Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Một số vấn đề trong triết học Phật giáo Trần Nhân Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.04 KB, 62 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN </b>


<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>



---



<b>PHẠM LINH NHI </b>



<b>MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG </b>



<b>TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TƠNG </b>



<b>KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>


<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>



<b>Hệ đào tạo: Chính quy </b>


<b>Khóa học: QH-2015-X </b>



<b> </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN </b>


<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>



---



<b>PHẠM LINH NHI </b>



<b>MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG </b>



<b>TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TƠNG </b>



<b>KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>



<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>



<b>Hệ đào tạo: Chính quy </b>


<b>Khóa học: QH-2015-X </b>



<b> </b>



<b>Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Lan </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>Lời cám ơn </b></i>



<i> Đề tài “Một số vấn đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân </i>


<i>Tông” là nội dung tôi chọn để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau bốn năm </i>


theo học chương trình cử nhân chuyên ngành Triết học tại trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.


Để hoàn thành q trình nghiên cứu và hồn thiện khóa luận này, lời đầu tiên
<i>tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến Cô PGS.TS.Lê Thị Lan thuộc Viện Triết học - </i>


<i>Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi </i>


trong suốt quá trình nghiên cứu để tơi hồn thiện khóa luận này. Ngồi ra tơi xin
chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Triết học đã đóng góp những ý kiến
quý báu cho khóa luận này.


Cuối cùng, tơi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn bên tôi, động viên
tơi hồn thành khóa học và bài khóa luận này.



Trân trọng cảm ơn!




Hà Nội, ngày...tháng... năm 2019


Sinh viên


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>MỤC LỤC </b>


<b>MỞ ĐẦU ... 2 </b>


<b>PHẦN NỘI DUNG ... 7 </b>


<b>CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH THÀNH TRIẾT </b>
<b>HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG ... 7 </b>


<b>1.1. Bối cảnh Phật giáo thời Trần ... 7 </b>


<i><b>1.1.1. Những chính sách buổi đầu của nhà Trần ... 8 </b></i>


<i><b>1.1.2. Vài nét về đời sống tư tưởng đời Trần ... 9 </b></i>


<b>1.2. Một số tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học triết học Phật giáo </b>
<b>Trần Nhân Tông ... 11 </b>


<i><b>1.2.1. Trần Thái Tông – Trần Thánh Tơng, hai vị Hồng đế đầu đời Trần và </b></i>
<i><b>những chủ trương đối với Phật giáo. ... 12 </b></i>


<i><b>1.2.2. Tinh thần siêu thoát của Tuệ Trung Thượng Sĩ. ... 23 </b></i>



<i><b>1.2.3. Trần Nhân Tơng và việc khai sinh ra dịng thiền Trúc Lâm Yên Tử. ... 25 </b></i>


<b>Tiểu kết chương 1 ... 29 </b>


<b>CHƯƠNG 2. MỘT SỐ QUAN NIỆM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN </b>
<b>NHÂN TÔNG VÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT ... 30 </b>


<b>2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tơng về Phật, Phật tính, niết bàn. ... 30 </b>


<i><b>2.1.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật”... 30 </b></i>


<i><b>2.1.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật tính”. ... 33 </b></i>


<i><b>2.1.3. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “niết bàn”. ... 40 </b></i>


<b>2.2. Một số quan niệm về nhân sinh và con đường tu tập giải thốt của Trần </b>
<b>Nhân Tơng. ... 43 </b>


<i><b>2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về nhân sinh. ... 43 </b></i>


<i><b>2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về con đường tu tập và giải thoát... 47 </b></i>


<b>Tiểu kết chương 2 ... 55 </b>


<b>KẾT LUẬN ... 56 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>MỞ ĐẦU </b>


<i><b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b></i>



Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật công nghệ ngày nay, bên
cạnh những thành tựu vĩ đại mà cả nhân loại đã đạt được trong nền văn minh vật
chất thì những giá trị về mặt văn hóa, tinh thần, tơn giáo khơng hề bị xem nhẹ. Mà
ngược lại nó ngày càng được coi trọng và quan tâm hơn. Cùng với thay đổi của xã
hội, trong điều kiện lịch sử mới, các tôn giáo không ngừng thay đổi để ngày càng
thích ứng và phù hợp hơn. Chính sự phát triển và giao lưu giữa các tơn giáo đã góp
thêm phần thúc đẩy nhanh q trình tồn cầu hóa trong các lĩnh vực. Vì vậy, việc
nghiên cứu về tơn giáo nói chung là khơng thể bỏ qua.


Bước vào giai đoạn hậu cơng nghiệp, hay nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri
thức, bên cạnh những điểm mạnh mà công nghệ khoa học kỹ thuật đem lại thì đời
sống tinh thần của con người trong xã hội lại ngày càng phải đối mặt với những áp
lực, những khổ nạn mới như: sự phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh và xung đột, ô
nhiễm môi trường, sự tha hóa về mặt đạo đức, lối sống... Để giúp con người giải
thoát được những khổ nạn ấy, dường như chúng ta không thể không nhắc tới Phật
giáo với những giá trị nhân bản trong việc giải thoát cho con người về mặt nhu cầu
tâm linh, bù lấp khoảng trống và nỗi thất vọng trong lòng con người trong một thế
giới vong thân. Với khả năng điều chỉnh sự cân bằng trong nội tâm, Phật giáo có thể
giúp con người sống hài hòa, an vui hơn trong thực tại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Phật giáo du nhập vào Việt Nam ta từ khá sớm và đã nhanh chóng hịa quyện
với tín ngưỡng bản địa, trở thành một tơn giáo của dân tộc. Trải dài suốt lịch sử phát
triển Việt Nam, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc. Các thiền sư Việt Nam, đặc
biệt là dưới các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã tích cực khi đem tài năng và trí
tuệ của mình phục vụ cho đất nước, cho dân tộc mà không hề cầu lợi, luôn giữ thái
độ xuất thế. Phật giáo do vậy còn tạo nên những yếu tố quan trọng của bản sắc văn
hóa Việt Nam. Cho đến hiện nay, vẫn còn rất nhiều tranh cãi về triết học Phật giáo,
điển hình trong đó là Triết học Phật giáo Trần Nhân Tơng có những đặc điểm và nội
dung gì, tính hiện đại của triết học Trần Nhân Tông nằm ở vấn đề nào... ? Để đi tìm


câu trả lời cho những câu hỏi này, cùng với sự say mê nghiên cứu Phật giáo Việt
<i>Nam, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề trong triết học Phật giáo Trần Nhân </i>


<i>Tông” làm đề tài khóa luận của mình. </i>


<i><b>2. Tình hình nghiên cứu đề tài </b></i>


Là một tôn giáo – triết học lớn, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học
giả trong và ngồi nước, Phật giáo có một khối lượng đồ sộ các cơng trình nghiên
cứu tổng quan hay các khía cạnh khác nhau.


Về khái niệm triết học Phật giáo cũng đã có nhiều bài viết, tiêu biểu là Đỗ
<i>Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tồn cầu hóa” (tạp </i>
chí Khoa học xã hội số 9/006, tr58-66). Trong đây, tác giả đã rất đề cao vai trò của
Phật giáo trong xã hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù
hợp với thời đại. Từ đó, tác giả đã chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn
hiện nay. Tác giả cũng nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái
niệm “nhập thế” được tác giả phân tích, chứng minh là khơng đồng nhất với khái
niệm “thế tục hóa” của phương tây, xu hướng nhập thế của Phật giáo được tác giả
phân tích, chứng minh là khơng đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương
Tây.


<i>Tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc với “Phật giáo dân gian: con đường nhập thế </i>


<i>của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí nghiên cứu tôn giáo số 8/2008, tr25-32) đã đi </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tăng ni, Phật tử và đi đến kết luận: Phật giáo nhập thế là Phật giáo từ bi và đắc
dụng. Sau đó, tác giả đi làm rõ tinh thần nhập thế của Phật giáo dân gian Việt
Nam,...



Nhắc đến Phật giáo Việt Nam nói chung cũng như triết học Phật giáo nói riêng
, chúng ta không thể không nhắc tới Trần Nhân Tơng. Ơng đã kế thừa dịng chảy
của những vị tiền bối đi trước và vận dụng linh hoạt nó vào tư tưởng Thiền giáo.
Nghiên cứu về ông cũng như về tư tưởng Thiền học có khá nhiều cơng trình như
sau:


Tác giả Lê Mạnh Thát cũng có khá nhiều bài báo, bài nghiên cứu về Thiền học
<i>hay cũng như những bài viết về Trần Nhân Tông. Cụ thể là cuốn “Tồn tập Trần </i>


<i>Nhân Tơng” (Nxb Tp HCM, 2000), qua khái quát tổng hợp toàn bộ những tư tưởng </i>


và hành động của Trần Nhân Tông trong công cuộc dựng và giữ nước, đặc biệt tác
giả đi nhấn mạnh vào tài khéo léo ứng dụng đạo Phật trong công cuộc trị quốc, an
dân của Trần Nhân Tông. Ngồi ra Lê Mạnh Thát cịn viết một số cuốn sách như
<i>cuốn “Trần Nhân Tông, con người và tác phẩm” (1999, Nxb Tp. HCM); bài viết </i>
<i>“Một số vấn đề tư tưởng của Trần Nhân Tông” (ngày đăng: Thứ 7, ngày </i>
10/8/2013);... Ở đây, tác giả đã đi nghiên cứu tìm hiểu về Trần Nhân Tông nói
chung cũng như là triết học Phật giáo Trần Nhân Tơng nói riêng.


<i>Tác giả Nguyễn Tài Thư với điển hình trong cuốn “Xu hướng nhập thế trong </i>


<i>tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tơng” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 11/2009, </i>


tr.13-20). Tư q trình phân tích lập luận tác giả đi đến kết luận: Ở Trần Nhân Tông
thể hiện rõ sự thống nhất hai mặt ở con người ông là con người của triều thần và
con người của Phật tử.


Tiếp đến là những cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tài Đơng, trong


<i>“Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tơng” (Tạp chí triết học số 12/2008, tr </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

khẳng định, Thiền học ở Trần Nhân Tông không thoát ly cuộc sống mà lúc nào
cũng thấm đẫm hơi thở của cuộc sống, tất cả vì nhân sinh. Cùng với đó là một số
<i>bài báo, như “Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tông” của tác giả Nguyễn Tài </i>
Đơng (Tạp chí triết học, số 12 (211), tháng 12 – 2008),...


<i>Tác giả Thích Chân Tuệ thì đã cho xuất bản hai cuốn “Cư trần lạc đạo” (Nhà </i>
xuất bản Tôn giáo PI2551 – DL 2007) để giới thiệu cho độc giả một khái khái lược
và bao quát nhất về Trần Nhân Tông. Trong cuốn sách tác giả đã đi vào từng phần
một như: An lạc hạnh phúc, Bát chánh đạo, Bát phong, Bất tuy phong biệt, chánh
kiến và chánh tín,… hay ở tập II, tác giả đã giới thiệu cho độc giả về Chánh ngữ,
Giác ngộ và giải thoát, hay là Làm sao gặp Phật?...


<i>Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với “Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việ Nam </i>


<i>thời Lý – Trần” (Viện nghiên cứu Tôn giáo Hà Nội, 1990, tr39-45). Tác giả đã đưa </i>


lăng kính thời kỳ Lý – Trần để nhìn nhận về tinh thần nhập thế của Trần Thánh
Tông. Và cho độc giả thấy rõ , nhập thế là sự lựa chọn tích cực của Phật giáo Việt
Nam nói chung và Phật giáo Lý – Trần nói riêng, trong đó Trần Nhân Tơng là một
nhân vật điển hình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Như vậy, cho đến nay đã có khá nhiều luận văn, luận án, cũng như các sách
báo của các tác giả đi nghiên cứu về Phật giáo, Triết học Phật giáo nói chung, cũng
như là triết học của Trần Nhân Tơng nói riêng. Với giới hạn nhận thức của bản thân
cũng như giới hạn của bước đầu nghiên cứu, khóa luận của tơi kế thừa và phát huy
<i>kết quả từ những cơng trình nghiên cứu đi trước, từ đó xây dựng nên “Một số vấn </i>


<i>đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân Tơng”. </i>



<i><b>3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài </b></i>


Mục đích của khóa luận là đi tìm hiểu về bối cảnh ra đời thiền phái Trúc Lâm,
cũng như làm rõ một số vấn đề triết học Phật giáo của Trần Nhân Tơng


Để hồn thành mục đích trên, khóa luận của tơi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:


Làm rõ bối cảnh hình thành triết học Phật giáo Trần Nhân Tơng


Phân tích một số tư tưởng nổi bật triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông


<i><b>4. Phạm vi nghiên cứu </b></i>


Khóa luận tập trung nghiên cứu các tài liệu về bối cảnh Phật giáo Việt Nam
thế kỷ XIII và các tác phẩm triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông.


<i><b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu </b></i>


Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, nghiên cứu văn bản... để
lập luận. .


<i><b>6. Kết cấu của khóa luận </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>PHẦN NỘI DUNG </b>


<b>CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH THÀNH </b>
<b>TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG </b>


<b>1.1. </b> <b>Bối cảnh Phật giáo thời Trần </b>



Bắt tay nghiên cứu vào Phật giáo mà bỏ qua Phật giáo thời Trần, thì quả là
một thiếu sót vơ cùng lớn. Vì Phật giáo đời Trần là thời đại mà Phật giáo thật sự hồ
nhập từ hình thức lẫn nội dung, yếu tố đưa đến thành công và những đặc sắc của
đạo Phật.


