Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẺ TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.37 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẺ TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. THẺ TÍN DỤNG - SẢN PHẨM ĐA TIỆN ÍCH CỦA NGÂN HÀNG
1.Lịch sử hình thành
Một trong những phát minh quan trọng nhất của con người có tính chất đột
phá, đẩy nền văn minh nhân loại tiến một bước dài là sự phát minh tiền tệ. Tiền tệ
ra đời không ngừng được nghiên cứu hoàn thiện nhằm vào hai mục tiêu chính: sự
tiện lợi và an toàn. Qua nhiều hình thái phát triển, ngày nay tiền tệ đã đạt đỉnh cao
chất lượng: tiền điện tử- một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến
và hiện đại. Thẻ tín dụng là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó.
Thẻ tín dụng ra đời không những đạt được hai mục tiêu nói trên mà còn thể hiện
tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hoá và toàn cầu hoá.
Thẻ tín dụng ra đời xuất phát từ một trường hợp ngẫu nhiên. Năm 1949
trong một bữa ăn tối tại một nhà hàng, doanh nhân người Mỹ Frank Mc Namarac
chợt nhận ra rằng mình không mang theo tiền để thanh toán, ông đành gọi điện về
nhà nhắn người mang tiền đến giúp. Chính trong tình huống đó ông chợt nảy ra ý
tưởng về một loại phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt có thể sử dụng ở
mọi nơi. Thẻ tín dụng đầu tiên ra đời với tên gọi Dinner Club và sau đó nó được
người Mỹ sử dụng trả tiền ăn tại 27 nhà hàng trong hoặc ven thành phố New York.
Xuất phát từ một ý tưởng, nhưng những tiện ích mà thẻ tín dụng mang lại đã nhanh
chóng chinh phục được khách hàng. Một thị trường to lớn đầy hứa hẹn mở ra đối
với các dịch vụ thẻ. Cuộc cách mạng về thẻ diễn ra sau đó đã nhanh chóng đưa thẻ
tín dụng trở thành một công cụ thanh toán phổ biến toàn cầu.
Trên phương diện khách hàng, chủ sở hữu thẻ được hưởng không ít tiện ích,
thẻ mang đến cho họ sự tiện lợi (gọn nhẹ, nhanh chóng đi liền với văn minh không
phân biệt giá) có thể thanh toán xuyên quốc gia. Thẻ tín dụng có thể sử dụng như
tiền nhưng lại thuận tiện hơn tiền. Ngày nay sử dụng thẻ tín dụng đồng nghĩa với
việc sử dụng một công cụ có tính chất an toàn cao vượt bậc so với tiền mặt. Chính
vì vậy khách hàng sẵn sàng trả một mức phí cao khi sử dụng thẻ. Trước sự hứa hẹn
về lợi nhuận tiềm năng, phạm vi hoạt động toàn cầu hoá thẻ tín dụng buộc các
ngân hàng, các hãng xe hơi, bảo hiểm liên kết với các ngân hàng phát hành thẻ làm


cho nó ngày càng trở thành một công cụ phổ cập có tính mạnh mẽ.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại và kỹ thuật ngày càng
phát triển như vũ bão, thẻ tín dụng ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều nước kể
cả những nước đang phát triển. Với các tiện ích của mình chắc chắn thẻ tín dụng sẽ
còn gặt hái được nhiều thành công ở thế kỷ tới. Tuy nhiên, chính sự phát triển của
công nghệ thông tin, cái đã từng chắp cánh cho sự phát triển của thẻ tín dụng lại
đặt ra cho dich vị này nhiều thách thức mới. Sự ra đời của dịch vụ thương mại điện
tử của công nghệ thông tin nhận dạng tiếng nói và hình ảnh của dịch vụ ngân hàng
ảo là những thách thức lớn cho sự phát triển của thẻ tín dụng . Một câu hỏi được
đặt ra là với sự xuất hiện của hàng loạt các dịch vụ cạnh tranh như vậy, liệu trong
tương lai, thẻ có còn giữ được vai trò và giá trị của nó như hiện nay không?
2. Khái quát về thẻ tín dụng
2.1/ Thẻ tín dụng là gì?
