Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG THẬP KỈ 90

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.7 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRONG THẬP KỈ 90
2.1. Lực lượng lao động và nhu cầu XKLĐ ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát về lực lượng lao động Việt Nam
Với mức tăng dân số tự nhiên hàng năm trên 1,8% ( xem phụ lục 2.1), Việt
Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, đứng thứ 12 trên thế giới và đứng thứ
2 trong khối ASEAN
1
. Theo kết quả điều tra dân số 10 năm trở lại đây, dân số
nước ta có:
BIỂU 2.1 : DÂN SỐ NƯỚC TA TRONG 10 NĂM QUA
Đơn vị tính : nghìn người
Tổng số Năm Thành thị Nông thôn
65.611 1991 12.798 52.813
66.894 1992 13.190 53.704
68.189 1993 13.580 54.609
69.510 1994 14.017 55.493
70.771 1995 14.576 56.195
71.985 1996 15.098 56.887
73.166 1997 15.643 57.523
74.335 1998 16.813 57.504
75.504 1999 17.536 57.968
76.597 2000 18.046 58.551
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
Đây mới chỉ là con số thống kê trong vòng mười năm trở lại đây, theo dự
báo dân số nước ta sẽ còn tăng tới 100 triệu người vào năm 2020 với tốc độ tăng
1 Nguồn: CIEM - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương: Lao động, việc l m v thu nhà à ập, Kinh tế Việt
Nam, 2001.
dân số hầu như không đổi. Tính riêng năm 2001, tổng số lao động của cả nước ta
ước tính là 38.643.123 người, trong đó, số người trong độ tuổi lao động là
36.725.277 người, chiếm 95% tổng lực lượng lao động của cả nước. So với năm


2000, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong năm 2001 vẫn theo chiều hướng
tích cực. Có thể nói nước ta là một thị trường cung cấp lao động phong phú, tạo
nên một nguồn lực dồi dào cho đất nước.
Về cơ cấu ngành kinh tế: tuy là một quốc gia đang phát triển, lao động và
việc làm vẫn luôn là một vấn đề bức xúc của nước ta, trở thành một trong những
trọng tâm của chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.Theo số liệu phân tích của
Tổng cục thống kê, năm 2001 dân số nước ta ước tính có khoảng 22.650.814 người
làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, chiếm 62,5% so với tổng số lao
động đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân, giảm 1,1% so với năm trước; tỷ
trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,5% năm 2000 lên
13,2% năm 2001 và dịch vụ tăng tương ứng từ 23,9% lên 24,3%. Việc chuyển
dịch cơ cấu hướng theo công nghiệp hoá đang ngày càng thể hiện rõ.
Xét về độ tuổi : Có thể thấy lao động nước ta thuộc loại trẻ. Tỉ lệ dân số dưới
15 tuổi chiếm tới 45%, đại bộ phận (52,19%) nằm ở độ tuổi dưới 30 và 78% ở độ
tuổi dưới 40
2
. Điều đó chứng tỏ dân số Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ phát triển
mạnh.
Xét về chất lượng lao động: Chất lượng lao động ở Việt Nam đang là một
vấn đề đáng được lưu tâm (xem phụ lục 2.2). Số lao động làm việc không có
chuyên môn vẫn chiếm tỉ lệ chủ yếu, trong khi đó lao động được đào tạo trung cấp,
đại học và sau đại học thì có quá ít. Tới năm 2001, có khoảng 7,2 triệu lao động kỹ
thuật, chiếm 19,5% lao động đang làm việc. Lao động đô thị thì thường có trình độ
cao về văn hoá chuyên môn, nghề nghiệp, kiến thức so với nông thôn. Trong khi
đó do không được đào tạo, đại bộ phận lao động ở nông thôn là lao động giản đơn,
điều kiện tiếp xúc với khoa học kỹ thuật công nghệ và thị trường bị hạn chế..
2 Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2001
Xét về cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế: năm 2001 tỷ trọng lao động
của nước ta hoạt động trong khu vực nhà nước là khoảng 9%, và trong khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh là khoảng 91%. Về lĩnh vực XKLĐ, trong những năm

