban cán sự Đảng Ủy ban nhân dân các tỉnh đã đề ra Nghị quyết sát với tình hình
thực tế để UBND tỉnh tổ chức triển khai, thực hiện. Cấp ủy đảng các cấp thường

xun quan tâm chỉ đạo chính quyền, đồn thể làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến và tổ chức thực hiện đúng, sát với tình hình thực tế, theo đúng trọng
tâm mà Nghị quyết đã đề ra.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc tối cao của phương
pháp luận mác xít. Hồ Chí Minh từng dạy rằng: Lý luận mà khơng có thực tiễn
là lý luận sng, thực tiễn mà khơng có lý luận là thực tiễn mù quáng. Nghị
quyết của Đảng vừa là sự đúc kết lý luận vừa là sự tổng kết thực tiễn để giải
quyết vấn đề thực tế cuộc sống của nhân dân.
Thứ hai, phải truyền đạt các Nghị quyết của Đảng một cách đúng đắn, có
chiều sâu.
Các Mác đã từng khẳng định: Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cách mạng cũng sẽ trở thành lực lượng
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng. Vì vậy, việc truyền đạt Nghị
quyết của Đảng, đôi khi không chỉ đủ sức thuyết phục và hướng dẫn những
người trực tiếp thực hiện, mà còn phải gây được lòng tin và sự ủng hộ của các
tầng lớp nhân dân, chống trả và chiến thắng mọi thế lực trong cuộc chiến tư
tưởng về nghị quyết đó. Vì lẻ đó, phải chứng minh được tính đúng đắn của từng
nghị quyết với việc lý giải những vấn đề chính yếu của nghị quyết đó bằng một


23

hệ thống lý luận sắc bén và những bài học kinh nghiệm điển hình, làm tiền đề và
điều kiện cơ bản cho sự nghiệp cụ thể hóa một cách sáng tạo của những người
trực tiếp thực hiện. Không chỉ truyền đạt đúng đắn và đầy đủ tinh thần của từng
nghị quyết đến cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân thuộc phạm vi mình
phụ trách, phản ánh đầy đủ những nhiệm vụ chính trị của địa phương mà cịn
phải ngang tầm với trình độ, phù hợp với tâm tư và tình cảm của người thực
hiện. Đồng thời, phải bảo vệ những tư tưởng cao đẹp của Đảng trong từng Nghị
quyết đó trước mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực khác nhau. Có như vậy,

cán bộ mới gây được lòng tin và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân đối với
đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Thực hiện Kế hoạch số 04-KH/TW, ngày 16/11/2016 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng “về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII”; Hướng dẫn số 20-HD/BTGTW, ngày 22/11/2016
của Ban Tuyên giáo Trung ương “về việc tổ chức học tập, quán triệt và triển
khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII”, các Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập,
quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Theo đó, giúp cấp ủy các cấp chỉ đạo
xây dựng nội dung, kế hoạch tổ chức triển khai nghiên cứu, học tập, quán triệt
Nghị quyết. Qua đó, chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch hành động để đưa
Nghị quyết vào cuộc sống. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền
rộng rãi những nội dung cơ bản của Nghị quyết trong các tầng lớp Nhân dân;
Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, nhận thức lệch lạc,
đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt
Nghị quyết phải thiết thực, hiệu quả, tránh qua loa, hình thức; Kết hợp nghe giới
thiệu trên hội trường với thảo luận, tự đọc, tự nghiên cứu là chính. Chú ý cơng


24

tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết kịp thời việc học tập, quán triệt Nghị
quyết cũng như tổ chức thực hiện.
Thứ ba, đảm bảo định hướng tư tưởng trong suốt quá trình tổ chức thực
hiện Nghị quyết của Đảng.
Trong quá trình quán triệt nghị quyết, phải khẳng định những vấn đề có
tính chất ngun tắc, những nội dung chính yếu và gợi ra các nguồn lực, các
phương thức tổ chức thực hiện để đảm bảo tính nhất quán và tính năng động

giữa các loại hình hoạt động của các nhóm người khác nhau trên thực tế. Sự
định hướng dù là mang tính chất định lượng hay định tính cũng đều phải mang
tính cụ thể, chứ khơng chỉ là một định hướng chung chung, phải biết định hướng
cho các đối tượng cùng thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương hay những cá nhân và đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội ở nơi khác đến
hoạt động trên địa bàn do mình phụ trách theo tinh thần của nghị quyết đang
thực thi.
1.3.2.2. Tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị
Tổ chức thực hiện quyết sách là một trong những khâu quan trọng nhất,
đảm bảo cho sự thành bại của quyết sách khi được ban hành. Để việc tổ chức
thực hiện đạt kết quả, phải đảm bảo các yếu tố sau đây:
Trước hết, đảm bảo sự thống nhất giữa chương trình hành động và tổ chức
thực hiện quyết sách chính trị
Nguyên tắc quan trọng nhất của tính hiệu quả trong tổ chức thực hiện Nghị
quyết của Đảng là sự thống nhất giữa lời nói và việc làm. Cho nên, việc xây
dựng chương trình hành động và kiên quyết triển khai thực hiện cho bằng được
chương trình đó trong thực tế là việc làm đầu tiên. Việc đề ra chương trình hành
động đúng đắn là trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, còn việc chỉ đạo tổ chức
thực hiện nghị quyết đó lại là trách nhiệm của từng cán bộ chủ chốt. Vì vậy, một
yêu cầu không thể thiếu trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng đối với cán
bộ chủ chốt các cấp là kết hợp chặt chẽ giữa sự kiên trì, bền bỉ theo đuổi mục


×