Về bản chất thẻ tín dụng là một hình thức tín dụng mà ngân hàng cung cấp
cho khách hàng(chủ thẻ). Chủ thẻ được ngân hàng cấp cho một hạn mức tín
dụng(hạn mức tín dụng của thẻ) dựa trên nguồn thu nhập của khách hàng cũng như
khả năng thanh toán, chi trả, số tiền ký quĩ và tài sản thế chấp. Hạn mức tín dụng
này thực chất là hạn mức tín dụng quay vòng nghĩa là khách hàng khi sử dụng thẻ,
hạn mức sẽ giảm và đến kỳ thanh toán, hạn mức tín dụng sẽ tăng lên phụ thuộc vào
khả năng chi trả của khách hàng. Ngân hàng sẽ tính lãi (như lãi vay) đối với các
khoản tiền khách hàng chưa trả nếu đến kỳ thanh toán( theo tháng). Như vậy khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng cũng là việc ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng
tiền của ngân hàng trong một thời gian nào đó mà không phải trả lãi vay như các
khoản tín dụng thông thường.
2.2/ Đặc điểm của thẻ tín dụng
Kể từ khi ra đời đến nay, cấu tạo của thẻ tín dụng đã có nhiều thay đổi khá
lớn nhằm tăng độ an toàn và tính tiện dụng cho khách hàng. Trước kia thẻ tín dụng
đầu tiên mới xuất hiện còn vẫn đơn giản với thông tin được khắc trên bề mặt rồi
tiếp theo là thẻ băng từ sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tính với một băng từ chứa hai
rãnh thông tin. Với hai loại thẻ này ngày nay không còn được sử dụng vì nó dễ bị

làm giả. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin đặc biệt là kỹ
thuật mã hoá từ tính, gần đây là việc sử dụng vi mạch điện tử, thẻ thông
minh”Smart Card” dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học gắn vào thẻ một chip điện tử
có cấu trúc giống một máy tính hoàn hảo.
Các loại thẻ tín dụng đều có cấu tạo giống nhau, đều làm bằng nhựa
cứng(plastic) kích cỡ 96mmx54mmx0,76 có góc tròn hai mặt.Trên mặt trước của
thẻ có: huy hiệu của tổ chức phát hành, biểu tượng logo- đó là yếu tố cho biết tổ
chức phát hành, đây là yếu tố khó giả mạo. Mặc khác trên đó còn có các thông số
khác như số thẻ, họ tên chủ thẻ(tuỳ theo thẻ phát hành cho cá nhân hay cho công
ty), số mật mã đợt phát hành và một số đặc điểm riêng của từng loại. Mặt sau có
dãy băng từ có khả năng lưu trữ thông tin: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ,
BIN(mã số chỉ tên ngân hàng phát hành), PIN(mã số bí mật cá nhân chủ thẻ) và
băng chữ ký để đối chiếu chữ ký chủ thẻ.
2.3/ Nội dung kinh tế
Về mặt kinh tế, đối với khách hàng thẻ tín dụng là một dịch vụ được ngân
hàng cung cấp. Với ngân hàng, nó là loại hình tín dụng đặc biệt - tín dụng để phục
vụ mục đích thanh toán tiêu dùng. Khi khách hàng sử dụng thẻ tín dụng để mua
hàng hoá dịch vụ là họ đang sử dụng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
qua ngân hàng. Đồng thời đây cũng là quá trình ngân hàng cho khách hàng vay
tiền trên tài khoản tín dụng. Số dư phát sinh sẽ được ghi vào bên nợ tài khoản tín
dụng của khách hàng, hàm ý về một khoản vay. Khách hàng phải tiến hành thanh
toán theo sao kê khi đáo hạn. Tài khoản thẻ tín dụng giống như một tài khoản tín
dụng tuần hoàn, chỉ cần khách hàng tuân thủ các qui định về thanh toán và chi tiêu
như hợp đồng sử dụng thì anh ta luôn có quyền sử dụng thẻ, hay nói cách khác là
vay ngân hàng trong phạm vi hạn mức.
Thẻ tín dụng khác với bất kỳ hình thức tín dụng truyền thống nào trước đó.