qua cũng đã đạt đến những thành tựu nhất định. Năm 2001 chúng ta đã xuất khẩu
được 31.500 lao động ra nước ngoài, đặc biệt là XKLĐ gián tiếp thông qua các khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho khoảng 330.000 người, thu hút
khoảng 1% tổng lực lượng lao động.
Xét về cơ cấu lao động theo khu vực: thì trong vòng 10 năm qua, lao động tại
các thành thị ngày càng tăng cao hơn nhiều so với số lao động tại khu vực nông
thôn. Do việc làm tại các khu vực nông thôn chủ yếu là nông nghiệp, phụ thuộc
vào đất đai canh tác. Đất canh tác bình quân đầu người thấp. Giai đoạn năm 1991 -
1994 lao động nông thôn tăng lên 2 triệu người trong khi đất canh tác giảm xuống
trung bình mỗi năm 2000ha. Ruộng đất bị chia nhỏ, manh mún do quá trình phân
chia ruộng đất đang tiếp tục. Cho tới giai đoạn 1997 - 1999, do quá trình tinh giảm
biên chế trong khu vực Nhà nước và sắp xếp lại nhân lực trong khu vực kinh tế
quốc doanh, hơn nửa triệu lao động dôi dư trở về lao động tại nông thôn. Thêm vào
đó là quá trình đô thị hoá ở nông thôn cũng đang diễn ra khá mạnh, làm đất nông
nghiệp mất dần. Tuy nhiên trong 3 năm gần đây từ năm 1999 đến 2000 số lao động
trong nông nghiệp vẫn tăng thêm 1,7 triệu người trong khi chỉ có trên 750.000 lao
động tăng thêm trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và 1,4 triệu lao động tăng
thêm trong lĩnh vực dịch vụ. Điều này đồng nghĩa với việc thiếu việc làm tương
đối ở khu vực nông thôn đặc biệt là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp (xem phụ
lục 2.4).
Còn tại các khu vực thành thị nhìn chung tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao
động trong độ tuổi lao động tiếp tục giảm, từ 6,7% năm 2000 xuống còn 6,4% năm
2001. Vấn đề việc làm tại khu vực này luôn diễn ra căng thẳng và cấp bách. Bình
quân thời kỳ 1991 - 2000, mỗi năm nước ta giải quyết được việc làm cho 0,91 triệu
người, trong đó mấy năm giải quyết được khoảng 1,2 triệu người có việc làm
tương ứng với số bổ sung thêm hàng năm của nguồn lao động nước ta.
Như vậy: Nhìn chung nước ta là một quốc gia có nguồn lao động dồi dào,
tốc độ phát triển ở mức cao, lại phân bố không đều, phần lớn tập trung ở khu vực
nông thôn. Chất lượng lao động thấp, đặc biệt là chưa qua đào tạo nhiều. Trong khi
đó nước ta lại đang gặp khó khăn rất lớn trong quá trình tạo việc làm, tạo ra một cơ

cấu lao động hợp lý. Chúng ta phải thừa nhận rằng : “ Con người Việt Nam hiện có
những mặt hạn chế về thể lực, kiến thức, tay nghề và thói quen của sản xuất nhỏ.
Khắc phục những nhược điểm đó thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới
thực sự trở thành thế mạnh của đất nước”
3
.
2.1.2. Chương trình việc làm quốc gia và nhu cầu XKLĐ
Chương trình việc làm quốc gia được xác định là chương trình do Nhà nước
hoạch định, là một bộ phận quan trọng của chương trình phát triển KT - XH của
đất nước nhằm hoạch định một hệ thống chính sách tạo mở việc làm, chống thất
nghiệp, giảm nghèo đói, đem lại thịnh vượng chung cho xã hội.
Chương trình việc làm quốc gia được đặt ra bắt đầu từ Đại hội Đảng khoá
VIII, cho đến nay, sau hơn 5 năm thực hiện, chương trình đã thu được nhiều thành
quả to lớn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho Xã hội. Nghị quyết đại hội VIII
của Đảng đã chỉ rõ: trong giai đoạn đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa, phải “Tập trung sức tạo việc làm. Phương hướng quan trọng nhất
là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các
chương trình KT - XH. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi
nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công
dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển
dịch vụ việc làm, tiếp tục phân bố lại dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh
tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ. Giảm đáng
kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”
4
. Để thực hiện
phương hướng, nhiệm vụ trên, phải tích cực tạo ra nhiều công ăn việc làm ở trong
nước và ngoài nước.
3 Nguồn: Trích dự thảo “Chiến lược ổn định v phát trià ển KT - XH” - NXB Sự thật. HN.1991, trang 6.
4 Nguồn: Trích văn kiện Đại hội Đảng khoá VIII.NXB Chính trị quốc gia H Nà ội.1997

