Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ NỘI DUNG CỦA KẾ HOẠCH HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.85 KB, 22 trang )

NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ NỘI DUNG CỦA
KẾ HOẠCH HOÁ
I. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Khái luận nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam (về phương diện lý luận ) là nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó việc giả quyết các vấn đề lớn của nền
kinh tế như sản xuất cái gì?, sản xuất như nào?, sản xuất cho ai?, sản xuất ở đâu?
được quyết định bởi thị trường, thông qua các quy luật của thị trường như quy luật
cung cầu, quy luật giá trị, …
2. đặc điểm
- Vế vấn đề sở hữu, chúng ta thực hiện nền kinh tế đa thành phần ứng với
mỗi thành phần là một loại hình sở hữu khác nhau như sở hữu Nhà nước, sở hữu tư
nhân, sở hữu tập thể,…như vậy thông qua việc nhận thức lại, nhận thức đúng
chúng ta đã thực hiện đúng với thực tế đòi hỏi cho sự phát triển hơn ít nhất là trong
vấn đề sở hữu,..
- Về vai trò của Nhà nước, Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế,
thực hiện phát triển thị trường cũng như thực hiện các giải pháp – biện pháp thúc
đẩy, khuyến khích thị trường, cơ chế thị trường phát triển. Tạo ra một cơ chế: Nhà
nước điều tiết thị trường và thị trường điều tiết sản xuất, Nhà nước thực hiện điều
tiết thị trường thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như luật pháp, các chính sách,
kế hoạch hoá (một công cụ duy nhất tác động mền dẻo vào nền kinh tế,..),…Thị
trường thực hiện giải quyết các vấn đề lớn của nền kinh tế thông qua các quy luật
của thị trường,…
Tóm lại: Nhà nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Vậy thực chất nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp.
II.NỘI DUNG CỦA KẾ HOẠCH HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Cùng với sự đổi mới một cách toàn diện, thì kế hoạch hoá cũng không
ngừng được đổi mới theo hướng ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Nếu như trong
cơ chế tập trung nội dung của kế hoạch hoá mới chỉ dừng lại ở kế hoạch, một nội
dung trong các nội dung của kế hoạch hoá, thì nay nội dung của kế hoạch hoá được


mở rộng, bao chùm toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, từ tầm vĩ mô tới vi mô,
tạo thành một mạch liên tục từ đường lối phát triển của đất nước, từ các quan điểm
phát triển cho tới cấp công ty ( chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh),…
Mặc dù kế hoạch hoá được đổi mới, nội dung được mở rộng hơn, sâu sắc hơn,…
nhưng xét về mục đích của kế hoạch hoá thì không bao giờ thay đổi, nó vẫn là việc
nhận thức các quy luật khách quan, vân dụng các quy luật vào trong quá trình phát
triển để thúc đẩy, rút ngắn thời kỳ phát triển nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân,
đem lại mức sống cao cho nhân dân, đem lại tiến bộ xã hội,..
1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
a. Khái luận chung về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Chiến lược có thể hiểu là những mưu tính, những quyết sách về các vấn đề
lớn, các vấn đề trọng đại, các vấn đề có tính chất toàn cục và lâu dài của một quộc
gia, một tổ chức. Tuỳ theo cách đặt vấn đề, phạm vi của chiến lược mà người ta có
thể có các loại chiến lược khác nhau. ở tầm vĩ mô ta có các chiến lược phát triển
kinh tế, chiến lược phát triển xã hội, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
chiến lược quân sự,… ở tầm vi mô ta có chiện lược kinh doanh như chiến khác biệt
hoá,… Tuy nhiên ở đây chỉ xin được đề cập tới chiến lược ở tầm vĩ mô.
Chiến lược phát triển kinh tế là chiến lược mà mục tiêu của nó là nhằm vào
các vấn đề về kinh tế, nhấn mạnh đặc biệt vào các mục tiêu kinh tế, đi sâu vào quá
trình tái sản xuất xã hội, cụ thể là đi vào giải quyết các vấn đề như cơ cấu kinh tế
(cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu theo sở hữu,..), thể chế kinh tế (pháp luật, cơ cấu tổ
chức,…),… trong đó đặc biệt quan tâm tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trên cơ
sở đó hinh thành nên các chiến lược khác nhau như chiến lược phát triển ngành nào
đó (ngành công nghiệp, nông nghiêp,…) chiến lược phát triển hướng nội, chiến
lược phát triển hướng ngoại,…Chiến lược phát triển kinh tế thường xuất hiện và rất
được coi trọng trông giai đoạn đầu của sự phát triển, vì trong giai đoạn đầu của sự
phát triển thì con người thường đặt các mục tiêu kinh tế nên hàng đầu, hơn nữa giải
quyết vấn đề kinh tế là giải quyết được điều kiện cần của sự phát triển,…
Chiến lược phát triển xã hội là chiến lược mà trong đó việc đạt được các
mục tiêu về xã hội được đặt nên hàng đầu, đối tượng của các chiến lược phát triển