Trên thực tế nó là một sản phẩm kết hợp của tín dụng và thanh toán. Trong các hợp
đồng tín dụng truyền thống, khi ngân hàng đồng ý cho khách hàng vay là đồng ý
với việc trực tiếp giao cho khách hàng quyền sử dụng một lượng vốn nhất định.
Còn khi ngân hàng cấp cho khách hàng một thẻ tín dụng, chưa hề có lượng tiền

thực tế nào được đem cho vay, ngân hàng chỉ đưa ra một sự đảm bảo về quyền sử
dụng một lượng tiền trong phạm vi hạn mức của khách hàng. Việc khách hàng có
thực sự vay hay không phụ thuộc vào quá trình sử dụng thẻ sau đó. Hơn thế nữa,
rất ít các hợp đồng tín dụng truyền thống gắn tín dụng với công tác thanh toán qua
ngân hàng, nếu không muốn nói đó được coi là hai lĩnh vực hoàn toàn tách biệt
nhau. Tín dụng thẻ thì ngược lại, nó là một dạng tín dụng phục vụ riêng cho thanh
toán tiêu dùng nên được gọi là tín dụng tiêu dùng. Sử dụng thẻ, khách hàng không
được khuyến khích rút tiền ra khỏi ngân hàng (phí rút tiền mặt lên tới 4%) mà là để
mua hàng hoá, dịch vụ tại các điểm tiếp nhận thẻ- Merchant (khi đó họ sẽ hoàn
toàn không phải chịu bất cứ một khoản phí nào trên doanh số giao dịch), thực chất
tiền khi đó vẫn nằm trong hệ thống ngân hàng - giao dịch thanh toán được thực
hiện qua các bút toán chuyển khoản.
2.4/ Phân loại thẻ tín dụng
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại thẻ tín dụng :
♦ Theo phạm vi lãnh thổ có:
+Thẻ tín dụng trong nước: được giới hạn sử dụng trong phạm vi quốc gia do
vậy đồng tiền giao dịch là đồng bản tệ của nước đó. Loại thẻ này hoạt động đơn
giản vì nó chỉ do một tổ chức hay một ngân hàng điều hành từ việc tổ chức phát
hành đến việc xử lý trung gian thanh toán
+Thẻ tín dụng quốc tế: được chấp nhận thanh toán trên toàn cầu, sử dụng
ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thẻ quốc tín dụng quốc tế được khách du lịch rất ưa
chuộng vì nó an toàn tiện lợi. Do phạm vi hoạt động khắp thế giới nên qui trình
hoạt động của loại thẻ này phức tạp hơn, việc kiểm soát tín dụng và các yêu cầu
thủ tục thanh toán vì vậy cũng rắc rối hơn.
♦ Theo chủ thể phát hành:
+ Thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành(bank card): là loại thẻ giúp cho
khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử sụng số
tiền do ngân hàng cấp tín dung.
+Thẻ tín dụng do các tổ chức phi ngân hàng phát hành(non- bank card): đó
là thẻ du lịch, giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn.

♦ Theo chủ thể xin phát hành:
+ Thẻ tín dụng cá nhân do công ty uỷ quyền sử dụng: được phát hành cho
các cá nhân thuộc tổ chức công ty, công ty đứng tên xin phát hành thẻ, uỷ quyền
cho cá nhân đó sử dụng thẻ.
+Thẻ tín dụng cá nhân: được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu và đáp
ứng đủ các điều kiện phát hành thẻ. Chủ thẻ chịu trách nhiệm thanh toán các khoản
chi tiêu thẻ bằng nguồn tiền của bản thân mình. Thẻ cá nhân có hai loại thẻ chính
và thẻ phụ.
- Thẻ chính: do cá nhân đứng tên xin phát hành thẻ cho chính mình sử
dụng và cá nhân đó là chủ thẻ.
- Thẻ phụ: chủ thẻ chính có thể đứng tên xin phát hành thẻ phụ cho người
khác sử dụng(chủ thẻ phụ) và chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ các
khoản chi tiêu của chủ thẻ phụ.
♦ Theo hạn mức:
+Thẻ tín dụng vàng(Gold card): phục vụ cho thị trường cao cấp, loại thẻ ưu
hạng phù hợp với mức sống nhu cầu tài chính của khách hàng có thu nhập cao. Thẻ
được phát hành cho các đối tượng có uy tín, trình độ phát triển, điểm chung có hạn
mức tín dụng cao hơn thẻ thường.