Để thực hiện được mục tiêu tạo được việc làm cho một bộ phận lớn dân cư
và giảm sự nghèo khổ, Chương trình việc làm quốc gia được hình thành trên cơ sở
xây dựng một hệ thống các chương trình việc làm trong một số lĩnh vực có khả
năng thu hút nhiều lao động, mở rộng và phát triển các ngành nghề mà thị trường
có nhu cầu và có định hướng giải quyết việc làm trên một số vùng trọng điểm có
yêu cầu bức bách trong đó có nhu cầu giải quyết mở rộng XKLĐ. Cụ thể là:
* Tiếp tục mở rộng Chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài
thông qua các chương trình, dự án việc làm ngoài nước. Người lao động ở khắp
mọi miền đất nước có thể tham gia Chương trình quốc gia giải quyết việc làm theo
nhiều cách: tham gia các kế hoạch phát triển KT - XH của đất nước, các dự án đầu
tư của nước ngoài; tự tạo việc làm, tham gia các dự án nhỏ tạo việc làm mới từ
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, theo học tại các trung tâm dịch vụ việc làm, tại
các trường dạy nghề, mở các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ từ nhỏ đến
lớn....Người được hưởng lợi ích của Chương trình quốc gia giải quyết việc làm,
trước hết là người lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển của XKLĐ đã chứng minh XKLĐ là một
hoạt động kinh tế không thể tách rời khỏi sự phát triển đất nước của nhiều quốc
gia. Có thể nói, trong Chương trình việc làm quốc gia, XKLĐ giữ một vị trí rất
quan trọng, nếu không nói là chủ yếu trong chiến lược giải quyết việc làm.
Chương trình việc làm quốc gia đã và đang được thực thi nhằm mục tiêu tới
năm 2010 xoá hết đói nghèo. Hàng tỷ đồng đã chi cho Chương trình này nhằm
giúp đỡ người lao động vay vốn để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Điểm mạnh
của XKLĐ là ở chỗ đây là một biện pháp xoá đói giảm nghèo có hiệu quả, đồng
thời tạo ra việc làm và vốn cho người lao động. Đầu tư cho XKLĐ không lớn mà
người lao động lại nhanh chóng có được việc làm với thu nhập cao. Người đi
XKLĐ vừa có điều kiện giúp gia đình họ thoát khỏi đói nghèo, lại vừa có vốn và
tay nghề để tự tạo việc làm sau khi về nước.
2.2. Thực trạng XKLĐ Việt Nam
Việc XKLĐ của nước ta về cơ bản bắt đầu hình thành từ năm 1980. Trong
thời gian qua do tình hình chính trị quốc tế biến động gắn liền với sự biến động của

tình hình kinh tế thế giới, hoạt động XKLĐ nước ta cũng đã có những thay đổi
theo các thời kì nhất định.
Có thể phân chia quá trình biến đổi này thành hai giai đoạn: giai đoạn 1980
đến 1991 và giai đoạn 1992 đến nay
Do khoá luận này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu XKLĐ thập kỉ 90 nên
chúng ta sẽ chỉ phân tích thời kì phát triển thứ 2 của hoạt động XKLĐ, giai đoạn
1992 đến nay mà thôi.
Nếu giai đoạn 1980 đến 1991 nước ta chủ yếu có quan hệ bạn hàng với các
nước Xã hội chủ nghĩa, lao động được xuất khẩu chủ yếu tới các quốc gia thuộc
khu vực Đông Âu cũ, Irak và Châu Phi thì ở giai đoạn 1992 đến nay hoạt động
xuất khẩu của ta đã được mở rộng ra nhiều quốc gia khác nhau. Từ năm 1992, các
nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của nước ta đều xảy ra các
biến động chính trị lớn dẫn tới sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế.
Mặt khác, ở nhiều nước Châu Phi có chuyên gia của ta làm việc cũng có khủng
hoảng kinh tế, chính trị. Tại Irak xảy ra chiến tranh vùng vịnh khiến cho phần lớn
các quốc gia này đều không còn nhu cầu tiếp nhận lao động và chuyên gia của Việt
Nam nữa. Cùng thời kì này tại nước ta cơ chế quản lý về kinh tế cũng đang từng
bước đổi mới chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Điều này đòi hỏi nước ta phải có những chủ trương, chính sách phù hợp với tình
hình kinh tế trong nước cũng như quốc tế. Xuất hiện cơ chế mới về hoạt động
XKLĐ trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và chức năng thực
hiện kinh doanh dịch vụ xuất khẩu của các doanh nghiệp được cấp phép.
2.2.1. Chủ trương, chính sách xuất khẩu lao động :
XKLĐ được Đảng và Nhà nước coi là “một hoạt động KT - XH góp phần
phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ
tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường
mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các nước”
5
. Đây là một giải pháp giải
quyết vấn đề việc làm “có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài”. Tiếp tục công