xã hội là hướng vào con người, hướng vào sự phát triển toàn diện của con người.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là chiến lược đi liền với mục tiêu phát
triển kinh tế là các mục tiêu về xã hội , môi trường. chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội thực chất là tổng hợp sự phân tích đánh giá lựa chọn về các căn cứ, các
quan điểm, các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của một đất nước trong một
thời gian dài và đưa ra những chính sách, thể chế cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu
đề ra,…
b. Đặc điểm
• Tính lâu dai ( tính định hướng dài hạn ): Chiến lược thường được xác định
trong một khoảng thời gian dài, khoảng từ 10 – 20 năm. vì bản chất của chiến lược
là có tính định hướng, các mục tiêu có tính chất tổng quát, tính toàn cục cho sự
phát triển của đất nước,…Để giải quyết các vấn đề lớn này đỏi hỏi phải có thời
gian.
• Tính toàn diện: Các vấn đề, các mục tiêu được đề cập trong chiến lược phát
triển thường mang nặng tinh định tính, tính toàn cục. Phản ánh một cách toàn diện
mọi mặt của đời sống xã hội như các vấn đề về kinh tế, các vấn đề về văn hoá,…
• Tính hệ thống: Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là hệ thống bao gồm
nhiều chiến lược hợp thành. Theo cấp quản lý thì có chiến lược quốc gia như chiến
lược quốc gia về quân sự, chiến lược quốc gia về phát triển một ngành công nghiệp
mũi nhọn,…; các chiến lược địa phương như chiến lược phát triển ngành nông
nghiệp của một tỉnh nào đó,…; các chiến lược phát triển các ngành ( thuộc sự quản
lý của các bộ ) như chiến lược phát triển từ năm 2001 tới năm 2010 của nghành
công nghiệp,…; các chiến lược cấp công ty ( chiến lược kinh doanh ).. Tính hệ
thống được thể hiện trong tất cả các nội dung củâ chiến lược, từ việc xác định các
mục tiêu, các quan điểm phát triển, các nội dung củâ chiến lược cho tới khi thực
hiện và đi vào tổng kết đánh giá hiệu quả của chiến lược, tính hệ thống là một đặc
trưng của chiến lược và thể hiện tập trung ở tính thống nhất, tính toàn diện, tính
cân đối trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội …
• Tính hiệu quả: Vấn đề hiệu quả là vấn đề có tính chất quy luật phổ biến. nó
biểu hiện ở sự nâng cao hiệu quả của đời sông xã hội về mọi mặt về cả vật chất lẫn