+Thẻ tín dụng thường(Standard card): loại thẻ này căn bản mang tính phổ
thông đại chúng được hơn 14 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
3. Các tiện ích của thẻ tín dụng
3.1/ Đối với khách hàng:
Thẻ tín dụng là sự kết hợp hoàn hảo của cơ chế thanh toán và cho vay chính
vì thế nó mang lại cho khách hàng lợi ích kết hợp của cả hai dịch vụ ngân hàng
này.
♦ Sự thuận tiện và linh hoạt trong thanh toán trong nước và ngoài nước :
Với tư cách là một phương tiện thanh toán, thẻ tín dụng cho phép chủ thẻ
mua hàng hoá dịch vụ thông qua mạng lưới rộng rãi các đại lý chấp nhận thẻ, các
ngân hàng thanh toán trong và ngoài nước hay rút tiền mặt khi cần thiết tại các máy
rút tiền tự động khắp nơi. Điều bất lợi chính của việc sử dụng thẻ tín dụng là nó

không mấy tiện dụng nếu số điểm chấp nhận thẻ(số điểm bán hàng hoá dịch vụ
chấp nhận thanh toán bằng thẻ) không lớn. Khi đó khách hàng chỉ có thể mua hàng
hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại một số ít địa điểm. Rõ ràng đây là một hạn chế
lớn. Tuy nhiên, tình trạng đó chỉ tồn tại ở một số ít thị trường đang phát triển như
Việt Nam. Còn đối với các thị trường các nước phát triển với tấm thẻ tín dụng
Mastercard Card và Visa Card, bạn có thể mua sắm hàng hoá dịch vụ tại 14 triệu
điểm thanh toán và rút tiền trên phạm vi toàn cầu.
Đối với thẻ tín dụng khách hàng còn được ngân hàng cung cấp trước một
hạn mức tín dụng . Đó là một dạng cho vay thanh toán, nói cách khác là một dich
vụ ngân hàng ứng trước tiền cho các dịch vụ giao dịch của khách hàng. Lợi ích cơ
bản của nó là cung cấp cho khách hàng một khả năng mở rộng các giao dịch tài
chính của mình trong khả năng có hạn. Khách hàng sẽ được thực hiện các giao
dịch trước, thanh toán sau mà không bị tính lãi trong khoảng thời gian ngắn. Ngoài
ra chủ thẻ còn được hưởng các dịch vụ khác do ngân hàng phát hành triển khai và
áp dụng: dịch vụ khách hàng 24/24h, dịch vụ trợ giúp toàn cầu Word Assist, dich
vụ bảo hiểm lữ hành
Mặt khác có rất nhiều loại thẻ tín dụng khác nhau thích hợp với từng đối
tượng khách hàng. Có những loại thẻ có hạn mức cao chuyên dành cho khách VIP
như Dinner Club chuyên dùng cho khách hàng có thu nhập tối thiểu 200.000 USD
hàng năm. Cũng có những loại thẻ có hạn mức thấp dành cho những người có thu
nhập thấp và trung bình. Ở Việt Nam hạn mức của thẻ thấp nhất là 10 triệu( đối với
thẻ thường) còn tương đối cao với thu nhập chung của đại đa số dân cư vì thế thẻ
tín dụng còn chưa thực sự phổ biến. Ngoài ra các ngân hàng phát hành cũng đặt ra
hạn mức cho các giao dịch mà khách hàng thực hiện trong một ngày. Việc đặt một
hạn mức không phải là một sự giới hạn tiện dành cho khách hàng trái lại đó là một
biện pháp đảm bảo an toàn. Trong trường hợp bị mất thẻ hoặc bị lộ mã số PIN thì
với các hạn mức khách hàng không phải chịu một tổn thất quá lớn.
