Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.96 KB, 34 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
1.1 Khái quát chung về khu công nghiệp ( KCN )
1.1.1 Khái niệm về KCN ( Industrial Zone )
Hình thức đầu tư vào KCN còn gọi là KCN tập trung mới xuất hiện ở Việt
nam sau khi chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo hình thức khu chế xuất .
Khu công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo một
kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ tầng,
phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển của một liên hiệp các ngành công
nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh.
Ở Việt Nam, theo Điều 2 “Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao ”, được Chính Phủ ban hành năm 1997 có quy định:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính Phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh
nghiệp chế xuất.
1.1.2 Đặc điểm cơ bản của khu công nghiệp.
Khu công nghiệp là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn
liền phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô
thị, phân bố dân cư hợp lý. Khu công nghiệp có những đặc điểm chính sau đây:
Khu công nghiệp có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong khu để thành lập các
nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ tục xin phép
và thuế đất (giảm hoặc miễn thuế).
Nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ nước ngoài hay các tổ
chức, cá nhân trong nước. Ở các nước, Chính Phủ thường bỏ vốn xây dựng cơ sở
hạ tầng như san lấp mặt bằng, làm đường giao thông... Ở Việt Nam, Nhà nước
không có đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng khu công nghiệp được hiểu là tiến hành kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và
trong nước kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng.


Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp dành chủ yếu
cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên để tăng
thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và hàng hóa
tiêu dùng, các nhà sản xuất trong khu công nghiệp rất quan tâm đến việc sản xuất
hàng hoá có chất lượng cao với mục đích thay thế hàng nhập khẩu.
Mọi hoạt động kinh tế trong khu công nghiệp trực tiếp chịu sự chi phối của
cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản lý kinh
tế trong khu công nghiệp lấy điều tiết của thị trường làm chính.
Khu công nghiệp có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là một
vương quốc nhỏ trong một vương quốc như khu chế xuất. Các chế độ quản lý hành
chính, các quy định liên quan đến ra, vào khu công nghiệp và quan hệ với doanh
nghiệp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong khu công nghiệp sẽ là các tổ
chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các điều kiện
bình đẳng.
Khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả doanh nghiệp 100%
vốn trong nước.
Ra đời cùng với loại hình khu chế xuất, khu công nghiệp cũng sớm gặt hái
được nhiều thành công ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt là các nước đang phát
triển.

1.1.3. Phân biệt giữa khu chế xuất và khu công nghiệp.
1.1.3.1. Khái niệm khu chế xuất ( KCX )
Khu chế xuất là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Anh là “Export
Processing Zone”. Xung quanh khái niệm chung này cho đến nay có nhiều quan
niệm cụ thể khác nhau với nhiều định nghĩa tương ứng. Thông thường nội hàm của
khái niệm này thường thay đổi tùy theo thời gian và không gian cụ thể. Cho đến
nay các nhà kinh tế học còn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm khu chế xuất.

Ở Việt Nam, khu chế xuất thường được hiểu theo nghĩa hẹp, theo đó, “Khu
chế xuất là một khu vực công nghiệp tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và
thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất là khu
khép kín, có ranh giới địa lý được xác định trong quyết định thành lập khu chế
xuất, nhưng biệt lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuất bằng một hệ thống
tường rào. Khu chế xuất được hưởng một quy chế quản lý riêng quy định tại Quy
chế khu chế xuất "
Như vậy, về cơ bản khu chế xuất là khu kinh tế tự do. ở đó, các xí nghiệp
công nghiệp được tổ chức ra để chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Thông thường,
nước chủ nhà đứng ra xây dựng các cơ sở hạ tầng của khu chế xuất, xây dựng công
trình sản xuất và phục vụ đời sống ở đây, sau đó kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài
mang vốn, thiết bị, nguyên vật liệu từ nước ngoài vào và thuê nhân công của nước
chủ nhà tổ chức thành lập khu chế xuất, tiến hành sản xuất hàng hoá để bán trên
thị trường thế giới. Các mặt hàng dưới dạng máy móc, thiết bị, nguyên liệu nhập
khẩu vào khu chế xuất và hàng hoá xuất khẩu từ khu chế xuất ra thị trường thế giới
đều được miễn thuế. Tuy nhiên, ở một số khu chế xuất, cũng có hoạt động kinh
doanh mua bán lại công nghệ, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu trong nội bộ khu
chế xuất hoặc giữa các khu chế xuất với nhau và việc bán hàng hoá do khu chế
xuất sản xuất ra trên thị trường nước chủ nhà. Chính vì vậy, nó được gọi là khu chế
biến xuất khẩu (hay còn gọi là khu chế xuất). Tuy nhiên, còn có một số tên gọi
khác như: Khu mậu dịch tự do (Malaysia), đặc khu kinh tế (Trung Quốc), khu chế
xuất tự do (Hàn Quốc)... Mặc dù cách gọi tên cụ thể là rất khác nhau, nhưng nhìn
chung ở các khu vực này chủ yếu là các hoạt động sản xuất và chế biến còn hoạt
động mua bán thì rất ít hoặc không thấy .
1.1.3.2. Phân biệt giữa khu công nghiệp và khu chế xuất
Điểm giống nhau
Khu công nghiệp và khu chế xuất đều là những địa bàn sản xuất công nghiệp
gồm nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp lý
riêng, có ban quản lý riêng do Chính Phủ thành lập. Về cơ sở hạ tầng, khu công
nghiệp, khu chế xuất đều được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện

dại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp
công nghiệp.
Về cơ cấu ngành, khu công nghiệp, khu chế xuất đều gồm các ngành truyền
thống như nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ hải sản... mà trong nước có lợi thế so
sánh và các ngành công nghiệp mới như điện tử, lắp ráp...
Điểm khác nhau
Khu công nghiệp có phạm vi hoạt động rộng hơn khu chế xuất, nó không chỉ
bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở
ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu
thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp,
khác với khu chế xuất chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đãi từ
phía Chính Phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp
chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ được
hưởng chế độ ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như
trong khu công nghiệp.
Khu chế xuất là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất khẩu.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ ngoại
thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường nước
ngoài. Khu chế xuất là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ khu chế xuất ra
nước ngoài và từ nước ngoài vào khu chế xuất không phải chịu thuế xuất nhập
khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh
nghiệp khu công nghiệp với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh
nghiệp chế xuất trong khu công nghiệp được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong
khu chế xuất). Khu công nghiệp không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản
xuất tập trung.
Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp khu chế xuất được hưởng thuế thu nhập
10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất; nộp 15% và miễn
2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ. Còn doanh nghiệp khu công nghiệp nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm

trong 2 năm; 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và trong 2
năm.
Đối với nước sở tại, thì khu chế xuất có nhiều mặt lợi hơn so với khu công
nghiệp. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây:
+ Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa nên
nhìn chung là không cạnh tranh với nền sản xuất trong nước.
+ Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, nguồn
ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của khu chế xuất .
+ Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ trương
xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là khó
khăn đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức
sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều kiện cạnh
tranh của thị trường quốc tế. Do các khó khăn trên mà các nhà đầu tư nước ngoài
thường quan tâm đến hình thức khu công nghiệp, nhằm tận dụng lợi thế về thị
trường nội địa. Do đó, việc xây dựng thành công các khu chế xuất thường gặp khó
khăn hơn là khu công nghiệp. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình
khu công nghiệp là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một
vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều khu công nghiệp hoạt động sẽ có hàng
nghìn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều
này sẽ tạo ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ưu
đãi nhiều hơn cho khu chế xuất, làm cho nó có đủ sức hấp dẫn mạnh hơn đối với
các nhà đầu tư so với khu công nghiệp. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu
công nghiệp và khu chế xuất là không ít khó khăn nhưng việc kêu gọi các doanh
nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một khu chế
xuất hay khu công nghiệp phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút
được.
1.1.4. Vai trò của các KCN