cuộc đổi mới theo tinh thần nghị quyết của Đảng, chủ trương phát triển và mở rộng
hợp tác lao động với các quốc gia có nhu cầu sử dụng lao động, nước ta đã và đang
đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, hội nhập với thị trường
lao động thế giới. Tại hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện công tác XKLĐ của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, đồng chí Bộ trưởng đã phát biểu: “Khi thực
hiện đường lối mở cửa, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, lao động Việt
Nam có nhiều ưu thế nhất là trình độ văn hoá, tay nghề khéo léo và giá cả lao động
tương đối rẻ so với các nước trong khu vực. Với ưu thế này, khả năng đưa lao động
Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đặc biệt là ở khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương như Hàn Quốc, Bắc Phi, Trung Đông sẽ ngày càng tăng...
Chương trình XKLĐ phải gắn chặt với tạo việc làm trong nước bằng cách dành ít
nhất 50% ngoại tệ thu được để bổ sung vào quỹ Quốc gia giải quyết việc làm trong
nước và giải quyết việc làm cho lao động khi trở về nước”.
Trong vòng mười năm qua rất nhiều chỉ thị, văn bản, chính sách, nghị định,
thông tư đã được ban hành mà tiêu biểu là :
Các nghị định 370/HĐBT ngày 9 tháng 11 năm 1992 của Hội đồng Bộ
trưởng ban hành quy chế về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài.
Bộ luật lao động nước XHCN Việt Nam ngày 23 tháng 6 năm 1995 qui định
một số điều luật về việc XKLĐ. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về vấn đề tạo việc
làm cho người Việt Nam ở ngoài nước.
Nghị định số 07/CP ngày 20 tháng 01 năm 1996 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều khoảng của bộ Luật Lao động về đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc có thời hạn tại nước ngoài (Đây là nghị định thay thế nghị định
370/HĐBT)
5 Nguồn: Chỉ thị số 41-CT/TW, ng y 22/9/1999.à
Nghị định số 152/2000/NĐ - CP ngày 20 tháng 9 năm 2000 của chính phủ
qui định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm có thời hạn ở nước
ngoài. Đây là văn bản pháp lý hiện hành, thay thế Nghị định số 07/CP. Nghị định
qui định rõ: “Chính phủ khuyến khích các cơ quan, các tổ chức và người Việt