♦ Đảm bảo sự an toàn cho giao dịch của khách hàng
Xét trên giác độ bảo mật của giao dịch, thẻ tín dụng là phương tiện giao dịch
tiện lợi và an toàn. Chủ thẻ là người duy nhất nắm giữ mã số có quyền sử dụng thẻ

vì vậy chống việc làm giả và ngăn chặn người khác sử dụng thẻ. Bên cạnh đó thẻ
được sản xuất chế tạo dựa trên công nghệ cao, kỹ thuật hết sức tinh vi hiện đại như
mã hoá thông số từ tính hoặc kỹ thuật vi mạch điện tử. Đặc biệt từ khi thẻ thông
minh được tung ra thị trường, độ an toàn của thẻ được nâng lên rất nhiều. Việc so
sánh chữ ký mẫu trên thẻ với chữ ký chủ thẻ khách hàng với các thông tin được mã
hoá trên thẻ tạo nên một bức tường vững chắc trước nguy cơ bị người khác lạm
dụng. Có thể nói đây là một công cụ an toàn hoàn hảo. Khi mất thẻ hay lộ số PIN
chủ thẻ thông báo cho ngân hàng phát hành biết để phong toả tài khoản.
♦ Gọn nhẹ nhanh chóng và hiệu quả
Với kích thước gọn nhẹ của thẻ, chủ thẻ có thể dễ dàng mang theo người, tạo
cảm giác thoải mái khi đi mua sắm thậm chí với khối lượng trả lớn. Khi mua sắm
hàng hoá dịch vụ, khách hàng chỉ cần xuất trình thẻ, ký vào hoá đơn thanh toán thì
coi như việc mua bán đã được hoàn tất, khách hàng chỉ nhận hoá đơn hay sử dụng
dịch vụ đã mua. Với việc sử dụng thẻ một cách gián tiếp khách hàng đã tiết kiệm
được các chi phí vận chuyển tiền và chi phí kiểm đếm, với số tiền chưa dùng đến
khách hàng còn được hưởng lãi thay vì cất giữ bên mình. Ngoài ra khách hàng có
thể thực hiện bất cứ một giao dịch nào bằng ngoại tệ trên thế giới nhưng chỉ phải
thanh toán cho ngân hàng phát hành bằng đồng bản tệ.
♦ Mang đến cho khách hàng sự văn minh :
Thanh toán bằng thẻ tạo thêm vẻ văn minh lịch sự, sang trọng cho khách
hàng khi thanh toán. Thẻ tín dụng dường như trở thành một thứ mốt, một phong
cách sống. Điều này có thể là không mấy ý nghĩa với những người thực sự am hiểu
về kinh tế nhưng đối với cộng đồng khách hàng, nó lại là một sức mạnh tâm lý
không phải nhỏ. Mặt khác giúp khách hàng tiếp cận phương thức mua hàng gián
tiếp hiện nay như đặt hàng qua thư hay điện thoại, mua hàng qua mạng. Tuy nó chỉ
có ý nghĩa thiết thực như một yếu tố tâm lý giúp ngân hàng phát triển thị trường
nhưng với khách hàng cũng có thể coi đây là một tiện ích
Đặc biệt đối với thẻ tín dụng công ty ngoài tiện ích trên nó còn giúp cho các
công ty giảm các khoản tạm ứng công tác phí, giúp cho công ty quản lý kiểm soát
hiệu quả chi tiêu của nhân viên, thậm chí công ty còn được cấp ngay một nguồn

vốn ngắn hạn mà không cần thủ tục vay vốn.