tinh thần. Để đảm bảo đặc trưng này thì việc lựa chọn các bước đi, các chính sách,
các giải pháp nhằm huy động các nguồn lực thực hiện mục tiêu chiến lược tính
toán và cân nhắc trên nguyên tắc hiệu quả,…
• Tính mềm: chiến lược phải bảo đảm tính năng động, tính linh hoạt nghĩa là
phải có nhiều phương án khác nhau, các phương án này hoàn toàn có thể thay thế
cho nhau, bảo đảm kịp thời sửa đổi theo những biến động lớn của thực tế khách
quan (bảo đảm điều chỉnh theo các phương án thích hợp)…
• Tính đột phá: Như chúng ta đều biết nhân quả là tất yếu, như vậy thì trong quá
trình phát triển, sự phát triển luôn là “tích số” nó không phải là phép “cộng” thuần
tuý. Trong phát triển của một con người cũng như của một tập thể hay một xã hội
thì cái chủ quan của con người luôn luôn là cái quyết định. đặc biệt là trong việc
tạo ra bước nhảy cho sự phát triển. Như vậy thì chiến lược với tư cách là hoạt
động chủ quan của Nhà nước phải luôn có tính đột phá, phải là công cụ đem cái
chủ quan của cả xã hội quyết định sự phát triển của mình, cụ thể la việc đạt được
muc tiêu của chiến lược phải là việc đạt được sự phát triển có tính chất nhảy vọt,
có tính chất bước ngoặt, phải là sự đạt được một lượng lớn về mặt chất của sự phát
triển
c.Nội dung của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Các quan điểm phát triển. Là những tư tưởng có tính chất chỉ đạo, chủ đạo.
Thể hiện định hướng chủ đạo nhất, các quan điểm này có tính chất bước ngoặt,
bước nhảy lớn. Nó tạo nên động lực của toàn bộ quá trình phát triển. Các quan
điểm phát triển hợp thành một hệ thống gọi là hệ thống các quan điểm phát triển ,
hệ thống này thể hiện rõ mục đích cuối cùng của sự phát triển , thể hiện rõ mô hình
phát triển (Việt Nam trong những khủng hoảng trước khi đổi mới về thực chất là
khủng hoảng về mô hình phát triển ), thể hiện rõ bản chất của chế độ xã hội, thể
hiện cách thức đạt được mục đích. ví dụ: trong chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội của Việt Nam từ 1990 tới 2000 ta có 5 quan điểm chủ yếu sau:
Một là: quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa, thực chất là khẳng định lại,
nhất quán lại đường lối xã hội chủ nghĩa. Thông qua quan điểm này cho phép ta
xác định cơ cấu nền kinh tế là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở

hữu khác nhau; kết hợp phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội .
Hai là: quan điểm về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ thị trường và có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Ba là: quan điểm về thực hiện nền kinh tế mở, thực hiện mở cửa nền kinh tế,
đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế
thế giới. Ta xác định quan hệ –tham gia kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức
quốc tế trên quan điểm hợp tác đôi bên cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền độc lập
dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ,..
Bốn là: quan điểm về hiệu quả kinh tế – xã hội, coi hiệu quả kinh tế – xã hội
là tư tưởng, quan điểm quan trọng nhất của sự phát triển, các đơn vị sản xuất kinh
doanh phải có hiệu quả, phải có lãi, phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm với Nhà
nước và với xã hội theo luật định.
Năm là: quan điểm kêt hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với ổn
định - đổi mới chính trị tăng cường củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội …
c. Xác định các mục tiêu của chiến lược
Mục tiêu phát triển của chiến lược là mức phấn đấu cần đạt được trong thời
kỳ chiến lược. Nó biểu hiện những biến đổi quan trọng của nên kinh tế một cách
toàn diện. mục tiêu của chiến lược bao gồm hai phần: phần định tính và phần định
lượng.
Về mặt định tính: thường được mô ta bằng lời văn trong đó mô tả sự phát
triển chủ yếu của một quốc gia về mọi phương diện như về trình độ hiện đại hoá
của nền kinh tế, trình độ phát triển của nền kinh tế khi kết thúc thời kỳ chiến lược ,