Đạo Phật thật sự đã được gieo mầm từ lâu và đã trải qua hàng bao thế kỷ, nó
đã thích nghi với con người và phong tục Việt Nam, đến đời Trần là đỉnh cao để
Phật giáo Việt Nam đơm hoa kết nụ sau thời gian dài được Việt Nam hóa. Phật giáo
đã trở thành cốt tuỷ và hồ nhập với nền văn hóa dân tộc. Do đó nó hoàn toàn phù
hợp với tâm tư nguyện vọng của dân tộc Việt Nam ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i><b>1.1.1. Những chính sách buổi đầu của nhà Trần </b></i>


Triều Lý1<sub> tàn tạ và bất lực trong quản lý đất nước đã trở nên cần thiết phải </sub>


được thay thế bằng một triều đại khác. Nhà Trần2<sub> đã thay thế nhà Lý cai trị đất </sub>


nước, ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế và củng cố vương quyền
của dòng họ Trần. Do vậy, các vua Trần đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của
Đại Việt lúc bấy giờ, đồng thời đưa Đại Việt lên vị trí thành một cường quốc ở
<b>Đông Nam Á. </b>


Nhà Trần tuân theo qui luật phát triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Ngay
khi tập trung những quyền lực trong triều đã cho biên soạn một bộ luật mới, đó là
bộ luật hình thư.


Mở rộng đất đai về phía Nam và tiến hành ban cấp hàng loạt ruộng đất cho quí
tộc và quan lại. Ngồi q tộc họ Trần, các vị cao tăng của Phật giáo cũng được
hưởng chế độ ban cấp này. Sự hậu đãi ấy đã dẫn đến sự xuất hiện của các tự viện


lớn.


Với những quyền lực to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự… của quí tộc biểu
hiện những yếu tố phân tán còn tồn tại trong xã hội đời Trần. Tuy nhiên, những yếu
tố đó khơng những khơng gây ra tình trạng cát cứ chống lại chính quyền trung
ương, mà về nhiều mặt còn làm tăng thêm sức mạnh cho triều đình. Sự củng cố
quan hệ họ hàng, bà con trong hoàng tộc bằng lợi ích kinh tế có tác dụng thắt chặt
tinh thần cố kết trong giai cấp thống trị. Điều đó cũng thể hiện rõ trong lời nói của
<i>Trần Thánh Tông với các tôn thất : “Thiên hạ là thiên hạ của Tổ tông, người nối </i>


<i>nghiệp của Tổ tông nên cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú q. Tuy bên </i>
<i>ngồi thì cả thiên hạ tơn thờ một người, nhưng bên trong thì ta cùng các khanh là </i>
<i>đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui”3<sub>. </sub></i>


1<sub> Triều nhà Lý: niên đại kéo dài từ 1009 - 1225 </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Những bước phát triển mới trong chính sách buổi đầu của nhà Trần không
những củng cố thêm cơ sở vật chất của quốc gia phong kiến, mà cịn có tác dụng
quan trọng nâng cao đời sống của người dân và tăng thêm sức mạnh quốc phòng
của đất nước.


<i><b>1.1.2. Vài nét về đời sống tư tưởng đời Trần </b></i>


Theo như chúng ta đã biết, Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ và truyền sang các
nước Đơng Á theo hai đường đó là: phía bắc sang Tây Tạng, Mơng Cổ, Trung Hoa,
Nhật Bản, Triều Tiên; phía đơng sang Miến Điện, Thái Lan, Indonexia và miền nam
Đông Dương. Từ đó đã hình thành hai phái Phật giáo đại thừa và Phật giáo tiểu
thừa.


<i>Trước tiên là Phật giáo đại thừa, Phật giáo đại thừa truyền sang nước ta vào </i>


khoảng đầu công nguyên và phát triển mạnh trong các thế kỷ VII, VIII, IX. Thời
bấy giờ đã có những cao tăng người Việt xuất thân từ tầng lớp hào trưởng. Từ khi
nhà nước dành độc lập, Phật giáo tiếp tục phát triển và được coi là quốc giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

đã cho hồng đệ là Trần Ích Tắc mở trường dạy Nho học. Nhà Trần đãi kẻ sĩ một
cách khoan dung, khơng hẹp hịi, hồ vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai
cũng biết tự lập anh hào tuấn vì vượt ra ngồi lưu tục, làm cho quang vinh cả sử
sách, không thẹn với trời đất.


Bấy giờ, cùng chung thời thịnh với Phật giáo là Đạo giáo. Đền miếu được
dựng lên ở khắp nơi. Số lượng đạo sĩ cũng khá đơng đảo. Trên vũ đài chính trị và tư
tưởng của nước nhà, nhất là trong thời hùng mạnh của triều Trần, sau vị trí chi phối
của Phật giáo chính là vị trí quan trọng của Đạo giáo. Tuy nhiên, gắn liền với sự
phát triển của Phật giáo và Đạo giáo đến thế kỷ XIV, Nho giáo vươn lên lấn át ưu
<i>thế của Phật giáo. Với các thuyết “Thiên mệnh” “Chính danh”, Nho giáo khuyên </i>
người ta ở đời hãy chấp nhận danh phận của mình, trực tiếp bảo vệ trật tự quân chủ,
biện hộ cho quyền áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i> “Nhân loại vĩnh viễn mắc vào ba vấn đề cơ bản: Xung đột với thiên nhiên; </i>
<i>Xung đột với tha nhân; Xung đột với chính mình” Bertrand Russell đã nhận xét </i>


Nhờ có đủ tài đức mà các vị vua Trần đã động viên được sự đoàn kết ủng hộ
của mọi tầng lớp nhân dân. Do đó đã lãnh đạo tồn dân kháng chiến chống quân
xâm lược đạt đến thành công rực rỡ. Lịch sử cho chúng ta thấy, mỗi khi tổ quốc
đứng trước những thử thách khắc nghiệt một mất một cịn thì mọi người cùng đồn
kết bên nhau để bảo vệ sự sống cịn của bản thân mình và sự tồn tại của quê hương
xứ sở. Nhưng muốn thu phục được toàn dân thì các nhà lãnh đạo phải có thực tài
thực đức. Đó là những yếu tố rất tiên quyết mà các vì vua đầu đời Trần đều có đủ.
Nhờ vậy mà họ đã thành công. Theo đà của những cuộc chiến thắng, mọi người đều
phấn khởi tinh thần, do đó đất nước phát huy được nhiều mặt tích cực, như nền


kinh tế mở mang, pháp luật nghiêm minh, chính trị ổn định, võ bị vững chắc, ngoại
giao thắng lợi, văn học khởi sắc, giáo dục được củng cố.v.v… Tất nhiên không loại
trừ cơ hội thuận lợi nhất cho việc phát triển tôn giáo, đê cao và quảng bá chính
pháp. Các nhà lãnh đạo quốc gia lúc bấy giờ vốn là những Phật tử thuần thành. Thế
nên những chiến công chính nghĩa, vẻ vang của họ cũng có thể mặc nhiên xem như
những thắng lợi của Phật giáo. Trong hoàn cảnh mà đất nước trên đà cường thịnh,
dân chúng an cư, lạc nghiệp mọi người có điều kiện phát huy tài năng về nghề
nghiệp của mình để kiến tạo một xã hội thanh bình, xây dựng tương lai tươi sáng,
thì một tôn giáo mang bản chất nhập thế hành động như đạo Phật, hẳn nhiên được
phát triển rực rỡ lúc bấy giờ.


<b>1.2. </b> <b>Một số tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học triết học Phật giáo </b>
<b>Trần Nhân Tông </b>


Về danh nghĩa, tông Trúc Lâm ra đời năm 1229 khi Trần Nhân Tông xuất gia
vào núi Yên Tử tu hành, thu nhận đồ đệ hình thành sơn mơn n Tử. Thế nhưng
trên thực tế, tư tưởng sơn môn Yên Tử phải kể từ khi Trần Thái Tông, Tuệ Trung
thượng sĩ, hai tiền bối của Trần Nhân Tông.4<sub> Cho nên nghiên cứu tư tưởng triết học </sub>


4<sub> Trích trong “Triết học Phật giáo Việt Nam”, tr.415, PGS. Nguyễn Duy Hinh, Nxb.VHTT và Văn </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

thiền phái Trúc Lâm không thể không đề cập tới hai vị tiền bối đó. Dưới đây, dưới
nghiên cứu của một bài khóa luận, tơi đề cập tới 3 vị: Trần Thái Tông, Trần Thánh
Tông, Tuệ Trung thượng sĩ là những người có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng Trần
<b>Nhân Tông. </b>


<i><b>1.2.1. Trần Thái Tông – Trần Thánh Tông, hai vị Hoàng đế đầu đời Trần và </b></i>
<i><b>những chủ trương đối với Phật giáo. </b></i>


Trần Thái Tơng chính là vị tiền bối đầu tiên mà Trần Nhân Tông chịu ảnh


hưởng. Trần Thái Tông tên là Trần Cảnh, con thứ của Trần Thừa, sinh năm Mậu
Dần niên hiệu Kiến Gia thứ tám (1218) Triều Lý. Gia thế ở hương Tức Mặc, phủ
Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc,huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) ông cha làm
nghề đánh cá. Nhờ có công dẹp loạn, họ Trần dần dần có thế lực từ đời Lý Cao
Tông. Trần Cảnh mới có tám tuổi được Lý Chiêu Hồng nhận làm chồng và truyền
ngôi cho, lấy hiệu là Thái Tông. Thế là sự nghiệp nhà Lý đến đây đã chấm dứt. Lịch
sử Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn nhà Trần. Năm Thái Tông
lên 20 tuổi, Lý Chiêu Hoàng 19 tuổi đang là Hoàng hậu, bị Trần Thủ Độ ép Thái
Tông giáng Chiêu Hồng làm cơng chúa, lấy Thuận Thiên là vợ Trần Liễu (anh ruột
Thái Tơng) làm Hồng Hậu. Lý do, vì Trần Thủ Độ nơn nóng Thái Tơng có con để
kế thừa, mà Chiêu Hoàng chậm con, Thuận Thiên đang mang thai.


Trước khi Trần Thái Tông yên tâm ở ngơi báu trị vì đất nước, năm 1236, theo
<i>bài tựa “Thiền tông chỉ nam”, ông đã trốn lên Yên Tử gặp Quốc sư Trúc Lâm đại sa </i>
<i>môn xin đi tu. Theo sách “Thiền uyển tập anh” thì vị Quốc sư này có thể là Viên </i>
Chứng, thế hệ nhà sư thứ hai tu ở Yên Tử. Trần Thái Tông đã chịu ảnh hưởng tư
tưởng Thiền trực tiếp từ vị quốc sư này. Theo lời khuyên của Quốc sư, Trần Thái
Tông đã thuận lòng trở về kinh thành, vừa chuyên tâm cai trị đất nước, vừa gắng
<i>sức nghiên cứu Thiền họ. Sau khoảng 10 năm, ông đã viết cuốn “Thiền tông chỉ </i>


<i>nam”. Sách này nay khơng cịn mà chỉ cịn bài tựa. Theo đó, ta biết được lời khuyên </i>


của Quốc sư và căn cứ vào hành trạng của Trần Thái tơng, ta có thể đốn định rằng
<i>ơng đã thấu triệt tơn chỉ Thiền tông trong lời khuyên này: “Trong núi vốn không có </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không cần khổ cơng tìm kiếm bên </i>
<i>ngồi”</i>5<sub>. </sub>


Qua câu nói này có thể thấy những thành tựu tư tưởng Thiền Phật giáo thời
Lý đã có ảnh hưởng lớn đến các vị trụ trì trên núi Yên Tử, chịu ảnh hưởng của thiền


phái Vô Ngôn Thông, là phái thiền tập trung vào khái niệm tâm. Theo Thiền phái
Vơ Ngơn Thơng thì Phật tức tâm, tâm tức Phật, khi người tu tập khiến cho cái tâm
trở nên trong sạch, trở nên siêu việt trên mọi ý niệm, trở thành “tâm khơng” thì đó
chính là lúc tâm đồng nhất với Phật. Lời của Quốc sư đã chỉ ra những yếu chỉ cơ
bản của Thiền Vô Ngôn: 1-Phật tại tâm (lòng), 2-tu tập đến độ giữ cho tâm yên tĩnh,
phẳng lặng , đạt tới “tâm không” mà thấu đạt mọi lẽ là đạt tới cảnh giới Phật,
3-Giác ngộ được chân lý đó là thành Phật. Với những chỉ dẫn này của Quốc sư, Trần
Thái Tông đã trở về kinh thành và suy niệm, triển khai tư tưởng Thiền theo hai
hướng: 1-tiếp tục triển khai tư tưởng “tâm không” như là bản thể, diệu tính, chân
như của vạn vật và một số tư tưởng Thiền học khác mang tính lý luận siêu hình
uyên áo; 2-hướng dẫn phương pháp tu tập Thiền để thanh lọc thân tâm, hướng tới
giác ngộ. Tất thảy những tư tưởng đó đều có trong sách “Khố hư lục”- sách tập
hợp một số tác phẩm của ông còn lại đến ngày nay. Theo Việt sử tiêu án của Ngơ
Thì Sĩ thì Trần Thái Tơng viết sách này sau khi nhường ngôi vào núi tu hành, trong
khoảng từ năm 1258 đến năm 1277.


<i>“Khóa hư lục” gồm tất cả 3 quyển, trong đó “quyển Thượng” và “quyển </i>


Trung” và “quyển hạ”.


<i>Đầu tiên là Quyển thượng. Trong cuốn này nói về nghĩa “hư vô” và chỉ ra </i>
rằng, vì người ta khơng biết thân mình là hư vơ nên mới chìm đắm ở bến mê, trôi
dạt trong bể khổ và qua lại vòng luân hồi, lên xuống trong khoảng bốn núi, bốn núi
nói ở đây là sinh, lão, bệnh, tử. Trong quyển thượng, tác giả cho rằng thân người là
đáng trọng đáng q, và chính vì thế nên phải biết trân trọng và giữ gìn. Ngồi ra
ơng cũng chỉ ra cho chúng ta biết về ba điều khó gặp của thân, đó là: thứ nhất, trong
sáu đường (lục đạo) thì chỉ có con người là q nhất; thế mà không được làm người


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

mà rơi vào con đường khác - đó là điều khó gặp thứ nhất; điều khó gặp của thân thứ
hai là được làm người nhưng lại sinh ở nơi mọi rợ… khơng được giớ nhân, khơng


nhuần thánh hố; điều khó gặp cuối cùng là tuy sinh ra ở đất nước văn minh nhưng
sáu căn không đủ, bốn thể không tồn.