Nam ở trong và ngoài nước thông qua các hoạt động của mình tham gia tìm kiếm
và khai thác việc làm ở nước ngoài phù hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật Việt
Nam và pháp luật nước sử dụng lao động Việt Nam”.
2.2.2. Động thái hoạt động XKLĐ Việt Nam giai đoạn 1992 - 2001
2.2.2.1. Về quá trình thực hiện
Bước vào giai đoạn này do trong những năm đầu chuyển đổi sang cơ chế
mới, các doanh nghiệp vừa thoát khỏi sự bao cấp của Nhà nước còn gặp rất nhiều
khó khăn, bỡ ngỡ trong việc tìm kiếm thị trường, đôi khi còn trông chờ vào sự giúp
đỡ, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước. Giai đoạn 1992 - 1994 là một giai đoạn khó
khăn và không thuận lợi với nước ta, chỉ có một số ít doanh nghiệp là kí được hợp
đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số lượng nhỏ vào khoảng 5.000
lao động.
Những năm sau đó, các doanh nghiệp của chúng ta đã bước đầu có sự chủ
động trong nghiên cứu tìm hiểu thị trường, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các
nước có truyền thống XKLĐ để mở rộng thị trường sang các khu vực mới, từng
bước hoà nhập vào thị trường quốc tế. Tính tới thời điểm hiện nay chúng ta đã tiếp
cận và thâm nhập được vào thị trường lao động ở nhiều nước và khu vực trên thế
giới như Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi... ngoài ra, cũng đang
từng bước mở rộng thị trường lao động tới một số bán đảo Nam Thái Bình Dương
và khu vực Bắc Mĩ.
Chỉ tính riêng tới thời điểm năm 2000, Bộ Lao động và Thương binh Xã
hội đã cấp giấy phép cho 79 công ty, trong đó có 2 công ty thuộc Bộ Lao động -
Thương binh Xã hội, 18 công ty thuộc Bộ Giao thông vận tải, 6 công ty thuộc Bộ
Xây dựng, 15 công ty thuộc UBND các tỉnh, thành phố và một số công ty thuộc
các Bộ, ngành, đoàn thể khác...hoạt động trong lĩnh vực này. Cho tới năm 2001 đổi
và cấp thêm giấy phép cho một số doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp được
cấp giấy phép hoạt động chuyên doanh là 159 doanh nghiệp. Trong đó: Doanh
nghiệp Nhà nước TW: 81; Doanh nghiệp Nhà nước địa phương: 62; Doanh nghiệp
đoàn thể: 13 (trong đó liên minh hợp tác xã: 4 doanh nghiệp, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam: 1 doanh nghiệp, Đoàn thanh niên Cộng sản HCM: 5 doanh nghiệp,

Công đoàn: 1 doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp: 2 doanh nghiệp);
Doanh nghiệp tư nhân: 3 (Công ty TNHH Đỉnh Vàng - Hải Phòng, Công ty TNHH
Quốc Dân - Hà Nội, Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Thuận Thảo - TP Hồ
Chí Minh)
Trong tổng số 159 doanh nghiệp có giấy phép này đã có 106 doanh nghiệp
ký được hợp đồng (trong năm 2001 có 79 doanh nghiệp kí được hợp đồng). Có 19
doanh nghiệp được cấp giấy phép từ năm 2000 trở về trước vẫn chưa có hợp đồng.
Các lĩnh vực mà doanh nghiệp nước ta tham gia chủ yếu là làm dịch vụ cung ứng
lao động, nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên doanh liên kết chia sản phẩm
ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài hay đầu tư đưa lao động đi tu nghiệp tập
nghề ở nước ngoài sau một thời gian trở về làm việc cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Thời gian qua các công ty như công ty VINACONEX, công ty LOD, công ty
OLECO, VIETRAXIMEX, SULECO, SOVILACO, TRACIMEXCO, TRACODI,
Tổng công ty xây dựng Sông Đà, công ty COALIMEX, INTERSERCO, INLACO
SAIGON, VITRASCHART và TRAENCO... đã tham gia hoạt động và mang lại
những thành quả nhất định, ngoài ra còn có một số các công ty xây dựng của ta
trúng thầu trong việc làm đường ở Lào, xây nhà ở Arâp Xêút...
2.2.2.2. Kết quả đạt được
Mặc dù sau năm 1991, số lao động xuất khẩu sang thị trường các nước Đông
Âu giảm sút đáng kể, hoạt động XKLĐ của nước ta cũng vẫn đang ngày một gia
tăng với số lượng lao động đi sang nước ngoài cao, tốc độ tăng trưởng tương đối
vững chắc năm sau cao hơn năm trước.
BIỂU 2.2 : SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG ĐƯỢC XUẤT KHẨU TỪ NĂM
1992 ĐẾN NĂM 2001
Đơn vị tính : người
Năm Số lao động được đưa đi XKLĐ
1992 1.022
1993 810
1994 3.960
1995 9.230