3.2/ Đối với đơn vị chấp nhận thẻ(Merchant)
Với tâm lý ưa thích tiền mặt các Merchant sẽ chỉ tham gia nếu việc chấp
nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng đem lại một ích lợi nào đó cho họ. Có thể tính
tới điều đó dưới ba góc độ:
♦ Tăng doanh số kinh doanh và thu hút khách hàng
Trước hết mỗi điểm chấp nhận thẻ là một cơ sở kinh doanh, mục tiêu của họ
là tối đa hoá lượng hàng hoá dịch vụ bán được. Việc ngày càng có nhiều người
thích sử dụng thẻ tín dụng tác động đến họ với tư cách như một nhu cầu của thị
truờng. Để lôi kéo đối tượng khách hàng này buộc họ phải chấp nhận sự thanh toán
bằng thẻ tín dụng. Như vậy, trước hết việc chấp nhận thẻ mạng lại lợi ích cho các
Merchant như một biện pháp mở rộng thị trường và tăng doanh số. Điều này đặc
biệt rõ khi xét đến tác động của thẻ tín dụng như là một phương cách mở rộng khả
năng tài chính của khách hàng. Thẻ tín dụng là một hậu thuẫn giúp chủ thẻ chi tiêu
vượt quá khả năng tài chính ngắn hạn của mình. Vô hình chung, nó trở thành một
lực đẩy tích cực đối với sức mua. Chính những người cung ứng hàng hoá và dịch
vụ chính không phải ai khác là người được hưởng lợi trong quá trình đó
♦ Giảm chi phí bán hàng và đảm bảo an toàn
Việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng giúp các điểm chấp nhận thẻ đa
dạng hoá các phương thức thanh toán, giảm tình trạng trả chậm của khách hàng,
đồng thời giảm nhẹ công tác kiểm đếm thu giữ tiền mặt tránh được hiện tượng
khách hàng dùng tiền giả để thanh toán, qua đó giảm những chi phí kinh doanh
không cần thiết.
♦ Hưởng lợi từ chính sách khách hàng của ngân hàng.
Trước hết các điểm chấp nhận thanh toán thẻ được ngân hàng cung cấp đầy
đủ các máy móc thiết bị cần thiết cho việc thanh toán thẻ (máy ECD cà tay hoặc
kết nối mạng thanh toán điện tử) nên các cơ sở này không mất tiền đầu tư cho cơ
sở vật chất. Ngoài ra các điểm chấp nhận thẻ còn thiết lập được mối quan hệ mật
thiết với ngân hàng. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ dành cho họ
những khoản ưu đãi trong các giao dịch khác nhau, các giao dịch về tín dụng.

Trong nền kinh tế thị trường, được hưởng ưu đãi trong vay vốn ngân hàng một
khoản lợi lớn đối với các đơn vị kinh doanh. Bên cạnh đó, hàng năm các hiệp hội
du lịch quốc tế có xuất bản những ấn phẩm giới thiệu địa chỉ cung ứng hàng hoá
dịch vụ đáng lưu ý điều đó sẽ giúp cho các đơn vị này quảng bá cho hoạt động của
mình.
Tuy nhiên, một rào cản lớn trong việc mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận
thẻ là mức phí mà ngân hàng đặt ra cho các cơ sở này, đặc biệt là ở những nước mà
thẻ tín dụng còn là một phương tiện thanh toán mới mẻ như Việt Nam.
3.3/ Đối với hoạt động của ngân hàng
Sự phát triển bùng nổ của thẻ tín dụng trong thời gian ngắn như vậy có thể
lý giải bằng hai nguyên nhân. Trước hết là lợi ích mà nó mang lại cho khách hàng,
thứ nữa là lợi nhuận mà nó đem lại cho ngành ngân hàng. Không chỉ vậy, thẻ tín
dụng có tác động đến nhiều hoạt động quan trọng khác của ngân hàng.
♦ Một dịch vụ chiếm ưu thế và tác động đến lợi nhuận của ngân hàng .
Kết hợp các đặc tính của tín dụng và thanh toán, một cơ chế vay trả tuần
hoàn, mạng lưới các điểm tiếp nhận thẻ rộng rãi, tất cả những điều đó làm nên sức
mạnh vượt trội của thẻ tín dụng. So với những hình thức thanh toán khác như sec,
uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu hoặc L/C... thẻ tín dụng ưu việt hơn ở chỗ nó gắn tín
dụng với thanh toán như một qui trình khép kín. Vì vậy ngay sau khi xuất hiện, thẻ
tín dụng nhanh chóng chiếm vị trí độc tôn trong số các dịch vụ của ngân hàng phục
vụ chi tiêu các nhân. Nó được coi là phương cách số một để tiếp cận đến thị trường
ngân hàng bán lẻ.
Không được xem là một phương thức phát triển dư nợ tín dụng, tuy nhiên
các khoản của khách hàng khi mua hàng hoá dịch vụ tại các điểm tiếp nhận thẻ vẫn
mặc nhiên là các khoản vay ngân hàng. Dạng tín dụng thẻ là một loại tín dụng
không có thời hạn rõ ràng với số dư có tính tuần hoàn. Do thẻ tín dụng có thị
trường riêng là phục vụ chi tiêu cá nhân nên nó không được coi là một dịch vụ
cạnh tranh với các loại tín dụng truyền thống.