<i>Theo Trần Thái Tơng, tuy “thân mệnh” là đáng trọng, nhưng cũng còn chưa </i>
trọng bằng cái đạo tối cao. Các bậc thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo.Muốn
vượt vịng ln hồi lục đạo thì chỉ cịn đường tắt nhất thừa (bồ tát). Nên tìm chính
kiến; chớ tin tà sư. Hiểu rồi mới có lối vào; tu được mới hay thốt tục.Đó là mục
đích của Trần Thái Tơng muốn mọi người tích cực đi vào con đường tu hành để
tránh sự mê lầm, để “trở về quê hương”, tức bản lai diện mục, kiến tính thành Phật.


<i>Sau “Quyển hạ” là “Quyển trung” gồm các bài kệ và các bài văn chúc hương </i>
buổi sáng, bài kệ dâng hương, bài kệ dâng hoa và bài văn khải bạch. Quyển hạ bắt
đầu bằng bài kệ răn chúng chập tối, bài văn chúc hương chập tối, bài kệ dâng
hương, bài kệ dâng hoa, bài văn khải bạch, rồi đến mấy bài sám hối về các tội thiệt
căn, thân căn, ý căn, tương đương với ba buổi mặt trời lặn, nửa đêm và cuối đêm,
<i>mỗi bài sám hối cũng đều kèm theo những câu và những bài như ở quyển trung. </i>


<i>Ông quan niệm bản thể là không, thế giới hiện tượng cũng là không, chẳng </i>
qua là do vọng niệm, do cái tâm chấp cảnh mà thành khởi niệm. Một trong những
nét dặc thù của Trần Thái Tông là việc ông dùng hình ảnh “Quê hương” để diễn tả
về cái Phật tính, Tự tính, nhằm khơi dậy tình cảm của con người trên con đường tu
hành giác ngộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Khi bàn về “giới định tuệ” ông cho rằng, con đường của chư Phật chỉ có kinh
Phật mà thơi. Những điều trong kinh khơng ngồi ba việc: Giới định tuệ. Giải thốt
luận nói rằng, giới định tuệ là nói về con đường giải thoát.Giới nghĩa là uy nghi;
định nghĩa là không loạn; tuệ nghĩa là hiểu biết. Giới là giai đoạn đầu; định là giai
<i>đoạn giữa; tuệ là giai đoạn cuối của thiện… Ngoài giới định tuệ, Trần Thái Tơng </i>
cịn bàn về niệm Phật. Mục đích của niệm Phật là nhằm khơi dậy nghiệp chính và
dập tắt ba nghiệp chướng do thân, miệng và ý gây ra.



Bài tựa Thiền tông chỉ nam với quan điểm “Phật không phân biệt Nam Bắc, ở
đâu cũng có thể tu cầu; tính có cả trí ngu, tính nào cũng có thể giác ngộ”. Lời của
Trúc Lâm đại sa môn đã làm cho ông thức tỉnh khi biết tâm trạng của ông muốn vào
núi cầu Phật: Trong núi vốn khơng có Phật, chỉ có trong lịng. Lịng lặng mà biết, ấy
là chân Phật. Ví bằng Bệ hạ giác ngộ lịng ấy, thì lập tức thành Phật, không cần phải
<i>nhọc cầu ở ngồi. Thấm nhuần điều đó, lại đọc kinh Kim Cương có câu “Ưng vơ sở </i>


<i>trụ nhi sinh kỳ tâm” (Đừng bám vào gì mà để lịng vào, tức xem mọi vật đều là </i>


không hết mà đối với mọi vật đều là vô tâm), Trần Thái Tông bỗng nhiên giác ngộ.
Tác phẩm “Khóa Hư Lục” của Trần Thánh Tông đã khẳng định rõ ràng bản
thế của thế giới (Phật tính, chân như, v.v.) tất thảy đều là không. Đã vạch ra phương
pháp đạt đạo (đi đến giác ngộ thông qua tu hành sám hối,…). Đây là một Khóa tác
phẩm mang ý nghĩa lý luận sâu sắc cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được Tuệ
Trung thượng sĩ (Trần Tung) và Trần Nhân Tông cũng như các thiền sư về sau phát
triển thành hệ thống giáo lý quan trọng.


<b>Qua đây, ta có thể rút ra được một số tư tưởng Thiền học căn bản Thiền học </b>
của Trần Thái Tơng đó là lấy tâm làm khái niệm căn bản để chỉ bản thể của thế giới.
Trần Thái Tông kế thừa quan niệm bản thể thế giới là không của Thiền học thời Lý:
“Nguyên lai, tứ đại vốn là không, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ khơng khởi ra hư
vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc tướng là từ cái chân không” 6<sub>. </sub>


<i>Bốn núi chót vót mn khóm xanh, </i>


<i>Hiểu ra thì tất cả là hư vô, vạn vật là không”</i>7


6<sub>Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Nói rộng về bốn núi.Tập 2.Tr. 34. </sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Bên cạnh khái niệm về tính khơng như trên, Trần Thái Tơng cịn đưa ra các
<i>khái niệm “chân tể”, “bản tính”, “chân tâm”. “bản tâm” để chỉ bản thể của thế </i>
<i>giới: “Bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về tròn khuyết, </i>


<i>nếu khơng phải là người trí thì khơng truy cứu đến giềng mối của nó. Nó khơng </i>
<i>hợp, khơng tan, khơng mất, khơng cịn… Vì nó khơng phải hữu cũng khơng phải vơ, </i>
<i>khơng đạo cũng khơng tục, nó độc tồn, siêu nhiên, ngồi nó khơng có gì khác, vì </i>
<i>vậy nó là tự tính kim cương</i>8<sub>. </sub>


Quan niệm chân tâm đồng nhất với tính khơng như trên của Trần Thái Tơng
có rất nhiều điểm đồng nhất với quan niệm về “đạo” của Lão Tử. Điều này cũng
được ông thừa nhận khi tiếp tục quan điểm Thiền học thời Lý cho rằng mọi người
đều có Phật tính, ai ai cũng có thể thành tựu được q trình tu tập, đạt tới giác ngộ
<i>nếu nhận thức được Tâm không: “Nào biết bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay </i>


<i>đâu trí tuệ thiện căn, người người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn tiểu ẩn; đâu nền tại gia </i>
<i>xuất gia.Chẳng nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nề tướng?Người </i>
<i>chưa hiểu chia bừa thành tam giáo; giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”</i>9<sub>. </sub>


Từ quan niệm tâm không đồng nhất với Phật tính, đồng nhất với bản thể của
vũ trụ, Trần Thái Tông đi tới những kiến giải nhận thức luận về thế giới sự vật hiện
tượng bên ngoài.


Lý giải sự xuất hiện của thế giới giả tượng, Trần Thái Tông cho rằng do niệm
khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành. Chân tâm vốn như gương, do vọng niệm mà
<i>trở nên mờ tối, do đó mà có thế giới giả tượng: “Pháp tính như như, khơng vướng </i>


<i>mảy may niệm lự. Chân tâm lặng lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ.Chỉ vì bị che lấp </i>
<i>nên vọng duyên mới khởi, ảo thể hiện thành”</i>10<sub>. Do vậy, cần phải làm cho chân tâm </sub>



trở lại tĩnh lặng, trong sáng để dập tắt vọng duyên, có vậy mới thấy được chân tính,
bản thể.


8<sub> Trích theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nguyễn Tài Thư chủ biên.NXB KHXH.HÀ Nội. 1988. </sub>


Tr. 219-220.


9<sub>Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề.Tr. 50.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>Tuân thủ nguyên lý căn bản của Thiền học “kiến tính thành Phật”. Ông cho </i>
<i>rằng: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”</i>11<sub>. Theo nguyên tắc Thiền học, </sub>


Trần Thái Tơng quan niệm, để kiến tính, thấy được bản tính Phật, thấy được chân
<i>tể, phải “cố thủ nội khán” (quay đầu nhìn vào bên trong), hướng vào tu tập nội tâm </i>
<i>để thấy tính: “Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được rõ tính thành Phật”12</i><sub>. </sub>


Như vậy, Trần Thái Tông tiếp tục xu hướng Thiền học Vô Ngôn Thông, chú
trọng việc chiêm nghiệm tính khơng là bản thể vũ trụ, là chân tể của vạn vật.Khi
quay đầu nhìn vào bên trong (nguyên tắc thanh lọc nội tâm), tu tập để cho tâm bình
lặng, đạt tới trạng thái Tâm Không (dứt mọi niệm), là khi đó đã đạt tới cảnh giới
Phật. Do vậy, Phật tại tâm, khơng cần tìm kiếm đâu xa. Càng tìm kiếm ở ngoại giới
thì càng xa rời “quê hương”- xa rời Phật tính- bởi quá trình tìm kiếm ở ngoại giới
đó sẽ bị lục căn, lục tặc (các giác quan) làm cho mê lầm:


<i>“Mũi quyện mùi thơm, lưỡi tham vị ngọt, </i>
<i>Mắt mờ vì sắc đẹp, tai mê tiếng hát hay. </i>
<i>Mãi mãi làm khách phong trần trôi dạt, </i>


<i>Ngày càng xa quê hương muôn vạn dặm đường”13<sub>. </sub></i>



Qua một số tư tưởng Thiền học căn bản của Trần Thái Tông nêu trong sách
<i>“Khoá hư lục” như trên, chúng ta thấy những tư tưởng này cuả ông một mặt là sự </i>
tiếp nối tư tưởng Thiền học của phái Vô Ngôn Thông dưới thời Lý, mặt khác là sự
lý giải cụ thể hơn và sâu sắc hơn các ngun lý tư tưởng mang tính siêu hình của
Thiền học. Nhờ đó, người học đạo dễ dàng tiếp cận tới chân lý Thiền học hơn là
những bài kệ súc tích mang tính yếu chỉ Thiền dưới thời Lý. Cũng do vậy mà Thiền
học qua cách diễn giải của Trần Thái Tông trở nên gần gũi với nhận thức với người
tu thiền và dân chúng. Đó là đặc trưng tư tưởng Thiền học của Trần Thái Tông.


11<sub>Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Bàn về ngồi thiền. Tr.62. </sub>


12<sub>Nt. Sđd. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tr.48.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Vậy tu tập Thiền như thế nào? Xuất phát từ các nguyên lý tư tưởng Thiền học
căn bản nêu trên và từ các luận thuyết Phật giáo căn bản về Tứ diệu đế, Bát chính
đạo, Nghiệp, Thập nhị nhân duyên… Trần Thái Tông đưa ra những phương pháp tu
tập Thiền để người tu hành không bị mê lầm trên con đường chứng ngộ Phật tính.


Dựa trên lý lẽ của cả Nho, Phật, Đạo, Trần Thái Tông cho rằng: con đường tu
tập, thanh lọc thân tâm trước nhất phải là thực hành ngũ giới: không sát sinh, không
trộm cắp, không mê nữ sắc, khơng nói càn và khơng uống rượu. Như vậy, trên con
đường tu tập thì giới là bước khởi đầu. Đây chính là giai đoạn chế định ham muốn,
kiểm soát bản thân khỏi sự quyến rũ của các giác quan. Tuân thủ triết học Phật giáo
về giải thốt, Trần Thái Tơng dẫn giải q trình đi tới giác ngộ là con đường thiện
và chia con đường giải thoát thành 3 giai đoạn: giới, định, tuệ. Người tu hành thực
hành tốt cả ba giai đoạn thì mới có thể hồn tồn giác ngộ.


Giai đoạn đầu, nếu thành tựu được, người tu tập sẽ vui mừng khiến thân
nghiêng ngả nên vẫn chưa kiểm soát được cái tâm.



<i>Giai đoạn hai của thiện, giúp cho thân dừng lại, giúp tâm đứng vững. “Vì tâm </i>


<i>đứng vững nên nhận biết được sự chân thực. Do vậy gọi là giai đoạn giữa của </i>
<i>thiện”</i>14. Để đạt được giai đoạn hai của thiện là định, ông tập trung vào một số


phương pháp tu tập cơ bản cho người hành thiền: thụ giới, niệm Phật, ngồi thiền.
Thụ giới là việc tiếp nhận giới luật của Phật giáo. Người tu hành như người qua
sông phải dùng bè mảng tiếp nhận giới luật của Phật giáo giống như việc dùng bè
<i>để qua sông vậy. “Giới như thuyền bè vượt qua bể khổ. Giới như chuỗi ngọc làm </i>


<i>cho pháp thân trang nghiêm”</i>15<sub>.Thực hành giới luật Phật giáo chính là để chấm dứt </sub>


nghiệp thân.Cùng với phương pháp thụ giới là phương pháp niệm Phật. Ai cũng có
điều nghĩ, ai cũng có điều nảy sinh.Nghĩ, nảy sinh điều thiện thì nghiệp thiện
khởi.Nghĩ, nảy sinh điều ác thì nghiệp ác khởi. Tất cả đều do tâm động khởi mà
thành ý. Để khơi dậy ý nghĩa chân chính khơng gì bằng niệm Phật. Cuối cùng là
phương pháp Ngồi thiền, mục đích cuối cùng của thiền giả là chứng nghiệm Tâm


14<sub>Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Bàn về giới định tuệ.Tr. 58.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

không, thấy được bản tính, giác ngộ. Trần Thái Tơng nhấn mạnh mục đích và tầm
<i>quan trọng của phương pháp ngồi thiền là: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản </i>


<i>tính. Tuy chịu tất cả mọi tịnh giới mà khơng ngồi thiền thì định lực khơng sinh.định </i>
<i>lực khơng sinh thì ý nghĩ sai lầm khơng diệt được, thế mà lại muốn thấy bản tính, </i>
<i>chẳng cũng khó sao!”16<sub>.Ông cho rằng cả đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể thiền </sub></i>


nhưng chỉ có ngồi thiền mới là phương pháp hiệu quả nhất để dập tắt ý nghĩ, không
để “tâm vượn” trỗi dậy.Tuy nhiên, cũng có người ngồi thiền mà khơng tắt mọi ý
nghĩ thì đó là giả thiền và nguy hiểm như “ngồi dưới núi hắc Sơn trong hang


quỷ”17.Ông cũng chia ngồi thiền làm bốn loại để người tu hành tự kiểm nghiệm xếp
loại hành thiền của mình đang ở mức độ nào.Loại dùng kế lạ làm vui người trên,
chán kẻ dưới mà tu hành gọi là ngoại đạo thiền.Loại hết lòng tin ở nhân quả nhưng
cũng lấy việc làm vui, gây chán mà tu gọi là phàm phu thiền.Loại hiểu rõ lẽ cuộc
sống là không, chứng riêng được đạo chân chính mà tu hành, là tiểu giáo thiền.Loại
hiểu rõ người và pháp đều không mà tu hành là đại giáo thiền. Và Trần Thái Tơng
khuyến khích mọi người tu theo đại giáo thiền18<sub>. </sub>


<i>Giai đoạn tuệ là giai đoạn cuối cùng của Giác ngộ. Theo Trần Thái Tông, “Tuệ </i>


<i>sinh ra từ định lực. Nếu như tâm định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương </i>
<i>tuệ mất”19<sub>. Nhưng ông cũng cho rằng định và tuệ có quan hệ tương hỗ lẫn nhau: </sub></i>


<i>“Cho nên biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định nảy sinh từ tuệ. Định và tuệ nương </i>
<i>dựa nhau, khơng bỏ sót một bên nào”20.nếu ngồi thiền mà tâm khơng định thì </i>


gương tuệ khơng thể sinh, nếu có tuệ tính mà khơng tập ngồi thiền thì cũng khơng
<i>thể đạt được gương tuệ “vắng lặng mà thường chiếu, thường chiếu mà vắng lặng”</i>21<sub>. </sub>


Giai đoạn tuệ là giai đoạn lý tưởng của thiền giả. Đạt được trạng thái tuệ là thiền giả


16<sub>Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Tập 2.Bàn về ngồi thiền.Tr. 62. </sub>


17<sub> Nt. Tr. 63. </sub>


18<sub> Nt. Tr. 63. </sub>


19<sub>Tổng tập Văn học Việt Nam.Sđd. Bàn về gương tuệ.Tr. 63.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

đã đạt được trạng thái tâm không, chứng ngộ được bản tính, giác ngộ được chân lý


Phật tại tâm.