Về mặt định lượng: thường được biểu hiện bằng con số như tới năm 2000
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9 –10%. Trong xu thế chung của kế hoạch hoá thì
cac mục tiêu mang nặng tính chất định lượng (tới mức tối đa mà điều kiện cho
phép) vì trước đây ta thường xác định phần định lượng quá cao trong các mục tiêu,

Yêu cầu Trung tâm Thương mại Truyền hình:

Việc xác định mục tiêu phát triển phải xuất phát từ khả năng thực tế, từ các
đòi hỏi của cuộc sống cũng như các đòi hỏi của thời đại. Hướng tới việc không
ngừng nâng cao đời sống xã hội, làm thay đổi bộ mặt xã hội nhằm mục tiêu góp
phần vào việc đạt được tiến bộ xã hội . về bản thân các mục tiêu phải bảo đảm tính
hiện thực, tính mềm dẻo, tính linh hoạt,…cụ thể như trong chiến lược 1990- 2000
chúng ta đã xác định mục tiêu như sau:
Về mặt định tính: thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển con người một cách toàn diện
(lấy chiến lược phát triển con người làm trung tâm), tập trung giải quyết vấn đề về
môi trường, môi trường sống,…
Về mặt định lượng: phấn đấu đạt mức tăng trưởng cả thời kỳ chiến lược là
6,8%, tới năm 2000 thu nhập bình quân trên đầu người tăng gấp đôi,..
d. Các giải pháp và các chính sách trong chiến lược
Thực chất của các giải pháp và các chính sách là các hướng dẫn cụ thể về
các cách thức thực hiện, nhằm đảm bảo việc đạt được các mục tiêu đã đề ra. vấn đề
với việt nam hiện nay là xây dựng các giải pháp, chính sách hướng vào việc đổi
mới và hoàn thiện cơ chế vận hành kinh tế cụ thể là chúng ta đang hoàn thiện một
cơ chế: cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nghĩa là chúng ta đã - đang
đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý, cơ chế thị trường thông qua việc tổ chức lại, cơ
cấu lại chủ thể quản lý,… việc xây dựng, hình thành và phát triển các thị trường
như thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ,…về cơ bản ta có các chính sách,
các giải pháp sau:
• Các chính sách về tổ chức bộ máy cán bộ, các chính sách nay có tính
chất quyết định vì vai trò to lớn của tổ chức, tính hai mặt của tổ chức,…
• Các chính sách - giải pháp về tăng cường kinh tế đối ngoại nhằm
hướng dẫn các phương châm hoạt động thực hiện quan hệ kinh tế với nước ngoài,
giải quyết các vấn đề xuất – nhập khẩu, các vấn đề về cán cân thanh toán quốc tế,

• Các chính sách hướng về dân số , việc làm, các chính sách kiểm soát
tốc độ tăng dân số, cac chính sách hướng nhiệp, tạo việc làm,…

• Các chính sách về thu nhập, cải thiện tình hình thu nhập, bảo đảm
công bằng xã hội,…
• Các chính sách về văn hoá, giáo dục, khoa học tài nguyên và môi
trường, các chính sách về an ninh quốc gia, về quốc phòng,…
e. Vai trò của chiến lược
Chiến lược làm căn cứ để hoạch định các quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội. việc xây dựng, thực hiện, quản lý các quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội phải xuất phát từ chiến lược; chiến lược còn là cương lĩnh
hành động của quản lý xã hội. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay việc quản lý
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì Đảng ta xác định quản lý bằng pháp
luật, bằng các chính sách, bằng kế hoạch và thông qua kế hoạch. Trong đó chúng ta
xác định kế hoạch là một công cụ quan trọng để quản lý; Ngoài ra chiến lược còn
là một bước cụ thể hoá đường lối, cụ thể hoá các quan điểm phát triển, là cầu lối
giữa đường lối phát triển của Nhà nước với thực diện của đời sống xã hội,..
2. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội

×