Với chức năng là những hạt nhân số một, những đòn bẩy của các vành đai
công nghiệp, các hành lang hay tam giác tăng trưởng kinh tế của cả nước, khu công
nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân.
1.1.4. 1. Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ
Sau chiến tranh thứ hai, nhiều quốc gia đã giành được độc lập dân tộc do
không muốn lệ thuộc vào chính quốc, đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá- hiện
đại hoá nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế, họ thường vấp
phải vấn đề thiếu hụt ngoại tệ nghiêm trọng, khả năng tích luỹ bên trong hầu như
chưa có. Kết quả là họ phải chuyển hướng chiến lược từ công nghiệp hoá hướng
nội sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Vì thế, một trong những
biện pháp hiệu quả đối với các nước này là áp dụng mô hình khu công nghiệp và
khu chế xuất để thu hút các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và thu ngoại tệ. Thực
tế ở nhiều nước xuất khẩu , hàng sản xuất ra từ các khu công nghiệp chiếm tỷ lệ
đáng kể trong tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu của nước đó. Trong giai đoạn đầu
hoạt động của các khu công nghiệp , mục tiêu tăng thu ngoại tệ của các khu công
nghiệp nhìn chung không đạt được, vì các doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu
được từ xuất khẩu để nhập khẩu công nghệ, thiết bị tiên tiến. Ở đây cái lợi là nhập
khẩu nhưng không mất ngoại tệ.
1.1.4.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài
Với qui chế quản lý và hệ thống chính sách ưu đãi, các khu công nghiệp sẽ tạo
ra một môi trường đầu tư kinh doanh, thuận lợi; có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài; từ đó giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp cận vốn đầu
tư và công nghệ tiên tiến, học được phong cách quản lý hiện đại. Hơn thế nữa, việc
phát triển khu công nghiệp cũng phù hợp với chiến lược của các công ty đa quốc
gia (TNCs) trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tiết kiệm chi phí,
tăng lợi nhuận, tranh thủ thuế quan ưu đãi từ phía nước chủ nhà, khai thác thị
trường rộng lớn ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy mà số vốn đầu tư vào các
địa bàn này không ngừng tăng lên. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới (WB),
các dự án thực hiện trong khu công nghiệp hầu hết do các nhà đầu tư nước ngoài

hoặc do liên doanh với nước ngoài thực hiện (khoảng 43% các dự án do đầu tư
trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài, 33% do các nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện). Do vậy, khu công nghiệp đã đóng góp đáng kể trong việc
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ví dụ, ở Đài Loan và Malaixia trong
những năm đầu phát triển, khu công nghiệp đã thu hút khoảng 60% số vốn FDI.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí, ưu đãi về
chính sách và cơ chế, khu công nghiệp, khu chế xuất còn khuyến khích thu hút các
nhà đầu tư trong nước - một nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng có ý nghĩa rất
quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn còn chưa được khai thác và sử dụng một
cách xứng đáng. Khu công nghiệp sẽ tạo môi trường và cơ hội phát huy năng lực
về vốn cũng như sản xuất kinh doanh trong cùng một điều kiện ưu đãi đối với các
nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, các doanh nghiệp trong
nước có điều kiện và cơ hội để tiếp thu kinh nghiệm quản lý, trình độ điều hành sử
dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại của người nước ngoài, bồi
dưỡng nhân tài, thử các phương án cải cách để tiến dần đến trình độ thế giới.
1.1.4.3. Tạo công ăn việc làm
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình trạng phổ biến ở các nước kém
phát triển cũng như các nước đang phát triển là dân số gia tăng hết sức nhanh
chóng, song tốc độ tăng trưởng kinh tế lại rất chậm, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư thấp.
Tình trạng đó dẫn tới hậu quả tất yếu là thiếu chỗ làm việc, nạn thất nghiệp ngày
càng gia tăng, trở thành sức ép lớn đối với chính phủ. Để giải quyết vấn đề này,
Chính Phủ các nước muốn tận dụng các khu công nghiệp để giải quyết việc làm,
tạo thu nhập cho người lao động. Điều này có thể làm được vì các chủ đầu tư nước
ngoài cũng muốn sử dụng nguồn lao dộng dồi dào và rất rẻ của nước chủ nhà để
tăng thêm lợi nhuận. Tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động ở các
trình độ khác nhau. Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao động
nhàn rỗi. Ngoài một bộ phận được đào tạo, có một tỉ lệ lao động đáng kể là lao
động phụ nữ, trẻ, chưa lập gia đình, không có tay nghề và từ vùng nông thôn ra làm
việc. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng thế giới, đến nay các khu công nghiệp
đã thu hút được 30 triệu lao động so với giữa thập kỷ 80 chỉ là 500.000 lao động,