Như vậy, con đường tu tập của thiền giả bắt buộc phải trải qua ba giai đoạn
giới, định, tuệ nói trên. Đó cũng là con đường thiện, thanh lọc thân tâm, quay đầu
nhìn vào bên trong tâm thức, khiến cho thân được trong sạch, kiềm chế được lục
tặc, định được tâm, từ đó mở ra huệ nhãn giác ngộ chân lý nhà Phật. Trì giới, niệm
Phật, ngồi thiền là ba phương pháp căn bản mà thiền giả phải luôn luôn thực hành
trên con đường thiện để đạt được chân lý Phật tại tâm nói trên của Thiền phái.


Trần Thái Tông được coi là người khơi nguồn Thiền học thời Trần. Bộ sách


<i>“Khoá hư lục” là bộ sách mà Trần Thái Tơng đã thâu tóm tồn bộ những yếu chỉ </i>


căn bản về tư tưởng và phương pháp tu thiền của Thiền học Vô Ngôn Thông, diễn
giải chúng hết sức dễ hiểu và đầy đủ trong như trên đã phân tích. Sự tổng hợp và hệ
thống những yếu chỉ Thiền học đó của Trần Thái Tơng khơng chỉ có ý nghĩa xây
dựng những nền tảng cơ bản cho Thiền học thời Trần phát triển, giúp cho người tu
thiền đương thời và hậu thế tránh được những mê lầm trong nhận thức và thực hành
thiền, mà còn giúp phổ biến Thiền học và thu hút quảng đại dân chúng hướng tới tu
Thiền bởi sự giản dị, khúc triết trong cách dẫn giải tư tưởng và phương pháp tu
thiền đó.


<i>Trần Thánh Tơng là cha của Trần Nhân Tơng, vậy nên tư tưởng của ơng có </i>


ảnh hưởng rất lớn tới Trần Nhân Tông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Tư Phúc, thờ quốc sư Đại Đăng làm thầy. Hằng ngày vua thường bàn luận với các
thiền khách, được truyền sâu ý nghĩa thiền, tự là Vô Nhị Thượng Nhân. Vua mất
ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), thọ 50 tuổi.



Trong thời Ngài làm vua thì đất nứớc thạnh trị thái bình. Lúc Trần Thái Tơng
cịn ở ngơi vua thì giặc Ngun sang đánh lần thứ nhất. Thời gian Ngài làm vua thì
khơng có giặc. Khi Ngài truyền ngơi cho Nhân Tơng lên làm Thái thượng hồng thì
giặc Ngun sang đánh lần thứ hai. Nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc đã
được bảo vệ và củng cố một phần lớn là nhờ vua Trần Thánh Tông cùng với con
mình là vua Trần Nhân Tơng lãnh đạo thành công hai cuộc chiến tranh vệ quốc năm
1258 và 1278. Qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc ấy, vua Trần Thánh Tông thể hiện
là một vị anh hùng dân tộc. Trong giai đoạn nắm quyền từ năm 1258 cho đến 1278,
vua Trần Thái Tông đã tiến hành một đường lối ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên
quyết với mục đích giúp dân tộc có đủ thời gian bồi dưỡng tiềm lực nhằm đối phó
với cuộc chiến tranh xâm lược, mà kẻ thù đang tìm cách áp đặt lên nước ta. Chính
nhờ đường lối ngoại giao mềm dẻo ấy, đất nước Đại Việt có hịa bình để chuẩn bị
và xây dựng lực lượng làm cơ sở cho những chiến thắng vang dội trong hai cuộc
chiến tranh vệ quốc năm 1258 và 1278.


Về mặt tư tưởng thì trong học lý Thiền Tông, vua Trần Thánh Tơng có hai
đóng góp lớn. Thứ nhất, nhà vua tiếp thu ảnh hưởng xu thế chung của Phật giáo thời
đại mình cùng với tư tưởng thiền thuộc trường phái Dược Sơn Duy Nghiễm (751 -
841). Chính dưới thời vua Trần Thánh Tông tại ngôi, mà chùa Phổ Minh lịch sử
hiện còn tới ngày nay đã được xây dựng. Thứ hai, vua Trần Thánh Tông đã công
khai chấp nhận trường phái thiền Đại Huệ. Trường phái này do Đại Huệ Tông Cảo
(1089 - 1163) thành lập. Đại Huệ Tông Cảo là một nhân vật lớn của trường phái
Lâm Tế thuộc chi phái Dương Kỳ Phần Hội. Trường phái thiền này ảnh hưởng đến
tư tưởng thiền của vua Trần Thánh Tơng, vì nó phù hợp với xu thế tư tưởng chung
của thời đại nhà vua và đất nước Đại Việt lúc bấy giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

của giai đoạn này là nền Phật giáo thế sự, kêu gọi mọi người cùng đóng góp tuỳ
theo khả năng của mình để xây dựng một thế giới an lạc cho bản thân, gia đình và
cộng đồng.



Ta có thể dễ dàng bắt gặp tư tưởng của Lý Cao trong thơ văn Trần Thánh
Tông. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng ngữ lục tờ 12a8 - b3 chép lại của
vua Trần Thánh Tông đọc thế này:


<i>Bốn chục năm hơn một tấm lịng </i>
<i>Mn trùng cửa ngục vượt ra xong </i>
<i>Động như hang trống gào vang gió </i>
<i>Tĩnh tựa hồ yên trăng sáng trong </i>
<i>Câu nọ năm huyền mình hiểu hết </i>
<i>Đường kia mười chữ mặc xáo xơng </i>
<i>Có người hỏi tớ tin gì mới </i>


<i>Mây tại trời xanh nước ở thùng. </i>
<i>Câu cuối nguyên văn chữ Hán là: </i>
<i>Vân tại thanh thiên, thủy tại bình. </i>


Câu thơ gốc nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 - 841) viết để tặng
cho thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 - 834):


<i>Luyện đắc thân hình tợ hạc hình, </i>
<i>Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh. </i>
<i>Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết, </i>
<i>Vân tại thanh thiên, thủy tại bình. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

những việc làm ấy tốn kém hơn xây dựng cung A phòng và đặt vấn đề: “Đó há
chẳng phải đều lấy từ nhân tài vật lực của trăm họ mà ra đó sao?”. Về sau này, ta
cũng sẽ bắt gặp những nét tương đồng về quan điểm của Lê Văn Hưu (1230-?).


<i><b>1.2.2. Tinh thần siêu thoát của Tuệ Trung Thượng Sĩ. </b></i>



Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Quốc Tung, là con đầu của Khâm Minh
Từ Thiện Đại Vương, là anh cả của Trần Hưng Đạo và Hoàng thái hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông. Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là
tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là An Sinh Vương Trần Liễu khi
ông này mất. Vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi và được phong tước
Hưng Ninh Vương.


Ngay từ nhỏ, ngài đã có lòng mộ đạo Phật. Lớn lên, Tuệ Trung được cử trấn
đất Hồng Lộ, tức là Hải Dương bây giờ. Ơng có cơng hai lần trong việc ngăn chặn
giặc phương Bắc xâm lăng, được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ trấn giữ hải đạo
Thái Bình. Có lần đến thăm Tiêu Dao thiền sư nghe giảng thuyết mà tỉnh ngộ, ngài
liền tuyệt ý công danh chuyên tâm học đạo, từ chức lui về phong ấp là Vạn Niên
Hương, tại đây ông dựng lên Dưỡng Chân Trang làm nơi tu niệm. Vua Thánh Tơng
rất kính trọng, phong tước hiệu ngài là Tuệ Trung Thượng Sĩ và ký thác vua Trần
Nhân Tông cho ngài. Ngài hết lịng dạy bảo vua Nhân Tơng về phần đạo lý. Khi
trong nước có giặc, ngài lại lấy võ công mà giúp vua Nhân Tông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

hồn đạt đến chỗ thanh thoát. Một giai thoại thật lý thú về buổi tiệc trong hoàng cung
mà Khâm Từ hoàng hậu (em gái ngài) làm bữa cơm thịnh soạn để thiết đãi. Thượng
<i>Sĩ gặp gì ăn nấy, gặp thịt ăn thịt. Hoàng hậu hỏi Thượng Sĩ cười đáp : “Phật tự là </i>


<i>Phật, anh tự là anh, anh khơng địi làm Phật, Phật khơng địi làm anh. Chẳng thấy </i>
<i>bậc tu xưa nói Văn Thù tự là Văn thù, giải thốt tự là giải thốt đó ư”.22</i><sub> Một sự ăn </sub>


chay không thể thành Phật được. Quả là một câu nói vơ cùng độc đáo, chứa đựng
đầy ắp tinh thần phóng khống, đúng là cái nhìn của bậc Thượng Sĩ có khác. Ngài
tuyên bố như thế là nhằm đả phá những đầu óc bảo thủ, cố chấp. Tâm luôn luôn mở
rộng cho đến khi không chấp vào cái gì nữa, cả đến Phật cũng khơng cịn nữa. Như
<i>Trần Thái Tơng đã nói trong Khóa Hư Lục “Đến khi Phật cũng không, Tổ cũng </i>



<i>khơng, thì biết giới nào trì, kinh nào niệm”. Bởi thế cho nên Thượng Sĩ bảo đừng </i>


nên chấp vào sự thành Phật để tu, chỉ nên cố giải thoát cho tâm hồn khỏi chấp, như
thế tự nhiên thành Phật. Vì hễ tâm hồn vơ tư thanh tịnh khơng cịn vướng bận một
mảy may ý niệm nào tức thì thành Phật. Để thấy tinh thần siêu phóng lần nữa của
Tuệ Trung Thượng Sĩ, chúng ta nhìn qua lối đối đáp cuối cùng của ngài trước khi
viên tịch.


Sau khi bệnh sơ sài, ngài khơng nằm ở phịng riêng mà nằm ở Dưỡng Chân
Trang. Tại đây giữa nhà trống, ngài kê một giường gỗ, nằm theo phép kiết tường,
mắt nhắm xuôi. Các người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt
<i>ngồi dậy, sai người lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng :“Sống chết là lẽ </i>


<i>thường, sao buồn thảm luyến tiếc chi mà làm não chân tánh ta”23<sub>. Dứt lời, ngài êm </sub></i>


thấm mà tịch. Bấy giờ nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291 ) đời Trần Nhân
Tông, năm Tân Mão, ngày mồng một tháng tư, ngài thọ 62 tuổi. Theo thiền tơng,
Tuệ Trung Thượng Sĩ khơng cịn đặt nặng vấn đề về sinh tử, cũng không cần giải
quyết. Điểm then chốt là thấy được cái không sinh tử ở nơi mình. Cái khơng sinh tử
thênh thang trùng khắp, mà chúng ta không thấy, không biết, cứ nơm nớp lo sợ cái
sinh tử cỏn con tạm bợ . Chúng ta quen nhìn theo con mắt phàm phu coi sinh tử là


22<i><sub> Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, trang 29, H.T Thích Thanh Từ, </sub></i>


/>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

đại, rồi khổ đau với nó. Nếu dùng trí bát nhã quán sát lý nhân duyên, nhơn
duyên hội thì gọi là sinh, nhơn duyên ly tán thì gọi là tử. Sinh tử khơng có thực thể
cố định, chỉ là sự hợp tan của nhơn dun mà thơi. Bởi khơng có thực thể cố định
nên thân này là tạm bợ hư dối, khơng có gì bảo đảm lâu dài. Một qui luật khơng
chối cải được <i>“có hợp thì phải có tan” kể cả thân Phật cũng như thế, cho nên thân </i>



nào rồi cũng diệt. Vai trò nổi bật của Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ trong giới
Phật giáo đời Trần, khơng khác gì với Trưởng Lão Duy Ma Cật ở Ấn Độ, ngài Huệ
Năng ở Trung Quốc, vua Trần Thái Tông ở Việt Nam đã đạt đến chỗ chứng đắc tột
<i>đỉnh, giải thốt hồn tồn. Trong thơ văn Lý Trần tập hai nói : Thượng Sĩ là người </i>


<i>thần thái nghiêm túc, cử chỉ đĩnh đạt. Khi người đàm luận về lẽ cao siêu huyền diệu </i>
<i>thì như gió mát trăng thanh. Đương thời, các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng </i>
<i>đều tôn trọng, cho Thượng Sĩ là người tinh sâu biết rõ, ngược xi thật khó mà </i>
<i>lường được.</i>


Tuệ Trung Thượng Sĩ hẳn là, phải là một bậc xuất thế kiểu như vậy, cho nên
mặc dù ăn mặn và có thê thiếp, thế nhưng cả tăng lẫn tục thời bấy giờ, kể cả Trần
Nhân Tông đều kính trọng như bậc thầy trong đạo, không phải là bậc thầy bình
thường mà là một minh sư xuất sắc lỗi lạc, mà những lời dạy, những câu thiền đã
được Trần Nhân Tông cho khắc in lại, để lưu truyền cho hậu thế đời đời không
<i>quên. Chính vấn đề này mà Hịa Thượng Mật Thể căn dặn rất chân tình: “Chỗ này </i>


<i>rất nên chú ý, đừng nên lầm sự vô ngại của các ngài đã giải thốt với những hành </i>
<i>vi phóng túng bng lung mà ngụy biện là giải thoát. Đối với người tu hành bao giờ </i>
<i>cũng lấy thanh tịnh trì giới làm gốc”. Nói về diện mục và tính cách của Tuệ Trung </i>


Thượng Sĩ, thiết nghĩ bao nhiêu lời trên cũng tạm đầy đủ, thật khó mà diễn tả hết
đặc thù của ngài.