1996 10.050
1997 12.660
1998 18.470
1999 12.240
2000 21.810
2001 31.500
Tổng số 121.752
Nguồn : Cục quản lý lao động với nước ngoài
Phân tích biểu đồ: Số lượng lao động xuất khẩu trong 10 năm qua tăng rõ
rệt, nhất là vào những năm gần đây. Giai đoạn đầu do còn có nhiều khó khăn về cơ
chế quản lý và kinh nghiệm cùng với việc thị trường bị thu hẹp, số lao động được
xuất khẩu đi có giảm sút từ năm 1992 đến 1993. Tuy nhiên cho tới năm 1994 tình
hình này đã được cải thiện, số lao động xuất đi các nước tăng nhanh trong những
năm tiếp theo. Năm 1994 số lượng XKLĐ là 3.960 tới năm 1995 đã tăng lên thêm
gần 3000 người, đây là con số khả quan tạo động lực cho các doanh nghiệp nước ta
tiếp tục vững bước phát triển và ổn định thị trường. Cho tới giai đoạn năm 1996,
1997 con số tăng trưởng lao động trong lĩnh vực XKLĐ bị giảm sút so với năm
trước, nhưng năm 1997 là năm tiến hành Đại hội Đảng VIII, Đảng và Nhà nước bắt
đầu cải cách nền kinh tế thị trường, đưa ra những chính sách và đường lối mới cho
hoạt động kinh tế của nước ta. Bởi vậy, bước sang năm 1998 chúng ta đã thu được
kết quả khả quan cao. Tỉ lệ lao động xuất khẩu lại một lần nữa tiếp tục tăng cao, số
lao động được xuất sang thị trường nước ngoài là 18.470 tăng 5810 lao động so với
năm trước. Sang năm 1999 do những biến động của thị trường thế giới và khu vực,
cùng với sự suy giảm kinh tế thế giới, số lượng lao động xuất khẩu của ta lại một
lần nữa giảm sút xuống còn 12.240 thấp hơn cả giai đoạn năm 1997. Đứng trước
tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã kịp thời chấn chỉnh và ban hành những Nghị
định mới nhằm hỗ trợ việc XKLĐ điển hình là việc đưa ra nghị định
152/2000/NĐ-CP, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia khác có nhu cầu sử
dụng lao động tạo ra thị trường mới cho các doanh nghiệp trong nước. Có thể nói
năm 2000 là năm thu hoạch của nước ta trong lĩnh vực này, số người đi lao động

tại các thị trường nước ngoài tăng 9570 người, cao nhất từ trước tới giờ, mang lại
một nguồn ngoại tệ hơn 1 tỉ đô la Mĩ cho quốc gia, tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho lao động trong nước. Nhận thức được rõ vai trò của XKLĐ trong năm
2001, nước ta đã xuất khẩu được 31.500 lao động sang thị trường các nước, tạo
bước tăng đáng kể trong hoạt động kinh tế quốc gia. Và theo thống kê của Cục
quản lý lao động với nước ngoài, chỉ tính riêng 5 tháng đầu năm 2002 này, số lao
động xuất khẩu của nước ta đã tăng vọt lên 41.200 người, cao hơn cả tổng số lao
động đi làm việc ở nước ngoài của các năm trước gần đạt mục tiêu đề ra của Đảng
và Nhà nước cho XKLĐ toàn năm 2002. Xét tổng quát số lao động đưa đi làm việc
tại nước ngoài 5 năm từ 1997 đến 2001 ta có là 96.680 người tăng gấp 3,8 lần so
với thời kì 1992 đến 1996. Thu nhập bình quân của mỗi lao động đi xuất khẩu đạt
trung bình 400 USD/ tháng. Số ngoại tệ thu về cho ngân sách nhà nước thời kì
1997 - 2001 ước tính hàng năm đạt khoảng 220 triệu USD chưa kể số lao động hết
hợp đồng hiện đang sinh sống, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh ở Liên
Xô cũ và các nước Đông Âu. Nếu tính cả những người này thì số tiền chuyển về
nước hàng năm của lao động nước ta sẽ lên tới 1,25 tỷ USD
6
.
Phân tích riêng tình hình năm 2001 có thể thấy rõ, đây là năm đầu tiên cả
nước triển khai thực hiện Nghị định số 152/CP/2000 của Chính Phủ. Đây cũng là
năm thị trường tiếp nhận lao động nước ngoài có những thay đổi cơ bản về nhu
cầu, chất lượng, và cơ cấu. Đó là sự đòi hỏi ngày càng cao về trình độ tay nghề,
ngoại ngữ, ý thức kỉ luật, sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật, phong tục tập quán
cũng như các quy định quốc tế. Điều này trở thành các tác động tích cực đối với
nước ta trong quá trình thực hiện nhiệm vụ XKLĐ. Không bỏ lỡ thời cơ, Đảng và
6 Nguồn: Số liệu của Cục quản lý lao động với nước ngo i.à
Nhà nước trong năm qua đã chỉ đạo sâu sát cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các
Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp xuất khẩu được hơn 3 vạn lao động đạt
125% so với kế hoạch Chính phủ giao và đạt 105% kế hoạch do Bộ Lao động -
Thương binh xã hội giao tăng 44,3% so với năm 2000. Trong đó có: 18.500 lao