trong đó, châu Á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất nhờ phát triển loại hình này.
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về việc làm và thu nhập của công nhân
làm việc trong các khu công nghiệp . Đó là họ không được nắm giữ các cương vị
chủ cốt như tổng giám đốc và thủ quỹ mà chỉ nắm giữ các cương vị quản lý trung
gian, thiết kế chế tạo... Tiền lương của công nhân làm việc cho các khu công
nghiệp thường thấp hơn rất nhiều so với tiền lương trả cho công nhân ở các nước
phát triển khi cùng làm một công việc tương tự. Trong các khu công nghiệp , nhất
là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì hầu như không có tổ chức công đoàn
bảo vệ quyền lợi công nhân hoặc nếu có thì hoạt động kém hiệu quả . Song nếu so
sánh tiền công giữa công nhân làm việc trong KCN so với công nhân làm việc
ngoài KCN thì mức lương của công nhân làm việc trong KCN vẫn cao hơn. Ngoài
ra họ còn được hưởng những khoản phụ cấp ngoài lương khác như phụ cấp ăn trưa
và có phương tiện đưa đón... Như vậy, về mặt công ăn, việc làm và thu nhập, khu
công nghiệp đã mang lại lợi ích rõ rệt cho nước chủ nhà.
1.1.4.4 Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện
đại
Sau khi giành được độc lập, hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào tình
trạng phổ biến là thiết bị sản xuất cũ, quy trình công nghệ lạc hậu mà những yếu tố
này lại đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Do đó, họ coi việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại một
cách nhanh chóng và hiệu quả nhất không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là
mục tiêu có tính chiến lược. Kinh nghiệm xây dựng kinh tế của nhiều nước cho
thấy, việc ứng dụng tiến bộ công nghệ của nước ngoài là một trong những bí quyết
phát triển. Sao chép những phương pháp có hiệu quả hơn, đưa chúng vào áp dụng
trong nước thường là một giải pháp mang tính truyền thống. Nhưng đối với các
nước nghèo thì lại không dễ dàng như vậy. Có thể nước nghèo cũng có nhiều
chuyên gia kỹ thuật được trang bị những tri thức công nghệ hiện đại, nhưng chỉ
riêng họ thôi thì không thể giải quyết được toàn bộ những vấn đề của một nước
nghèo, bởi lẽ có quá nhiều hàng rào ngăn cản. Cần thấy rằng bản thân công nghệ
tiên tiến đã được phát triển là để đáp ứng các điều kiện đặc biệt của các nước tiên

tiến như lương cao, tư bản dồi dào so với lao động và có nhiều kỹ sư lành nghề,
trong khi đó điều kiện này lại không có ở các nước nghèo. Chính vì vậy có một
giải pháp khác thay thế giải pháp truyền thống này, đó là việc đẩy mạnh đầu tư vào
các KCN. Qua đó, người nước ngoài sẽ đưa vào khu công nghiệp những thiết bị kỹ
thuật tiên tiến, qui trình công nghệ hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu
chuẩn quốc tế có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, cũng từ đó thúc đẩy các
doanh nghiệp của các vùng, các khu vực đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao
từng bước chất lượng sản phẩm.
Xuất phát từ các trang thiết bị hiện đại, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, các cán
bộ quản lý, các công nhân kĩ thuật và viên chức làm việc tại các khu công nghiệp
sẽ được đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho thích hợp và trực tiếp tiếp thu tác phong
công nghiệp, kinh nghiệm quản lý, phương pháp kiểm tra chất lượng hiện đại,...
thích ứng với cơ chế thị trường và đạt hiệu quả cao. Những kết quả này không chỉ
mang lại cho khu công nghiệp mà nó còn tác động mạnh đến việc thay đổi công
nghệ, trang thiết bị, chất lượng sản phẩm, cơ chế hoạt động, kiến thức và phương
pháp quản lý của các doanh nghiệp bên ngoài, làm cho các doanh nghiệp này cũng
đổi mới để đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.1.4.5. Tăng cường các mối liên kết và tác động tới bộ phận còn lại của nền
kinh tế
Một trong những mục đích thiết lập khu công nghiệp là thúc đẩy sự phát triển
toàn diện trong vùng, thực hiện marketing trên thị trường trong nước, mở cửa nền
kinh tế trong nước cho hệ thống mậu dịch và tài chính quốc tế, phát triển hợp tác
kinh tế đối ngoại và trao đổi kỹ thuật, đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá đất nước.
Các khu công nghiệp được coi như một bộ phận gắn liền của chính sách mở cửa ra
thế giới bên ngoài, tăng cường mối liên kết trao dổi kinh tế và kỹ thuật với thế giới.
Hơn nữa, việc phát triển khu công nghiệp còn tạo ra sự tác động trở lại đối
với những động thái phát triển của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc
các khu kinh tế đặc biệt này sử dụng vật liệu trong nước, hoặc qua việc doanh
nghiệp trong nước lắp ráp, chế biến và dịch vụ cho các khu công nghiệp .
Người ta cho rằng ảnh hưởng của các KCN đối với phần còn lại của nền kinh