<i><b>1.2.3. Trần Nhân Tông và việc khai sinh ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Vua cha cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu cho ngài, tức là Khâm Từ thái
hậu sau này. Mặc dù sống trong cảnh vui hoà hạnh phúc ấy mà tâm ngài vẫn thích
đi tu. Một hôm vào lúc giữa đêm, ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến


chùa Tháp ở núi Đơng Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá ngài bèn
vào nằm nghỉ trong tháp. Vị sư trụ trì ở đây thấy ngài tướng mạo khác thường, liền
làm cơm thiết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi, tìm thấy, ngài bất đắc dĩ phải trở
về.


Năm 21 tuổi (1279 ), Trần Nhân Tông lên ngơi Hồng đế. Tuy ở địa vị cửu
trùng mà ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, ngài đến chùa Tư
Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa
sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh
<i>chỉ ngài nói:“Biết ơng Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu”, tỉnh giấc, ngài </i>
đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc. Con nguời ngài
rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh Phật giáo)
và ngoại điển (sách đời ). Những khi nhàn rỗi, ngài mời các vị thiền sư khác bàn
giải về thiền tông, tham học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, thâm đắc đến chỗ thiền
tủy. Vua tôn thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy và hết lòng trọng đãi. Ngài nhập tư
tưởng thiền, lại có một tâm hồn nghệ sĩ và khí tiết hào hùng trong việc trị nước an
dân. Trần Nhân Tông là vị vua anh minh đức độ, lại là anh hùng của dân tộc. Tất cả
những đức tính cao cả, trí tuệ, từ bi, bình đẳng, uy dũng đều kết tinh trong con
người của ngài. Nhà vua luôn lấy đức trị dân, trong nước trên thuận dưới hòa, lấy ý
dân làm nền tảng xây dựng nước nhà, vui trong niềm vui của dân tộc.


Những khi giặc Nguyên sang xâm chiếm, vua phải xếp việc kinh kệ để lo giữ
gìn xã tắc. Nhờ tình đồn kết nhân dân, ngài đã hai lần đuổi được quân Nguyên giữ
gìn trọn vẹn đất nước. Sau trận chiến thắng thứ hai, non nước thái bình Thượng
hồng Trần Thánh Tơng có hai câu thơ kỷ niệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Năm Quý Tỵ (1293 ), vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần
Anh Tông, lên làm thái Thượng hồng. Ở ngơi Thái thượng hồng để chỉ dạy cho
con được sáu năm, ngài sắp đặt việc xuất gia. Đến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299 ),
ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu đà (


khổ hạnh ) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà (sau này ngài đổi hiệu là Trúc Lâm
Đầu Đà ). Trần Nhân Tông là người truyền thừa chính thức của phái Yên Tử, thuộc
hệ thứ sáu, tiếp nối vị Tổ thứ năm là ngài Huệ Tuệ. Ngài là người sáng lập ra thiền
phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông viên tịch tại am Ngọc Vân núi Yên Tử, nhằm ngày
mồng một tháng mười năm Hưng Long thứ 16 (1308 ), thọ 51 tuổi.


Trần Nhân Tông, một vị anh hùng, một đức Phật. Đúng như toàn bộ thân thế
sự nghiệp nhà vua. Anh hùng đánh dẹp giặc Nguyên hung hãn nhất thế giới. Vị Phật
sáng lập ra phái Trúc Lâm. Ngài đã chọn núi Yên Tử cũng nhằm mục đích mơ
phỏng Siddhartha vào Tuyết Sơn. Trên Yên Tử có Ngự Dội, có hàng tùng cổ kính.
Ngài tắm Ngự Dội, lên gốc tùng thiền định như Siddhartha tắm ở dịng sơng Ni –
liên – thiền lên ngồi gốc cây bồ đề đắc đạo. n Tử có rừng trúc, Trần Nhân Tơng
dựng tịnh xá ở đó như Siddhartha đã lấy Trúc Lâm làm nơi trú đông cho hàng đệ tử.
Cũng từ ý mơ phỏng đó mà Ngài lấy tên cho giáo phái mới của mình là phái Trúc
Lâm. Chính vì thế hồn cảnh lịch sử đã nói lên thống nhất ý thức hệ mà Trần Nhân
Tông đảm nhiệm. Một ông vua là Phật, sáng lập ra giáo phái và tuyên truyền cả
nước. Điều đó được tiêu biểu trong con người của ngài qua hai mặt: nhà vua và giáo
chủ.


Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tính tinh thần của nó là
uy tính tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của nền văn hóa Việt Nam
độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung
Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương
diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo
khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ người Việt, duy trì và
bồi đắp cá tính Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31></div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>Tiểu kết chương 1 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>CHƯƠNG 2. </b>



<b>MỘT SỐ QUAN NIỆM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG </b>
<b>VÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT </b>


<b>2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tơng về Phật, Phật tính, niết bàn. </b>


<i>Các khái niệm như: Phật, Phật tính, niết bàn khơng phải là những gì được </i>
soạn thảo một cách trí thức nhằm vào mục đích nghiên cứu, mà đúng hơn là một
số phương tiện giúp chúng ta nhìn thấy chính xác hơn sự hiện hữu của chính mình.
Do đó thiết nghĩ cũng nên dành ra chút thì giờ để suy nghĩ về từng khái niệm một
nhằm hiểu rõ hơn tư tưởng triết học Phật giáo để vận dụng cho mỗi người.


<i><b>2.1.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật”. </b></i>


Theo quan điểm của Phật giáo thì thấy sắc thân Phật chưa hẳn là thấy Phật
thật, mà trong đó cịn có một cái gì sâu xa hơn, vượt qua cái thấy của hai tròng mắt
này, vượt qua cái hiểu của tâm suy nghĩ phân biệt này, không thể đem tâm phàm
phu sinh diệt này mà suy đốn nhận hiểu, địi hỏi phải mở con mắt giác ngộ mới
nhận rõ: Phật không phải ở đâu xa vời, mà Phật ở ngay tâm giác ngộ của mỗi một
con người


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

thì có cách giải quyết, khơng thể cúi đầu chấp nhận. Do đó, Ngài vượt thành xuất
gia tìm Đạo, và quả nhiên Ngài đã thành công.


Cũng dựa trên quan điểm đó của đạo Phật, Trần Nhân Tông cũng cho rằng,
Phật khơng chính ở đâu xa, mà Phật ở ngay trong chính mỗi cá nhân con người.
Ông quan niệm “Phật là bụt”. Bụt khơng nên cầu ở ngồi, mà chính phải tìm ngay ở
chính mình, nếu con người chúng ta biết tích nhân, tu đạo đức, làm theo 10 nghiệp
lành, thì ai dám bảo đó khơng phải là Bồ Tát, khơng phải là Thích Ca. Điều đó đã
<i>được thể hiện rõ trong Cư Trần Lạc Đạo Phú của ông: </i>



<i>“Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm, </i>


<i>mn nghiệp lặng an nhàn thể tính… </i>


<i>Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thật Kim cương; </i>
<i>dứt hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác. </i>
<i>Tịnh độ là lòng sạch, </i>


<i>Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương… ; </i>


<i>Vậy mới hay! Bụt ở trong nhà; chẳng phải tìm xa. </i>
<i>Nhân khấy bản (quên gốc) nên ta tìm Bụt, </i>


<i>Đến cốc hay chỉn (chính) Bụt là ta…” </i>


Bụt hay Phật vốn ở ngay nơi ta, không phải nhọc nhằn tìm ở đâu khác. Bởi
chúng ta quên gốc đuổi theo ngọn nên cứ đuổi tìm kiếm Bụt ở bên ngoài. Nào ngờ,
khi đạt đến tỏ ngộ mới tỉnh ra, chính Bụt ở trong tâm giác ngộ của mình đây thơi.
Bao nhiêu cơng phu chạy tìm liền bng xuống nhẹ nhàng. Kế thừa quan điểm
trong đạo Phật, Phật giáo được định hình ngay từ khi Đức Phật còn tại thế. Trần
Nhân Tông sau khi nhường ngôi cho con, ngài cũng xuất gia và trở thành Sơ tổ Trúc
<i>Lâm “đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỉ các dâm từ và thực hành giáo lý </i>


<i>Thập thiện”24<sub>. </sub></i>


Trong đạo Phật, khi đi tìm nguyên nhân của già chết, ngài khám phá ra rằng
chính “vơ minh” là gốc sinh khởi để kết nhóm, là sự tập khởi của tồn bộ khổ uẩn


24<i><sub> Thích Phước Sơn dịch và chú (1995), Tam Tổ thực lục, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn </sub></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

tức thân tâm này, mà tất cả chúng sinh phải mang lấy trong cuộc ln hồi dài từ vơ
thỉ. Dứt vơ minh thì các duyên theo đó đều dứt, sinh tử khổ ưu não dừng, là vấn đề
sống chết được giải quyết xong.


Vậy “vơ minh” là gì ? Vơ minh tức là mê mờ không sáng suốt khởi chấp ngã,
thấy có một cái ta tồn tại, rồi bám chặt vào đó mà tạo thành nghiệp lành, nghiệp dữ,
và bị nghiệp dẫn đi trong luân hồi. Bởi bám vào cái ta này, nên mất nó liền tìm cái
khác thay vào, dịng sinh tử tiếp nối khơng dừng chính từ đây.


Chúng ta cũng thế, bám vào mấy cục thịt, mấy đốt xương, mấy sợi gân… vô
tri này cho là mình rồi cũng giết hại con này, con kia ni dưỡng nó, tạo thành biết
bao nghiệp ác cũng vì nó. Nhưng cuối cùng, nó cũng bỏ mình để trở về với cát bụi,
còn nghiệp ác đã tạo kia, mình phải mang lấy sang kiếp sau mà nhận quả khổ, thật
có đau đớn chăng ? Phật gọi chúng sinh mê lầm là như thế.


Giờ đây, nếu tỉnh ngộ, biết mình là linh tri, là sáng suốt khơng phải những thứ
vơ trí, hư hoại đó, bng nó đi, tức thành giải thốt. Khơng bám vào nó, lấy đâu có
chỗ để sinh? Ngay đó là pháp vơ sinh chớ gì! Rất thực tế và gần gũi với chúng ta vơ
cùng!


Trong chính sách của mình, Trần Nhân Tơng cũng rất khéo léo và tài tình ở
chỗ thống nhất được các thiền phái Phật giáo thành một để đất nước Đại Việt của
vua có được một đạo Phật đủ tiềm lực tơn giáo, phát triển nội lực cá nhân và tập thể,
có thể làm lợi ích cho bản thân mình và đồng loại, trong đó có lợi nhiều mặt
cho quốc gia và xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Chưa nói thành Phật - Thánh, nhưng nếu có bất kỳ ai làm được những điều
khuyên ấy, đều là người có ích cho mình và mọi người, nếu xã hội thực
hiện những lời khuyên ấy thì xã hội ổn định và phát triển. Có lẽ nhờ vậy nên nhân


dân ta đã đánh thắng quân Nguyên chăng…? Đây là vấn đề đạo đức và luân lýxã
hội hết sức nhạy cảm trong xã hội ngày nay.


Tóm lại, TrầnNhân Tơng cũng như Đạ Phật đều chỉ coi “Phật” chỉ là một
danh từ, một hình tướng biểu tượng bên ngoài là phương tiện tạm thời để nhắc nhở
người tỉnh giác, không phải Phật thật. Cẩn tỏ ngộ lại tâm sáng suốt nơi chính mình,
đó mới là Phật gốc. Đức Thích Ca hay Trần Nhân Tơng cũng đều thành Phật ngay
trong tâm .


<i>“Đêm đêm ôm Phật ngủ </i>
<i>Sáng sáng cùng Phật dậy, </i>
<i>Ngồi đứng cùng theo nhau, </i>
<i>Nói nín cùng chung ở, </i>
<i>Chẳng mảy may tạm rời, </i>
<i>Giống hệt hình với bóng. </i>
<i>Muốn biết chỗ Phật đi, </i>
<i>Chính cái nói năng đó.”25</i>


<i><b>2.1.2. Quan niệm của Trần Nhân Tơng về “Phật tính”. </b></i>


Nền tảng của những lời dạy là Phật tính.Vậy nên hiểu rõ khái niệm “Phật tính”
là rất quan trọng.


Đức Phật hay Trần Nhân Tông cũng đều cho rằng, Phật tính khơng phải là
những điều chúng ta tự tưởng tượng hay tạo ra, mà Phật tính là sự tồn tại vốn có


25<sub> Theo Thiền sư Bảo Phước Tùng Triển, đệ tử nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn, đời thứ 6 dưới </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

trong mỗi chúng ta. Và mỗi một con người cá nhân lại có những cách khác nhau để
đánh thức Phật tính ln hiển diện trong mỗi người.



Nếu như trong Đạo Phật ban bố lời dạy theo những cách thức khác nhau như:
Giới luật, Luận tạng, Kinh điển, và Mật điển; thì Trần Nhân Tông, ông lại chủ
trương lấy tông chỉ “thiền tông” làm chủ đạo.


