Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Mô hình của ĐHQGHN bản chất của giáo dục hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.54 MB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i>Nhân dịp 20 năm Chính </i>


<i>phủ ban hành Nghị định </i>


<i>về ĐHQG, GS.TSKH Đào </i>


<i>Trọng Thi (Ủy viên Ban </i>


<i>chấp hành Trung ương </i>


<i>Đảng, Ủy viên Thường vụ </i>


<i>Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ </i>


<i>ban Văn hoá, Giáo dục, </i>


<i>Thanh niên, Thiếu niên và </i>


<i>Nhi đồng Quốc hội, nguyên </i>


<i>Bí thư Đảng uỷ, Giám đốc </i>


<i>ĐHQGHN) trao đổi với Bản </i>


<i>tin ĐHQGHN về những </i>


<i>ấn tượng của ông đối với </i>


<i>thành quả mà ĐHQGHN </i>


<i>đã đạt được trong chặng </i>


<i>đường 20 năm phát triển.</i>



<i>Thưa Giáo sư, từ lý do nào dẫn đến nhu </i>
<i>cầu phải xuất hiện mô hình đại học mới </i>
<i>như ĐHQGHN? </i>


Vào thời điểm đầu những năm 90 của
thế kỷ trước, cả nước đang trong quá
trình đổi mới. Giáo dục và giáo dục
đại học nói riêng cũng đang bước vào
công cuộc đổi mới. Khi bàn về đổi mới
cơ cấu hệ thống của trường đại học,


<b>MOÂ HÌNH</b>

<b>ĐHQGHN</b>




<b>BẢN CHẤT CỦA GIÁO DỤCÐHIỆN ĐẠI</b>



<i>GS.VS Đào Trọng Thi</i>


<i>GS.VS Đào Trọng Thi giới thiệu với Thủ tướng Phan Văn Khải quy hoạch xây dựng ĐHQGHN </i>
<i>tại Hòa Lạc, năm 2003.</i>


<i>THANH HÀ (thực hiện)</i>


<b>MỘT CHẶNG ĐƯỜNG VINH QUANG</b>



<i>Ảnh: Bùi Tuấn</i>


<i>Ảnh: Bùi Tuấn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

KỈ NIỆM 20 NĂM CHÍNH PHỦ BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH VỀ ĐHQGHN (1993 - 2013)



đã bắt đầu xuất hiện những ý tưởng mới
từ chính những nhà lãnh đạo hàng đầu
của đất nước. Thủ tướng Võ Văn Kiệt - vị
thủ tướng nổi tiếng về tư tưởng cải cách
của Việt Nam lúc bấy giờ - có ý tưởng xây
dựng một trung tâm đại học mạnh về đào
tạo và nghiên cứu khoa học chất lượng
cao, được ví như một “quả đấm thép”
giúp tạo ra bước phát triển đột phá cho
giáo dục đại học Việt Nam.


Trước đó, hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam phát triển trên cơ sở các trường đại


học đơn ngành, phù hợp với nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung; đào tạo nhân lực


theo kế hoạch nhằm vào làm việc tại các
vị trí việc làm cụ thể trong hệ thống các
ngành nghề. Khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, nhu cầu sử dụng nhân lực thay
đổi, nền kinh tế cần những người lao động
có thể linh hoạt chuyển đổi nghề nghiệp.
Bởi vậy, chúng ta phải trang bị cho sinh
viên kiến thức nghề nghiệp trên một nền
tảng kiến thức chung rộng. Thực tế ấy dẫn
đến yêu cầu phải cơ cấu lại hệ thống các
trường đại học, cần thiết phải có một số
trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực để
đào tạo nhân lực theo hướng trên.
Mặt khác, trong lịch sử giáo dục đại học


hiện đại Việt Nam, Đại học Đông dương
dưới thời Pháp thuộc đã từng là đại học đa
ngành, đa lĩnh vực. Nhiều sinh viên và giảng
viên của Đại học Đông dương là những
bậc tiền bối rất nổi tiếng như Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, cố Tổng Bí thư Trường Chinh,
cố Chủ tịch Lào Souphanouvong, nhà khoa
học nổi tiếng Louis Paster, GS. Tôn Thất
Tùng, GS. Hồ Đắc Di... Sau Cách mạng
tháng Tám, Đại học Đông dương phát triển
thành Đại học Quốc gia Việt Nam của Nhà
nước Việt Nam độc lập. Như vậy, mô hình


ĐHQG có sự kế thừa từ một đại học đã có
trong lịch sử giáo dục nước nhà.


Việc ban hành Nghị định mới số 186/2013/
NĐ-CP là quyết định đúng đắn, có tầm
chiến lược của Đảng và Nhà nước để thực
hiện sứ mạng đầu tàu đổi mới giáo dục đại
học ở Việt Nam. Đây cũng là nguyện vọng
của đông đảo cán bộ, nhà khoa học, nhà
giáo, nghiên cứu sinh, học viên, sinh viên
ĐHQGHN.