tế thông qua hiệu ứng số nhân của Keynes. Thí dụ, ở Philipin, ngoài việc làm trực
tiếp đem lại cho công nhân ở khu chế xuất khoản tiền bình quân hàng tháng 10
triệu peso, các KCN còn tạo việc làm gián tiếp cho các địa phương xung quanh.
Tiền lương và tiền công trả cho công nhân trong KCN cộng với tiền mua các vật
liệu linh kiện và dịch vụ ở địa phương của các doanh nghiệp thuộc KCN theo hiệu
ứng số nhân có thể cung cấp việc làm cho hơn 10.000 công nhân bên ngoài. Và nếu
như tỷ lệ tiêu dùng là 2/3 thu nhập thì 10 triệu peso thu nhập của công nhân sẽ góp
phần làm tăng thu nhập của các khu vực lân cận tới 30 triệu peso.
Nhìn chung, ảnh hưởng của khu công nghiệp đối với sự phát triển của nền
kinh tế là rõ ràng. Tuy nhiên, ở mỗi nước, ảnh hưởng đó có mức độ khác nhau. Một
điều khác cũng đáng lưu ý là dù mục tiêu của Nhà nước chủ nhà như thế nào đi
chăng nữa thì cũng phải đáp ứng được ở một mức độ nhất định những yêu cầu và
mục tiêu của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia. Bởi vì,
có thu hút dược đầu tư của các công ty này thì khu công nghiệp mới hoạt động có
hiệu quả, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực xung quanh.
Tóm lại, có thể nói, khu công nghiệp là công cụ khá hữu hiệu để một đất nước
khởi động sự phát triển các lĩnh vực công nghiệp hướng về xuất khẩu, thay thế
nhập khẩu và sử dụng nhiều lao động trong nước, thu hút vốn đầu tư, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý của các nước đang phát triển. Về lâu dài, các khu công nghiệp
tác động gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế qua khâu chuyển giao công nghệ và qua
những mối liên kết khu công nghiệp với nội địa. Cho dù còn có nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề lợi ích của các khu công nghiệp song đây vẫn là một giải pháp
thích hợp với giai đoạn đầu của quá trình đẩy nhanh sự phát triển của các nước
đang phát triển vì nó phù hợp trình độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư trong giai đoạn
đầu chuyển sang cơ chế thị trường, là con đường mở cửa để gia nhập vào nền kinh
tế thế giới.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới KCN
Cũng như bất kỳ mô hình phát triển kinh tế nào, để thành lập khu công
nghiệp đòi hỏi phải thoả mãn những điều kiện nhất định. Đó là những yếu tố quan
trọng nhất, những điều kiện cần và những điều kiện đủ để đảm bảo cơ sở cho sự

thành công của mỗi khu công nghiệp trong việc thành lập và triển khai hoạt động,
nhằm thực hiện đúng vai trò của nó đối với sự phát triển chung của đất nước.
Có thể nói, điều kiện thành lập khu công nghiệp chính là sự thoả mãn các
yếu tố liên quan đến sự đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi và khả năng sinh lợi
cho các nhà đầu tư, đồng thời liên quan đến lợi ích cho địa phương có khu công
nghiệp và đảm bảo thực hiện các mục tiêu của nước chủ nhà đề ra khi quyết định
thành lập khu công nghiệp bằng sự thành công của chính các dự án này. Cũng tuỳ
tính chất của từng khu công nghiệp dự định sẽ thành lập mà đòi hỏi phải đáp ứng
các yếu tố khác nhau, nhưng nói chung các khu công nghiệp cần thoả mãn các
điều kiện chủ yếu sau:

×