<i>Theo Đạo Phật, Giới luật dạy căn bản về những nguyên lý và chuẩn mực đạo </i>
<i>đức; Luận tạng quan tâm chính về học thuật, những khía cạnh vi tế về sự hình </i>
<i>thành, và quy luật vận hành của vạn vật, Kinh điển tập trung vào những lời dạy </i>
<i>về từ bi; và Mật điển trình bày những phương pháp chuyển hóa bằng sự tỉnh </i>
thứcdần dần và cuối cùng có thể đạt tới giác ngộ. Mục đích của những lời dạy
này đơn giản nhằm giúp chúng ta đánh thức bản chất tối thượng của chính mình –
đó là Phật tính.


Với Trần Nhân Tơng, ngài linh động kết hợp giảng kinh thuyết pháp, mục đích
giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển những lời kinh chết trong sách
vở thành những bài kinh sống, chứng minh cho Tâm Thiền sáng ngời khơng có gì
<i>sai khác. “Kinh đâu có lỗi gì? Lỗi do người chấp kinh. Thiền đâu có gì sai khác? </i>


<i>Sai do người phân biệt. Kinh từ miệng Phật nói, Thiền là tâm Phật vốn chẳng phải </i>
<i>là hai!”26</i>


Theo Phật giáo, tất cả chúng sinh có Phật tính cuối cùng đều sẽ đạt được giác
ngộ. Mặc dù có một vài chúng sinh cần thời gian dài hơn để tịnh hóa, để nhận ra
Phật tính của họ, nhưng có những chúng sinh có thể được giác ngộ nhanh hơn. Điều
này là tùy vào từng cá nhân theo đuổi con đường tỉnh giác như thế nào, và có
những lựa chọn gì. Có một điều chắc chắn là tất cả chúng sinh sẽ có thể làm được
điều này bởi lẽ bản chất của họ là Phật.


26<i><sub> Theo bài báo “Vua Trần Nhân Tông với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”, đăng ngày Thứ năm, 28 </sub></i>



Tháng tám 2008 09:15,


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

với Trần Nhân Tông, ông cho rằng để giác ngộ, hay để thành Phật khơng
có gì là khó khăn, bởi trong chính bản thân mỗi người, chúng ta chỉ cần thắng chính
chúng ta, thắng được con quỷ dữ trong tâm thức của mỗi người, như vậy là tâm sẽ
sáng, ắt sẽ thành Phật. Tâm tức là Phật và Phật tức là tâm.


Trong Phật giáo cho rằng, nếu như một ai đó khơng tự nhận thức được Phật
tính của họ, có nghĩa là “vô minh”. Nhưng Phật tính là khơng thể thay đổi, nên
dù chúng ta vô minh thế nào thì Phật tính của chúng ta vẫn nguyên vẹn. Và
dù chúng ta giác ngộ như thế nào thì Phật tính của chúng ta cũng cịn lại ngun
vẹn. Đó là bản chất không thay đổi. Cùng theo quan điểm đó, Trần Nhân Tơng cũng
cho rằng, trong bản tính của mỗi con người đều có phần Phật, nếu như ai đó khơng
có, thì chẳng qua là anh ta chưa ngộ ra, chưa thiền ra mà thơi. Giác ngộ chính
là hiện thân đầy đủ Phật tính của chúng ta ở mọi cấp độ của sự biểu thị sắc
tướng của chúng ta.


Khi đạt tới giác ngộ, chúng ta nhận ra được trọn vẹn phạm vi của những phẩm
tính này. Việc làm của một vị Phật là vượt ra sự nhị nguyên. Trong một kinh
điển, Đức Phật đã nói: “Ta chưa bao giờ dạy điều gì”. Điều này ngụ ý rằng những
lời dạy của Ngài được truyền lại là sự hiển thị tự nhiên. Điều đó khơng phải đơn
giản như là một người này nói chuyện với người kia, mà sự hiển hiện này giống như
ánh sáng chói lọi của mặt trời, mang những năng lượng tốt đẹp để trợ giúp sự tinh
tấn của chúng sinh. Ánh sáng mặt trời làm được rất nhiều điều. Nó làm ấm hạt
giống để có thể phát triển rễ và bám được trong đất. Ánh sáng mặt trời giúp quả
chín trên cây. Nó cho ánh sáng, làm ấm các đại dương, hơi nước bốc lên và các đám
mây được hình thành. Tất cả những biểu hiện này không cần đặt kế hoạch, giống
như hành động tự nhiên của một vị Phật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Khi Đức Di Lặc luận bàn về những che chướng và làm thế nào để khắc phục


<i>chúng, Ngài đã nói về “những che chướng tạm thời , khơng có những che </i>


<i>chướng vĩnh cửu. Các che chướng luôn luôn chỉ là tạm thời.” Ngài cũng nói có </i>


những che chướng liên miên, và xác định chín loại chủ yếu: tham ái, sân hận, vô
minh, và sáu loại che chướng liên quan đến quả vị bồ tát – từ cấp sơ địa đến
cấp thập địa.


Những che chướng này khiến chúng ta bị cuốn vào vòng luân hồi sinh – tử. Và
để khắc phục nó chúng ta cầm từ bỏ tham sân si, để không bị nó điều khiển,
khơng lệ thuộc vào nó. Có như vậy thì chúng ta mới hiểu biết đúng đắn hơn, không
mắc phải sự đố kỵ, hận thù, ganh ghét, tránh làm điều ác. Đạo Phật khuyên răn con
người nên từ bi hỷ xả đối với mọi người.


Trong phần cuối bài giảng về Phật tính, Đức Di Lặc đã dạy về năm sự bất
<i>lợi do không hiểu biết Phật tính, và năm lợi ích do hiểu biết Phật tính. Bất lợi của </i>


<i>sự vơ minh về Phật tính được xem xét đầu tiên, mà trước hết là do tự ti. Khơng </i>


có kiến thứcvề tiềm năng của mình, chúng ta có xu hướng xem những lỗi
lầm của chúng ta là bất biến và là bản chấttự nhiên của chúng ta. Đây là một trong
số sai lầm lớn nhất của chúng ta. Bất kỳ trí tuệ hay nhận thứcmà chúng ta may
mắn phát triển được là để có thể nhìn ra trạng thái tự huyễn hoặc đúng hơn sự
thật là gì – một sự tỉnh thức về tiềm năng tối thượng của chúng ta. Nếu khơng nhận
thức về Phật tính, chúng tadễ bị thuyết phục về sự vô giá trị và hồ nghi về bất cứ
phẩm tính tốt đẹp nào chúng ta có được. Đây là một quan niệm sai.


<i>Bất lợi thứ hai do khơng biết về Phật tính là do bản ngã của ta. Khi không biết </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>Đức Di Lặc nói về những bất lợi thứ ba và thứ tư như là “khẳng định và phủ </i>



<i>định”. Sự cuồng tín là một thí dụ về khẳng định và phủ định. Thiếu nhận </i>


thức về Phật tính dẫn đến tâm trí hẹp hịi, giới hạn, và là ngun nhân khiến chúng
ta khẳng định những quan điểm giới hạn của mình là duy nhất và phủ nhận sự
thật của những quan điểm khác. Thí dụ, nếu chúng ta nhìn vào hình ảnh và nghi
thức của Phật tử, chúng ta có thể cũng làm như thế mà không nhận ra bản chất, mục
đích thực sự của chúng là gì. Chúng ta chỉ nắm bắt hình tướng bên ngồi. Khơng
có hiểu biết chúng ta phủ nhận bản chất và khẳng định hình ảnh bên ngồi. Nếu
khơng thể phân biệt giữa hình ảnh và bản chất bên trong, và tạo ra sự liên hệgiữa
điều quan trọng và các thứ vặt vãnh xung quanh, điều này có thể là một bất lợi rất
lớn. Nếu khơngdẫn đến cuồng tín có thể làm hại những chúng sinh khác, thì
cũng lãng phí nhiều thời gian và năng lượng do để mất đi điểm cốt lõi.


<i>Đức Di Lặc dạy rằng tham ái là bất lợi thứ năm. Khi một người vơ </i>


minh về Phật tính thì có khuynh hướng trở nên bám víu vào những vận may tốt
hoặc là bất kỳ phẩm tính đã đạt, và miễn cưỡng chia sẻ những điều này với người
khác. Điều này nghĩa là bất kỳ điều tốt đẹp được phát triển trong cuộc sống
của chúng ta sẽ không làm lợi lạc cho những người khác. Chúng ta sẽ bị sa lầy trong
bất kỳ điều gì đạt được, và cuối cùng chúng ta bị thụt lùi thay vì tinh tấn.


<i>Về năm lợi ích của hiểu biết Phật tính. Đầu tiên là hỷ lạc. Dù chúng ta nghèo </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

tránh được nỗi thống khổ, chúng ta vẫn có một khoảng khơng để chúng ta có thể an
lạc trong những hồn cảnh khó khăn nhất.


<i>Đức Di Lặc nói lợi ích thứ hai của hiểu biết về Phật tính là sự tơn </i>
<i>trọng. Chúng ta có thể tơn trọng tất cả chúng sinh, và mọi người, bởi vì họ đều </i>



có Phật tính như ta. Chúng ta có thể tơn trọng mơi trường và tự nhiên nữa, bởi vì đó
là những biểu hiện của Phật tính thơng qua những giác quan liên hệ lẫn nhau
của chúng ta.


<i>Thông thái là lợi ích thứ ba. Khi biết về Phật tính, chúng ta hiểu về chân lý </i>


tương đối. Hiểu biết và nhận thức về chân lý tương đối để sử dụng nó một cách
thơng thái.


Khi hiểu về Phật tính, chúng ta hiểu về chân lý tuyệt đối. Sự hiểu biết chân
lý tuyệt đối là trí tuệ. Trí tuệsẽ chỉ dẫn chúng ta lựa chọn và đẩy nhanh chúng
<i>ta hướng tới giác ngộ. Trí tuệ là lợi ích thứ tư. </i>


<i>Lợi ích thứ năm của hiểu biết Phật tính là lòng bi. Chúng ta biết rằng tất </i>


cả chúng sinh đều có thể tiến bộvì bản tính ngun sơ của họ là hoàn hảo, và
những nỗ lực của họ để tinh tấn – cũng như những cố gắng của chúng ta để giúp họ
- sau cùng rồi cũng đạt được kết quả. Mọi chúng sinh đều có Phật tính. Đó là sự
khích lệ cho chúng ta, bởi vì nếu khơng có khả năng để tinh tấn, thì chúng ta khơng
thể giúp chính chúng ta hoặc là chúng sinh khác, và như vậy thì sự cố gắng là vơ
ích. Chúng ta có lịng bi bởi chúng ta nhận thức sâu sắc về những nỗi thống
khổ mà chúng sinh đang phải chịu đựng. Bởi vì Phật tính của mình, chúng ta có thể
hành động một cách yêu thương và bi mẫn để giúp đỡ chúng sinh. Khi tụng những
lời cầu nguyện của Phật tử “ mong rằng tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau
và nguyên nhân của khổ đau,” lời cầu nguyện của chúng ta là hiện thực, vì chúng
ta biết mọi chúng sinh đều có Phật tính.


<i>“Đi khắp mọi nẻo thon q, khun dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo </i>
<i>lý Thập thiện”27</i><sub> luôn là ấp ủ của Trần Nhân Tông. Thập thiện, tức là mười điều </sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

lành do ba nghiệp tạo nên, gơm có: khơng sát sinh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm,
khơng nói dối, khơng nói thêu dệt, khơng nói lời hai chiều, khơng nói lời hung ác,
không tham lam, không sân hận, không si mê.


<i>Trong kinh Thế ký thuộc Trường A-hàm có đề cập: “Ở thế gian vào thời kiếp </i>


<i>giảm, con người sống đến 84 ngàn tuổi, sau đó giảm dần ... cho đến 200, và ngày </i>
<i>nay, con người sống khoảng 100 tuổi. Sở dĩ tuổi thọ và phước báocon người suy </i>
<i>giảm là do không tu pháp Thập thiện mà ngược lại còn làm Thập ác… Qua kiếp </i>
<i>tăng, con người làm ác cùng cực, chợt thức tỉnh tu thiện, từ 1 cho đến 10 điều thiện, </i>
<i>thì phước báo và tuổi thọ tăng dần lên đến 84 ngàn tuổi, và thế giới trở thành an </i>
<i>lạc, hạnh phúc vơ cùng”28<sub>. Điều đó cũng được đề cập khi Hịa thượng Thích Thanh </sub></i>


<i>Từ đề cập đến lợi ích của pháp Thập thiện: “Người tu từ cư sĩ tại gia cho đến xuất </i>


<i>gia lẫn người thế gian, nếu biết áp dụng pháp tu Thập thiện trong cuộc sống thì </i>
<i>được bình an hạnh phúc. Người tu thì mau tiến đến quả giải thoát. Người đời thì </i>
<i>phước báu ngày càng lớn, tuổi thọ ngày càng tăng trưởng.”29</i>


<i>Trần Nhân Tông độ sinh bằng cách bố thí cả tài và pháp, điển hình như: “Quý </i>


<i>Mão năm thứ 11 (1303) (Nguyên Đại Đức năm thứ 7), mùa xuân, tháng Giêng, </i>
<i>ngày 15, Thượng hoàng ở phủ Thiên Trường, mở hội Vô Lượng ở chùa Phổ </i>
<i>Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp cho người nghèo trong nước và giảng </i>
<i>kinh giới thí”30<sub>, ơng khơng những tự mình giữ giới mà còn khuyên mọi người giữ </sub></i>


giới; hết lòng siêng năng chăm lo cho quốc gia dân tộc và phụng sự đạo pháp; nhẫn
nhục với mọi chướng duyên nghịch cảnh; luôn dùng thiền định và trí tuệ làm kim
chỉ nam hướng đạo cho lộ trình tu tập giải thốt, hoằng dương giáo pháp, ln sống
và hành động với tấm lịng từ bi vơ cùng bao la rộng lớn.