động đi theo hợp đồng cung ứng lao động; 4.000 lao động đi theo hợp đồng nhận
thầu; 7.068 lao động đi theo hợp đồng hợp tác trực tiếp, 1.900 đi theo hợp đồng cá
nhân
Trong tổng số 79 doanh nghiệp được kí hợp đồng thời hạn năm 2000 (đã
nêu ở phần 2.2.1.2) có: 8 doanh nghiệp đưa được trên 1000 lao động đi làm việc ở
nước ngoài, 4 doanh nghiệp đưa được từ 500 lao động đến 1000 lao động, 8 doanh
nghiệp đưa được 200 lao động đến 500 lao động.
2.2.3. Cơ cấu xuất khẩu lao động theo ngành.
Để phù hợp với yêu cầu của các quốc gia sử dụng lao động, thập kỉ qua cơ
cấu ngành nghề cũng đã có những sự chuyển đổi phù hợp.
Nếu như trước đây, số lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước Đông Âu
và Liên Xô cũ chủ yếu là lao động phổ thông, trừ một số lao động đi theo hình thức
hợp tác chuyên gia giữa nước ta và các nước như Ăngola, Angiêri...lao động Việt
Nam đều được đưa đi theo diện “tình anh em”, “vừa lao động, vừa đào tạo”. Chính
vì vậy nên chất lượng lao động đưa đi thường là thấp, nhất là trình độ tay nghề và
ngoại ngữ.
Sang tới giai đoạn thực hiện đổi mới cơ chế này, do yêu cầu của các nước
tiếp nhận lao động đòi hỏi trong việc tuyển chọn lao động đưa đi xuất khẩu, trình
độ tay nghề chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ của người lao động nước ta
đã có những chuyển biến rõ rệt, các ngành nghề được đào tạo cũng đa dạng hơn rất
nhiều so với thời kì trước đây.
BIỂU 2.3 : SỐ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU CHIA THEO NGÀNH NGHỀ
TIẾP NHẬN TỪ NĂM 1992 TỚI 2000
Đơn vị tính: người
Ngành nghề Số lượng
Xây dựng 23.000
Cơ khí 8.000
Mộc 1.500
Dệt may 11.000
Thuyền viên đánh cá 5.500

Thuyền viên tàu cá 9.000
Chuyên gia giáo dục, y tế và nông nghiệp 1.500
Các nghề khác và lao động phổ thông 29.640
Tổng số 89.140
Nguồn: Cục quản lý lao động nước ngoài, năm 2001.
Số liệu trong biểu cho thấy, tuy có nhiều thay đổi nhưng lao động nước ta
xuất sang các nước khác vẫn chủ yếu là lao động phổ thông hoặc lao động có trình
độ thấp. Đa số họ làm các nghề về xây dựng, dệt may, đánh cá, chỉ có một số ít là
làm các nghề đòi hỏi trình độ cao như chuyên gia giáo dục y tế và nông nghiệp,
mộc, vận tải biển.
Tới năm 2001 cơ cấu ngành nghề này đã có thay đổi tuy chưa đáng kể. Các
nghề làm thuyền viên đánh cá, may mặc, điện tử tăng cao với số người tham gia
ngày càng đông. Chỉ tính riêng lĩnh vực thuyền viên đánh cá có 5500 người chiếm
khoảng 30% so với lao động trên biển, thêm vào đó còn xuất hiện một số ngành
nghề mới như giúp việc nội trợ, xây dựng phần mềm và lập trình viêc quốc tế...
Đây mới chỉ là con số ít chưa đáng mừng, do vậy trong những năm tới để có thể
duy trì và mở rộng hơn nữa mối quan hệ bạn hàng với các quốc gia trên thế giới và
trong khu vực, Việt Nam còn cần phải nâng cao hơn nữa công tác đào tạo trình độ
và ngành nghề cho người lao động và chuyên gia.
2.2.4. Cơ cấu xuất khẩu lao động theo các thị trường xuất khẩu
Từ năm 1992 đến nay, ngoài các thị trường chủ yếu cũ mà chúng ta đã có từ
trước như thị trường Liên Xô, thị trường các nước Đông Âu, Irak... thị trường lao

×