Thẻ tín dụng một sản phẩm có tính hướng công nghệ cao mà nó còn thực sự
là một phương cách ưu việt để thâm nhập vào thị trường ngân hàng bán lẻ(thị

trường phân phối các dịch vụ và tiện ích của ngân hàng nhưng ở qui mô nhỏ). Thẻ
tín dụng mang đến cho ngân hàng nhiều nguồn thu khác nhau: chiết khấu thương
mại, lệ phí thường niên, phí rút tiền mặt, các khoản thu từ tài trợ, phí đại lý thanh
toán. Ngoài ra còn các khoản thu khác: phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời(phát
sinh khi chủ thẻ muốn nâng hạn mức tín dụng) phí tra soát (khoản phí chủ thẻ phải
trả cho yêu cầu tra soát của mình), phí cấp lại thẻ mất cắp, thất lạc, phí cập nhập
thẻ mất cắp, thất lạc lên danh sách thẻ cấm lưu hành.
Phí thường niên : là khoản phí mà chủ thẻ nộp theo hợp đồng sử dụng thẻ.
Khoản phí này thực tế không nhiều và nó chỉ là một đóng góp nhỏ nếu so với các
khoản thu của ngân hàng có từ thẻ.
Phí rút tiền mặt : khoản phí này được thu trên mỗi giao dịch rút tiền mặt (tại
ngân hàng hay các máy rút tiền tự động ATM), khoản phí này phụ thuộc vào từng
mức phí của ngân hàng.
Khoản chiết khấu thương mại : đó là khoản thu phát sinh trên doanh số thanh
toán của điểm chấp nhận thẻ. Khi các Merchant trình hoá đơn thanh toán bằng thẻ
tín dụng lên ngân hàng, ngân hàng sẽ tính chiết khấu một khoản trên doanh thu.
Theo nguyên tắc tỷ lệ chiết khấu này phụ thuộc vào tình hình thị trường, lưu lượng
bán hàng và qui mô các hoá đơn hàng hoá.
Phí đại lý thanh toán: đó là phí thu được từ các giao dịch thanh toán hộ của
ngân hàng khi làm đại lý thanh toán.
Tất cả những khoản thu từ nghiệp vụ thẻ đem lại một tỷ suất sinh lợi lên tới
20%/năm cho ngân hàng. Vì vậy dễ hiểu tại sao thẻ tín dụng có một sức hấp dẫn
lớn đến vậy với những người kinh doanh nó. Đối với các thị trường thẻ tín dụng
đang phát triển, tỷ lệ doanh lợi từ thẻ vượt trên bất cứ một hình thức đầu tư tín
dụng nào khác. Với mỗi 1% tăng trưởng qui mô thị trường thẻ tín dụng đều gắn với
một sự tăng lên trong lợi nhuận kinh doanh thẻ.
♦ Với công tác thanh toán
Đối với công tác thanh toán chung của ngân hàng, tác động tích cực lớn của
thẻ tín dụng được biết đến với tư cách của thẻ như một động lực thúc đẩy sự phát
triển về qui mô, số lượng và thị trường của các hình thức thanh toán khác. Qui mô

của thị trường thẻ tín dụng tăng lên đi kèm với số lượng gia tăng các điểm tiếp
nhận thẻ trong quan hệ giao dịch với ngân hàng. Bản thân các Merchant cũng là tổ
chức kinh tế và nó cũng có nhiều nhu cầu trong sử dụng các loại hình giao dịch
dành cho giới doanh nhân. Vì thế phát triển thị trường thẻ tín dụng sẽ góp phần
phát triển thị trường các hình thức thanh toán khác. Ngoài ra, khi phát triển thẻ tín
dụng ngân hàng luôn phải trang bị các phương tiện máy móc hiện đại nhất, đó cũng
là tiền đề và là một bước đột phá để các hình thức thanh toán khác tận dụng được
những thành tựu công nghệ mới.
♦ Với công tác huy động vốn quĩ

×