28<i><sub> Xem thêm: Kinh Thế ký, Kinh Trường A-hàm, Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, tập I, tr.144-145. </sub></i>


29<i><sub> Thích Thanh Từ (1993), Kinh Thập thiện giảng giải, Thành hội Phật giáo TP.HCM ấn hành, tr.7.</sub></i>


30<sub> Ngô Sĩ Liên (Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính) (2004), Đại Việt sử ký tồn thư, tập 1, </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Phật tính là giáo lý thiết thực, một quan điểm đầy khát vọng. Chúng ta có thể
thực sự giải thoát tất cả chúng sinh được khơng? Chúng ta có thể. Chúng ta có thể
đạt giác ngộ được không? Tất nhiên. Điều gì khiến chúng ta tin tưởng như
vậy? Phật tính. Mọi danh vọng, tiền đồ chỉ là mây là gió, quan trọng là làm thế nào
để ai trong chúng ta cũng có thể giác ngộ cho chính chúng ta, để được sống an lành,
hạnh phúc ngay trong chính cuộc đời này. Chính vì lẽ ấy mà người tu Thập
thiện nghiệp thì trong đời hiện tại thân tâm được cải thiện tốt đẹp, tránh khỏi đọa
lạc chốn tam đồ, lại được hưởng phước báo cõi nhân thiên và chứng đắc Phật quả.
Đây là nền tảng cơ bản để thực hiện. Chúng ta vốn đã được giác ngộ. Chúng ta chỉ
cần đánh thức vị Phật đang ngủ trong mỗi chúng ta.


<i><b>2.1.3. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “niết bàn”. </b></i>


Mỗi một giáo hội lại có những quan niệm khác nhau. Như trong Thiên Chúa
giáo, thế giới có đầy hoa thơm trái ngọt, chỉ có hạnh phúc, u thương, khơng thù
hận gọi là “thiên đường”; Trong Nho giáo, xã hội lý tưởng là một xã hội đại đồng;
Còn với Phật giáo thì đích của giải thốt lại là “Niết bàn”.


Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây
là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của
cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc
khi đã chết (Vô dư Niết bàn).



Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn,
từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một
Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan
niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là
trong xã hội hiện đại.


Vậy Niết bàn là gì? Có khá nhiều quan niệm về Niết bàn. Theo tiếng Sanscrit
<i>là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Hay học giả Đồn Trung Cịn, Niết bàn là “cảnh </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<i>ái”</i>31<b><sub>. Hay theo Pháp sư Huyền Trang thì triết tự Niết bàn - Nirvana như sau: 1, Nir: </sub></b>


ra khỏi, ly khai; vana: con đường vòng vèo, quanh quẩn, đổi thay. Nirvana là ly khai
con đường quanh quẩn, chuyển dịch (bứt vòng sinh tử luân hồi); 2, Nir: không;
vana: hôi tanh, dơ bẩn, Nirvana là không hôi tanh, dơ bẩn (thanh tịnh, trong sạch);
3, Nir: xa lìa, đào thải; vana: rừng rậm, Nirvana là xa lìa rừng rậm (đào thải những
phiền tạp của đời sống). Mặc dù các cách hiểu này khơng đồng nhất song đều có
chung một nghĩa căn bản: Niết bàn là sự đoạn trừ dục vọng, dứt nghiệp báo luân
hồi, thanh tịnh tuyệt đối. Đó là sự ngưng đọng vĩnh cửu của khơng - thời gian trong
cõi tâm linh sâu thẳm của con người.


Trong phạm vi nghiên cứu của một bài khóa luận, tôi sẽ đi đề cập tới khái
<i>niệm của Đạo Phật xem như thế nào là Hữu dư niết bàn, thế nào là Vô dư niết bàn, </i>
<i>đề cập tới khái niệm niết bàn của phái Đại Thừa và Tiểu thừa. Để đến cuối cùng đi </i>
tới khái niệm niết bàn của Trần Nhân Tông, cũng như là của phải thiền tông.


<i>Hữu dư Niết bàn là Niết bàn tương đối, Niết bàn tại thế: nghĩa là, Niết bàn đạt </i>


được khi thể xác vẫn còn tồn tại nhưng tâm đã thốt khỏi vịng ln hồi bất tận.
Người đó tuy cịn sống nhưng mọi phiền não đã được diệt, ba nọc độc tham - sân -
si đã tiêu trừ. Bản thân Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đạt tới Hữu dư Niết bàn khi ơng


35 tuổi, lúc nhìn thấy sao mai mọc, sau 49 ngày ngồi dưới gốc cây bồ đề để chiêm
nghiệm về chân lý. 45 năm còn lại của cuộc đời, mặc dầu tâm đã xố được vơ minh,
phiền não song ơng vẫn khơng thốt khỏi sinh - lão - bệnh - tử.


<i>Vô dư Niết bàn là Niết bàn tuyệt đối, Niết bàn xuất thế hay còn gọi là Đại Niết </i>


<i>bàn. Kinh Bản sinh giải thích: “Thế nào là Vơ dư Niết bàn?... Đó là trạng thái đã </i>


<i>chứng được La Hán, hết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được thành lập, việc </i>
<i>cần làm đã làm đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự nghĩa, đã khéo giải </i>
<i>thoát, đã được biết khắp. Tất cả các điều cảm thụ bây giờ đều khơng cịn do nhân </i>
<i>dẫn đến, khơng cịn mong cầu, hy vọng cũng hết, rốt ráo tịch lặng, vĩnh viễn trong </i>
<i>mát, ẩn lặng không hiện, chỉ y vào cái thanh tĩnh không lý luận, không thể bảo rằng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<i>có, cũng chẳng thể nói rằng không mà cũng không cho rằng chẳng có chẳng </i>
<i>khơng”</i>32<sub>. Vô dư Niết bàn chỉ đạt được khi đã chấm dứt sự tồn tại của thân xác. </sub>


Xét về mặt bản chất, Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn đều chỉ về trạng thái
tâm linh thanh tịnh tuyệt đối, tự do tự tại của con người. Điểm khác biệt là ở chỗ,
Niết bàn đó đạt được khi thân thể cịn sống hay đã chết mà thơi.


Khái niệm Niết bàn trong Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa như thế
nào?


Xuất phát từ lập trường thực tại luận, Tiểu thừa cho rằng, thế giới này tồn tại
thực sự, con người cũng tồn tại thực sự nên những khổ đau của con người cũng là
có thật chứ khơng phải chỉ là những gì thuộc về cảm giác. Từ đó, họ đi tới kết luận,
chỉ có thể giải thốt khỏi khổ đau bằng con đường lánh đời, thoát tục, xuất gia tu
<i>hành, lấy “diệt tận là cứu cánh” với phương châm diệt (diệt mọi phiền não), tận </i>
<i>(chấm dứt mọi nghiệp sinh tử), ly (giải thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi), diệu (đạt tới </i>


Vô dư Niết bàn). Niết bàn mà Tiểu thừa hướng tới là Niết bàn xuất thế, lánh đời, đạt
được bằng lối tu kham nhẫn. Với Tiểu thừa, vì vơ ngã là Niết bàn nên muốn đến
được Niết bàn, con người phải từ bỏ những thú vui trần thế, những u thương và
khao khát “trở thành”. Khơng cịn những sôi động, buồn vui nơi nhân thế, Niết bàn
chỉ là sự tịch diệt, cô đơn, vắng lặng, cô đơn, buồn tẻ và vô cảm. Lý tưởng Niết bàn
Vô dư tịch tĩnh đã khiến Phật giáo mất dần sức hấp dẫn, khó thực hiện với mọi
người, chỉ dành cho thiểu số người có cơ duyên đặc biệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

chỉ là sợi dây thừng, không cịn đáng sợ nữa. Vì vậy, phải chấp nhận sống trong
luân hồi thì mới chi phối được nghiệp báo luân hồi.


<i>Đối với Thiền giáo nói chung hay Trần Nhân Tơng nói riêng, Niết bàn ở đây </i>
khơng phải là thốt khỏi vịng ln hồi như Hữu Dư Niết bàn; hay không phải chỉ
đạt được khi chấm dứt sự tồn tại của thân xác như Vô Dư Niết Bàn hay chỉ đạt được
khi xuất thế, xa lánh cuộc đời giống Tiểu Thừa. Niết bàn của Trần Nhân Tông cũng
mang một chút hơi hướng của Đại Thừa là sống cùng những buồn vui nhân thế.
Nhưng Niết bàn của Thiền giáo lại có điểm khác, nó khơng phải là chỉ đạt được khi
khơng cịn phân biệt bờ bên này - sinh tử và bờ bên kia - giải thoát, khi khơng cịn
phân biệt chúng sinh và Phật, mê và ngộ như Đại Thừa.


Niết bàn mà Thiền giáo bàn tới ở đây là trạng thái giác ngộ của con người sau
khi đã thoát khỏi những khổ đau, những ràng buộc của cuộc sống trần tục. Là khi
mà người ta đạt được huệ nhãn, có một tầm nhận thức đúng đắn. Không giống như
Đạo Thiên Chúa – con người sẽ được lên thiên đường sau khi chết. Mà đối với
Thiền giáo, niết bàn tồn tại ngay chính trong cuộc sống trần tục. Con người chúng ta
ai cũng có thể thành Phật, và thành Phật ngay trong chính cuộc đời này.


Qua đây, ta có thể thấy rằng, Niết bàn là một khía niệm vơ cùng quan trọng,
nó đem lại một diện mạo mới cho sức sống mới cho Phật giáo. Hiểu được niết bàn
là một điều vô cùng cần thiết. Khái niệm Niết bàn đã trở nên hấp dẫn hơn, thể hiện


một triết lý sống nhân bản của tôn giáo.


<b>2.2. Một số quan niệm về nhân sinh và con đường tu tập giải thoát của </b>
<b>Trần Nhân Tông. </b>


<i><b>2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về nhân sinh. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

tổng hợp quan điểm của thiền và tịnh độ. Hầu như tồn bộ dịng tư tưởng triết học
của Trần Nhân Tông được bắt đầu từ tâm và kết thúc cũng ở tâm tĩnh lặng, hư
không. Cho nên cùng với vấn đề thế giới quan mang đậm dấu ấn triết học thiền của
Trần Nhân Tông.


Về vấn đề nhân sinh quan, ông cho rằng đây mới là những vấn đề chủ yếu và
quan trọng cuối cùng của đời sống thiền, bởi ông hiểu rõ cuộc đời rất ngắn ngủi, vô
thường nên ơng tích cực nhập thế và mong muốn cống hiến toàn bộ sức lực, sự
nghiệp cho đời và đạo. Chính tinh thần nhập thế tích cực này đã đưa Thiền Phái
Trúc Lâm mà người sáng lập là Trần Nhân Tông đến đỉnh cao của sự phát triển Phật
giáo đời trần và là đại biểu cho Phật giáo việt nam với diện mạo, sắc thái riêng.


Trần Nhân Tơng cho rằng sống mà khơng giúp ích gì cho đời là điều đáng hổ
thẹn của kẻ trượng phu (sinh vơ bổ thế trượng phu tàn). Chính vì thế trong triết lí
nhân sinh của mình, Trần Nhân Tơng ln gắn liền vấn đề lợi ích của dân tộc với
quan điểm cho rằng làm trai quyết trả nợ non nước phải để lại gì cho núi sơng, phải
giúp ích gì cho đời.


Trong cuộc đời mình, dù làm vua hay làm thiền sư, Trần Nhân Tông lúc nào
cũng lo cho dân cho nước (ưu quốc) lịng (ưu quốc ấy được ơng thể hiện rõ trong
bài tiễn sứ Bắc Ma Hạp Kiều Nguyên Lãng rằng:


<i>“Trung Thống, chiếu xưa lời hãy nhớ </i>


<i>Nỗi lo đất nước dịu lịng tơi”33<sub> </sub></i>


Cả cuộc đời của mình, Trần Nhân Tơng lúc nào cũng vì nước vì dân dù thời
chiến hay thời bình. Chính vì vậy mà ơng đã lập ra dòng thiền Việt Nam- Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử.


Một trong những vấn đề lớn trong cuộc sống con người được tất cả các nhà tư
tưởng, các trường phái triết học từ cổ chí kim, từ Đơng sang Tây, trong đó có triết lí
Phật giáo quan tâm đó là vấn đề sống chết của con người. Về vấn đề sống chết,


33<i><sub> Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần tập 2, quyển thượng, trang 479 Nxb. Khoa học xã hội, </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

cũng như Lão Tử, Trần Nhân Tơng đã nhìn thấy răng “làm người ắt phải có thân, có
thân tức là có họa”. Điều này được Trần Nhân Tông thể hiện rõ ngay trong những
câu thơ đầu của bài đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, rằng:


<i>“Sinh có nhân thân, </i>
<i>Ấy là họa cả. </i>


<i>Ai hay cốc được, </i>
<i>Mới ốc là đã”34</i>


Nghĩa là: sinh ra có thân mình, ấy là họa lớn. ai hay được điều đó mới gọi là
giác ngộ. Vì người ta sinh ra có thân thể, hình hài nên sự hợp tan, họa phúc, sống
chết của con người là lẽ thường. Do vậy, theo Trần Nhân Tông, người ta cần phải
vượt qua cái thể xác, hình hài tạm bợ của mình. Hơn thế nữa, do thấm nhuần triết lí
vơ thường, vơ ngã của Phật giáo, Trần Nhân Tông cho rằng mọi pháp đều không
sinh, mọi pháp đều không diệt ; cho nên trong cuộc đời, con người cần chấp nhận và
vượt lên trên sự sống chết, khơng cần quan tâm nhiều đến hình hài, thể xác và sống
chết, mà điều cần quan tâm, chú trọng và đề cao nhất đó là ý nghĩa giá trị đạo đức,


giá trị cuộc sống và thái độ sống của con người. Người ta chỉ đạt được ý nghĩa, giá
trị cao cả ấy bằng con đường tu luyện trí tuệ, đạo đức của mình ; cơng danh chẳng
trọng, phú quí chẳng màng, sống đạm bạc, dứt trừ vọng niệm, giác tính sáng trong,
thân tâm vui vẻ, rũ hết trần duyên, chẳng còn bỉ thử, tranh nhân chấp ngã, thị phi
chẳng hề, ngồi trong trần thế, chẳng quản sự thay, săn hỉ xả, nhuyến từ bi ; rèn lòng
làm bụt, sạch giới lòng ; chùi giới tướng, tham thiền, kén bạn, xem kinh, đọc lục,
học đạo, thờ thầy35<sub>. </sub>


Khác với Tuệ Trung Thượng sĩ coi sinh tử nhàn nhi dĩ (sống chết là lẽ
thường), trong triết lí nhân sinh, Trần Nhân Tông bàn khá nhiều về vấn đề sinh tử.
có lẽ cách giải quyết vấn đề sinh tử của các thiền sư đi trước, kêt cả Tuệ Trung
Thượng sĩ đều không thể tỏa mãn được một sự thật rất hiển nhiên đầy tính thuyết


34<sub> Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, tr.532, Nxb. Khoa học xã hội, </sub>


Hà Nội


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

phục là sống- chết như hai thái cực đối lập, vẫn diễn ra với tất cả mọi người mang
đầy vẻ thần bí của nó. Trên thực tế, các thiền sư chưa ai vượt qua cái chết, dù đã đạt
đến giác ngộ, chưa ai trở về từ cái chết dù đã nắm được cái bản thể hư khơng của
chúng. Vì thế, vấn đề sống chết vẫn là một trăn trở hoài nghi của các thiền sư Thiền
phái Trúc Lâm. Chẳng thế mà sơ tổ trúc lâm dù coi Tuệ Trung Thượng sĩ là ngọn
<i>đèn tổ cũng vẫn dặn dò các đệ tử rằng: “các ngươi hãy xuống núi mà lo tu hành, </i>


<i>đừng coi sinh tử là việc nhàn” </i>


Trong triết học Phật giáo, khái niệm sinh tử thường được sử dụng theo hai
nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, sinh là toàn bộ các pháp hữu vi hiện ra, khởi
lên. Các pháp (dhrama) trải qua bốn giai đoạn sinh trụ dị diệt. đây là các pháp hữu
vi theo nhân duyên hòa hợp mà xuất hiện và cũng theo nhân duyên ly tán mà ra.