<i>Vậy trong hình dung ban đầu của những </i>
<i>người sáng lập, ĐHQGHN sẽ có những đặc </i>
<i>trưng khác biệt gì so với các đại học hiện </i>
<i>thời ?</i>


Chắc chắn là phải khác biệt và phải là một
mơ hình đại học hiện đại, phù hợp với


xu thế phát triển đại học thế giới. Trong
suy nghĩ của chúng tôi, ĐHQGHN phải
đáp ứng 3 tiêu chí: Một là có cơ cấu đa
ngành, đa lĩnh vực, nghĩa là phải có các
lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội và nhân văn, kỹ thuật, công nghệ,
kinh tế, luật, y khoa…; Hai là phải đào tạo
và nghiên cứu khoa học với chất lượng
cao, trình độ cao để xứng đáng với vai
trò đầu tàu đổi mới giáo dục nước nhà;


Ba là được hoạt động theo cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cao, tức là có nguồn
lực và động lực phát triển trên cơ sở được
Nhà nước ưu tiên đầu tư cả về cơ sở vật
chất, tài chính, đội ngũ giảng viên và quan
trọng nhất là được giao cơ chế quản lý và
hoạt động tự chủ.


<i>Một mơ hình đại học mới như vậy hẳn </i>
<i>gây ra nhiều luồng ý kiến trái chiều và có </i>
<i>những khó khăn gì cho những người thực </i>
<i>hiện lúc bấy giờ thưa Giáo sư?</i>


Đúng như vậy. Việc thành lập ĐHQGHN
phải đối mặt với sự nghi ngờ, thậm chí
phản đối của nhiều cơ quan và cán bộ
lãnh đạo. Người ta thắc mắc không biết
phải xếp ĐHQGHN - với cơ cấu chuyên
môn và cơ chế hoạt động đặc thù, không
giống các trường đại học khác như thế -
vào vị trí nào trong hệ thống giáo dục?
Mơ hình cũng mới đối với chính những
người được giao trách nhiệm xây dựng
ĐHQGHN. Đã có một vài phương án được
đề xuất nhằm tạo cơ cấu đa ngành, đa
lĩnh vực cho ĐHQGHN, trong đó có cả ý
tưởng sáp nhập gần chục trường đại học
trọng điểm ở Hà Nội (ĐH Tổng hợp, ĐH
Sư phạm, ĐH Bách khoa, ĐH Y, ĐH Kinh
tế Quốc dân,…). Nhưng sáp nhập các


trường đại học là nhiệm vụ đặc biệt khó
khăn. Cuối cùng, Chính phủ quyết định
bắt đầu từ 3 trường đầu tiên là ĐH Tổng
hợp Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội và ĐH Sư
phạm Ngoại ngữ. Nhưng trên thực tế, các
trường này đều thuộc lĩnh vực khoa học
cơ bản, không những không bổ sung cho
nhau mà cịn trùng lặp, chồng chéo về cơ
cấu chun mơn.


Việc thực hiện cơ chế tự chủ cao của
ĐHQGHN cũng đã rất lúng túng và gặp
nhiều trắc trở vì bấy giờ chưa có tiền lệ về
một đại học trực thuộc Chính phủ và có
quyền tự quyết định nhiều vấn đề trong
hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học,


19


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hợp tác quốc tế cũng như trong cơng tác
tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính... Vào
thời điểm đó cũng cịn rất mơ hồ về đào
tạo chất lượng cao (CLC): thế nào là CLC
và con đường nào để đi tới CLC?
Như vậy cả 3 tiêu chí về ĐHQGHN ban đầu
được hình dung cịn rất giản đơn và việc
thực hiện thì bế tắc và đầy thách thức. Đặc
biệt, việc tổ chức, sắp xếp lại và phát triển
cơ cấu chuyên môn là rất phức tạp. Trong
bối cảnh khó khăn ấy, đã có tư tưởng


muốn khôi phục lại Trường ĐH Tổng hợp
Hà Nội và giải tán mơ hình ĐHQGHN.


<i>Đâu là giải pháp để tháo gỡ những nút </i>
<i>thắt trên thưa Giáo sư?</i>


Sau một thời gian bị “sa lầy” trong việc sắp
xếp, tổ chức lại cơ cấu ĐHQGHN, Đảng uỷ
ĐHQGHN đã quyết định thay đổi phương
thức phát triển cơ cấu đa ngành, đa lĩnh
vực theo hướng phát huy nội lực, tự xây
dựng các lĩnh vực mới trên cơ sở những
ngành học có sẵn. Đại hội lần I của Đảng
bộ ĐHQGHN chủ trương ban đầu thành
lập các khoa trực thuộc ĐHQGHN về các
lĩnh vực mới, từng bước phát triển và đến
khi đủ điều kiện thì nâng cấp thành các
trường thành viên. Một loạt các khoa trực
thuộc đã ra đời sau đó: Khoa Cơng nghệ


được thành lập trên cơ sở Khoa Công nghệ
Thông tin và Khoa Điện tử Viễn thông của
Trường ĐHKHTN; Khoa Kinh tế và Khoa
Luật phát triển từ Khoa Kinh tế Chính trị
và Khoa Luật của Trường ĐHKHXH&NV;
Khoa Sư phạm được xây dựng hoàn toàn
mới… Thế mạnh vẫn được xác định là các
ngành khoa học cơ bản, còn những lĩnh
vực khác thì khơng phát triển tồn diện,
dàn trải mà chỉ lựa chọn phát triển những


hướng hiện đại, mũi nhọn nhất.


Có thể nói đây là sáng kiến lớn của Đảng
bộ ĐHQGHN trong quá trình tìm kiếm con
đường đi phù hợp của riêng mình. Nhờ đó
cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực cơ bản đã
định hình một cách hiệu quả, vững chắc.


<i>Vậy ĐHQGHN đã thực hiện tiêu chí về </i>
<i>chất lượng cao như thế nào?</i>


CLC cũng là một vấn đề hóc búa mà
ĐHQGHN đã phải dày cơng tìm cách
tiếp cận cả về khái niệm và cách thức
thực hiện. Quan điểm về CLC được xác
định là: “chất lượng chung của tất cả
các ngành, lĩnh vực ở mức cao, riêng
chất lượng của các ngành khoa học
cơ bản, công nghệ cao, kinh tế, xã hội
mũi nhọn phải đứng hàng đầu trong cả
nước, ngang tầm khu vực và từng bước
tiếp cận trình độ quốc tế”. Cho đến nay,


kiên trì với mục tiêu CLC, ĐHQGHN đã
có nhiều sáng kiến nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo theo hướng đạt chuẩn
mực quốc tế. Đi theo con đường đó, lĩnh
vực khoa học tự nhiên và lĩnh vực khoa
học sự sống của ĐHQGHN đã đạt thứ
hạng cao trên bảng xếp hạng QS của


châu Á. Một số ngành học được kiểm
định chất lượng theo chuẩn AUN. Hiện
nay Đề án Nhiệm vụ chiến lược đã lựa
chọn một số ngành bậc đại học, chuyên
ngành bậc sau đại học để tập trung đầu
tư phát triển đạt trình độ quốc tế, từ đó
lan toả tạo ra chất lượng cao chung của
ĐHQGHN. Như vậy, ĐHQGHN đã bước
đầu giải quyết thành cơng tiêu chí đào


tạo và nghiên cứu khoa học CLC.


<i>Sự kiện mơ hình ĐHQG được ghi nhận </i>
<i>trong Luật Giáo dục Đại học năm 2013 có </i>
<i>ý nghĩa như thế nào đối với ĐHGQHN nói </i>
<i>riêng và với giáo dục đại học Việt Nam nói </i>
<i>chung, thưa Giáo sư?</i>


ĐHQG đã khẳng định được vị thế của
mình trong một văn bản có tính pháp lý
cao nhất. Luật Giáo dục Đại học không
chỉ ghi nhận đại học đa ngành, đa lĩnh
vực là một loại hình cơ sở giáo dục đại
học, mà cịn xác định 3 tiêu chí ban đầu


<b>MỘT CHẶNG ĐƯỜNG VINH QUANG</b>



<i>Ảnh: Bùi Tuấn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

KỈ NIỆM 20 NĂM CHÍNH PHỦ BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH VỀ ĐHQGHN (1993 - 2013)




của ĐHQGHN là đặc trưng của mơ hình
ĐHQG. Đây là một thành quả vô cùng
to lớn của tập thể lãnh đạo và cán bộ
ĐHQGHN qua các thời kỳ, khẳng định
sự thừa nhận của xã hội và Nhà nước đối
với mơ hình và chất lượng đào tạo của
ĐHQGHN. ĐHQGHN cũng là cơ sở giáo
dục đầu tiên được tặng thưởng Huân
chương Sao vàng. ĐHQGHN đã khẳng
định mình bằng kết quả hoạt động. Đặc
biệt, cách ĐHQGHN tự khẳng định mình
bằng thương hiệu CLC là rất ấn tượng, bởi
trước đấy ở nước ta chưa có ai đưa ra được
khái niệm CLC là gì. Nhưng ĐHQGHN đã
làm được và không chỉ đưa ra cách tiếp
cận hợp lý mà còn thực hiện trên thực tế,


được quốc tế công nhận thông qua kiểm
định chất lượng theo tiêu chuẩn AUN, và
hệ thống xếp hạng đại học quốc tế.
Điều đáng nói là ĐHQGHN đã hoạch định
được một chiến lược phát triển, với cách
đi cụ thể để từng bước khẳng định mình.
Nhận thức của chính lãnh đạo ĐHGQHN
về mơ hình ĐHQGHN cũng có nhiều thay
đổi so với thời kỳ đầu.


Sự kiện này cịn góp phần khẳng định
bản chất của giáo dục đại học Việt Nam


hiện đại, đó là đề cao tính tự chủ, tự


chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại
học, hướng tới tất cả các cơ sở đại học
đều được hưởng các quyền tự chủ như
ĐHQG. Nhiều quyền trước đây chỉ dành
cho ĐHQG thì nay đã được giao cho các
trường đại học khác như tự chủ tuyển sinh,
in bằng, ký bằng tiến sĩ, thạc sĩ… Trên cơ
sở tấm gương của các ĐHQG, Luật Giáo
dục Đại học đã trao thêm các quyền tự
chủ cần thiết cho các trường đại học khác.
ĐHQGHN đã thực hiện tốt trách nhiệm
của người mở đường, là đầu tàu đổi mới
giáo dục Việt Nam. Việc đưa ĐHQG vào
Luật đã thể hiện đúng bản chất và đặc
điểm của giáo dục đại học hiện đại: tính
tự chủ và tự chịu trách nhiệm là thuộc tính


của các cơ sở giáo dục đại học.


<i>Trong suốt quá trình 20 năm qua, ấn </i>
<i>tượng nào về ĐHQGHN là mạnh nhất đối </i>
<i>với Giáo sư?</i>


Có hai ấn tượng rõ nét nhất. Một là
ĐHQGHN đã làm rõ được đặc trưng của
mơ hình ĐHQG với 3 tiêu chí nói trên.
Không chỉ làm rõ khái niệm, cách tiếp cận,
con đường để đạt được mà trên thực tế,


về cơ bản ĐHQGHN đã thực hiện được
những mục tiêu và định hướng trên. Hai
là ĐHQGHN đã khẳng định được mình


trong Luật Giáo dục Đại học - là văn bản
có tính pháp lý cao nhất. ĐHQGHN đã tạo
được niềm tin với xã hội, bước qua ranh
giới khẳng định tính chính thống và tính
pháp lý, đó là sự công nhận của xã hội và
Nhà nước.


<i>Theo Giáo sư, ĐHQGHN nên tập trung </i>
<i>vào vấn đề gì trong thời gian sắp tới?</i>


Trong 3 tiêu chí thì cơ cấu đa ngành, đa
lĩnh vực về cơ bản đã được định hình. Cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao cũng
đã được ghi nhận trong Luật. Chỉ cịn tiêu
chí về CLC ngang tầm khu vực và tiến tới
đạt chuẩn mực quốc tế thì ĐHQGHN mới
chỉ “chạm” được vào một số lĩnh vực ở
tầm khu vực, còn tiến tới ngang tầm quốc
tế là một quá trình lâu dài. Chất lượng
đào tạo tiếp cận trình độ quốc tế là mục
tiêu quan trọng còn phải phấn đấu nhiều.
Qua kiểm định và xếp hạng, chúng ta đã
có bước tiến quan trọng, có thể xem là
ngang tầm khu vực, bây giờ cần vươn lên
tầm quốc tế, như cách mà Đề án Nhiệm
vụ chiến lược đang triển khai. Ngành nào


mạnh thì đến trước, ngành nào yếu hơn
thì đến sau. Hội nhập quốc tế phải hiểu
theo cách đó chứ khơng chỉ là tham gia
vào các hoạt động chung của cộng đồng
quốc tế.


<i>Giáo sư có thể dùng một số từ ngắn gọn </i>
<i>nhất để mơ tả về q trình 20 năm của </i>
<i>ĐHQGHN?</i>


Chặng đường 20 năm qua là một chặng
đường không dài đối với một cơ sở giáo
dục đại học. Nhưng theo tơi nghĩ, những
gì ĐHQGHN đã trải qua cho đến ngày
hôm nay là phi thường, nếu tính đến
những kết quả, thành tựu đã đạt được,
đặc biệt là những khó khăn thử thách
đã vượt qua. Cái phi thường ấy có được
là do tâm huyết, sự kiên trì phấn đấu, sự
kiên cường khơng bỏ cuộc và cả sự sáng
tạo của tập thể lãnh đạo, đội ngũ cán bộ
giảng viên, sinh viên qua các thời kỳ. Với
những con người như thế, tương lai của
ĐHQGHN là rất tốt đẹp.


<i>Xin cảm ơn Giáo sư !</i>
<i>Ảnh: Bùi Tuấn</i>


21



</div>

<!--links-->

×