Sinh theo nghĩa rộng là một khái niệm hết sức phức tạp nhất trong Phật giáo, nó gắn
liền với học thuyết karma nghiệp của triết học Phật giáo nguyên thủy. Sinh theo
nghĩa hẹp là xuất hiện sự sống còn của chúng sinh là một trong tứ khổ, nên nhà Phật
thường nói sinh khổ hay sinh sinh. Trong tứ khổ thì sinh là khổ đầu tiên, nó lưu
chuyển mãi trong vịng ln hồi, khơng bao giờ dứt, từ đời này tới đời khác, từ xứ
này sáng xứ khác.


Còn tử theo nghĩa rộng là diệt. diẹt là từ cái có trở về với cái khơng, nó thường
được dùng đồng nghĩa với tắt, đoạn, tuyệt, tịch và hoại. Tử là loại bỏ cái thân mà
mình thừa nhận, là mất đi cái sinh mạng của mình. Sinh, diệt theo nghĩa rộng là
khái quát toàn bộ sự luân chuyển của các pháp hữu vi, các Phật tử thường gọi là tục
đế hay là các triết lí thế tục, khơng có tính cách giải thốt, nên Trần Nhân Tơng đã
trình bày quan niệm về sinh diệt của mình trong bài kệ trước khi viên tịch như sau :


<i>“Mọi pháp đều không sinh </i>
<i>Mọi pháp đều không diệt </i>
<i>Nếu hiểu được như thế </i>
<i>Chư Phật thường hiện tiền </i>
<i>Chẳng đi cũng chẳng lại”36<sub> </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Theo Trần Nhân Tông vấn đề sinh tử hiểu theo nghĩa rộng chỉ tính chất hư vơ
thường, huyền ảo của thế giới hiện tượng nhưng bản chất của nó là hư không, chẳng
sinh cũng chẳng diệt, chẳng đi cũng chẳng đến, không đầu không cuối vô thủy vô
chung. Tuy nhiên giữa thế giới hiện tượng và bản chất khơng có gì khác biệt ngăn
cách cả, chúng là một. vấn đề quan trọng là ở chỗ cái tâm. Cùng một hoàn cảnh đời
sống bằng cái tâm tĩnh lặng hư khơng thì thấy sinh tử là niết bàn, tâm là Phật, phàm
là thánh, tất cả là một. cịn nếu bằng cái tâm vọng động, xao động thì sinh là sinh, tử
là tử, tất cả là một. tất cả là một hay tách biệt đối đãi đều do cái tâm mà ra cả. Tư
tưởng trên của Trần Nhân Tông là thống nhất với tư tưởng của Trần Thái Tơng và
Tuệ Trung Thượng sĩ.



Cịn theo nghĩa hẹp, lẽ sinh tử được Trần Nhân Tơng hiểu nó là cái có tính
chất vơ thường ngắn ngủi của cuộc sống con người, nó như hơi thở qua buồng phổi
mà thơi.Vậy con người có thế thốt ra khỏi giới hạn sinh tử không ? theo Trần Nhân
Tông, con người khơng thể tránh khỏi sinh tử và vịng nhân quả. Vì ngời ta khơng
thể chạy trốn khỏi sinh tử, hay nhân quả để tìm ra niết bàn, mà ngược lại phải ở
ngay trong sinh tử để thấy hiểu suốt bản tính của nó rằng sinh tử là lẽ thường của
cuộc đời con người và để nhận ra sinh tử là không sinh, không tử. vì thế, vấn đề
sinh tử khơng phải là chuyện vơ ích, mà là vấn đề lớn, quyết định đến thái độ sống
của hành giả. Thái độ sống của Trần Nhân Tông trước cuộc đời ngắn ngửi là tích
cực, sống cho hết mình đừng để thời gian qua một cách vơ ích.


<i><b>2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tơng về con đường tu tập và giải thoát. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Không sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, bán rượu, giao nói lỗi của bốn
chúng, tự khen mình chê người, bịn xẻn thêm mắng đuổi, giận hờn không chịu xám
hối, hay hủy báng tam bảo. Trần nhân tông ko phủ định những điều luật hay con
đường tu tập giải thốt của Đạo Phật, mà ơng chú trọng hơn vào vào thiền.


Trần Nhân Tông cho rằng cần chấp nhận sự sinh tử như một lẽ tự nhiên,
không chạy trốn. cần phải sống giữa đời, giải quyết những thách đố của đời thường,
tùy duyên mà hành đạo. sống tùy tục, trộn lẫn với đời thường cũng chính là sống
hành động với cái tâm hướng thiện. theo ông, sự giác ngộ cần phải được thực hiện
ngay trong vòng sinh tử, thiền gia phải sống hết mình để thực hiện giải thốt ngay
khi cịn sống. Vì thế, mọi hoạt động xã hội như qn sự, chính trị, tơn giáo đều là
hành thiện cả. thiền gia chỉ đắc đạo ngay giữa đời thường như hoa sen chỉ thanh cao
khi thấp ướt bùn lầy. như thế, Trần Nhân Tơng hiểu một cách sâu sắc tính cách vơ
thường ngắn ngủi của cuộc sống con người. nó như hơi thở qua buồng phổi mà thôi.


Trần Nhân Tông cũng rất coi trọng đến vấn đề rèn luyện đạo đức, trí tuệ và


giải thốt. Vấn đề tu luyện đạo đức, trí tuệ để đạt tới giác ngộ và giải thoát cũng là
một trong những vấn đề đặc sắc trong triết lý nhân sinh của Trần Nhân Tông. Trong
<i>tác phẩm Cư trần lạc đạo phú, ơng viết : Rèn lịng làm bụt, chỉn xá tua một sức giồi </i>


<i>mài ;đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lưu lọc37<sub> </sub></i>


<i>“Tham ái nguồn dừng, chẳng cong nhớ châu ngọc quý; </i>
<i>Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh </i>
<i>ngâm”38<sub> </sub></i>


Trần Nhân Tông không những đã đích thân đi khắp nơi giảng thuyết Thập
thiện mà bản thân nhà vua sau khi xuất gia đã sống một nếp sống cực kỳ đạo hạnh,
giản dị, trong sáng, một cuộc sống thiền khó tìm thấy ở một ơng vua nào khác.


37<sub> Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, tr.508 Nxb. Khoa học xã hội, Hà </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<i>“Bán song đăng ảnh mãn sàng thư, </i>
<i>Lộ trích thu đình dạ khí hư. </i>


<i>Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ, </i>
<i>Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.”39</i>


Dịch nghĩa


<i>Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường, </i>
<i>Móc rơi trên sân thu, hơi đêm thống mát. </i>


<i>Tỉnh giấc khơng biết tiếng chày nện vải ở nơi nào, </i>
<i>Trên chùm hoa quế trăng vừa mọc. </i>



<i>Hay trong bài Sơn phòng mạn hứng, Trần Nhân Tông cũng viết : </i>


<i>Thuỳ phọc cánh tương cầu giải thoát, </i>
<i>Bất phàm, hà tất mịch thần tiên. </i>
<i>Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão, </i>
<i>Y cựu vân trang nhất tháp thiền. </i>
<i><b>Dịch nghĩa </b></i>


<i>Ai trói buộc mà phải tìm phương giải thốt, </i>
<i>Phẩm cách chẳng phàm tục cần gì tìm thần tiên. </i>
<i>Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng đã già, </i>
<i>Vẫn một chiếc giường thiền ở am mây cũ. </i>


Với tấm lịng u thương chúng sinh vơ hạn, ông đã chỉ ra cái gốc trong mỗi
con người, rồi lại chỉ ra cho họ tại sao bị lạc đường, để cho họ tại sao bị lạc đường,
để cho họ trở về gốc, trở về với chính bản thân mình.


Theo Trần Nhân Tông, tâm là nơi xuất phát,nơi ẩn chứa Phật tính mà mọi
người không biết nên họ chạy đông, chạy tây tìm bụt. Điều này cũng giống như con
huơu khát nước chạy trên bãi sa mạc, càng tìm càng không thấy bởi lẽ họ đã quên


39<i><sub> Trần Nhân Tông, Nguyệt , </sub></i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<i>gốc, theo cách gọi của Trần Nhân Tơng là “khy bản”. Bởi vì vậy mọi người hãy </i>
<i>hồi tâm, hãy nhìn lại tự tâm như Trần Nhân Tông kêu gọi. “Bụt ở trong nhà , chẳng </i>


<i>phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm thấy bụt ; đến cốc hay chỉn bụt là ta.”40 </i>



Ngồi ra Trần Nhân Tơng cịn chỉ ra rằng, tu đạo phải gắn liền với việc rèn
tính sáng, nén niềm vọng, dứt trừ nhân ngã, dứt hết tham sâu, xét thân tâm… Nghĩa
là phải ra sức dùi mài lực học, phải công phu như người đãi cát tìm vàng, để dẫn
đến ngừng nguồn tham ái, lạng tiếng thị phi. Bởi lẽ khơng có sự tập trung cao độ,
nếu thân tâm không trong sạch. Khi đầu óc cháy bỏng những khát vọng ham muốn,
tham lam, ích kỷ, khi tâm mờ mịt vì sắc đẹp, tình yêu và dục vọng về cuộc đời và sự
vật xung quanh. Vì thế, trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tơng đã viết :


<i>Gìn tính sáng tính mới hầu an; </i>


<i>Nén niềm vong, niềm dừng chẳng thác. </i>


<i>Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương; </i>
<i>Dừng hết tham sân mới láu lòng màu viên giác41</i>


Thơ Trần Nhân Tông, lúc chưa an tâm tĩnh trí, mỗi lần xuân về trăm hoa đua
nở, tâm coi con người bị lôi cuốn, tác động bởi cảnh đẹp mà bâng khuâng, mơ
mộng. Nhưng khi biết được đường vào cửa Thiền, đã cởi bỏ mọi danh sắc của thế
gian, thấu hiểu được vũ trụ, thật tướng của thế giới, thì cái tự an nhàn khơng cịn bị
sắc hương lơi cuốn.


Tập trung suy nghĩ chỉ có được khi cá nhân con người đã trải qua những biến
đổi đạo đức nhất định theo chiều hướng thiện. Sự tu luyện tâm và tính khơng phải
cốt được quả báo, cũng như giữ giới hạnh, chống lại cái vô thường không phải cốt
để mua danh bán lợi.


40<i><sub>Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần quyển thượng, tr506, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội</sub></i>


41<sub> Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, tr. 505, Nxb. Khoa học xã hội, </sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

Trần Nhân Tông đã thực hiện đúng con người mà Phật tổ trước kia đã làm là
xuất gia tu hành Đầu đà – là loại bỏ trụi trần phiền não để tìm cầu Phật đạo. Thực
chất của tu hạnh đàu đà là thực hiện khổ hạnh, tẩy rửa mọi dục vọng đời thường để
thân thể thanh tịnh. đây cũng là bước đi đầu tiên của Phật tổ thích ca trên con đường
cầu tìm chân lý. Trong tu hạnh Đầu đà, có 12 phạm hạnh dùng để đối trị thân tâm,
đoạn trừ các phiền não cấu uế: ở nơi alannha (thanh vắng); thường đi khất thực;
khất thực tuần tự, không phân biệt giàu nghèo ; mỗi ngày chỉ ăn một bữa; ăn uống
điều độ; sau bữa ăn trưa không dùng các chất bỏ dưỡng; mặc y chắp vá; chỉ dùng có
ba y; ở những nơi nghĩa trang; nghỉ ngơi bên gốc cây; ngồi chỗ khoảng đất trống;
chỉ ngồi chứ không nằm.


Điều quan trọng nhất ở đây là phải có ý chí, quyết tâm lớn. nếu như Phật tổ
Thích ca bất chấp mọi lời can ngăn của Vua cha, dấn thân vào núi Tuyết Sơn với
một quyết tâm rắn chắc như kim cương thì Trần Nhân Tơng từ bỏ địa vị cao sang,
phú quý tột cùng, chấp nhận cuộc sống tu hành, khắc khổ chốn Yên Tử linh thiêng
với ý chí khơng gì lay chuyển nổi. Đây cũng là điểm khác nhau giữa Trần Nhân
Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Theo ông, tu hạnh Đầu đà không định đến sự đắc
đạo, nhưng nó là điều kiện, bước chuẩn bị cho một hành giả bước vào thiền. trong
bài Cư trần lạc đạo ông viết:


<i>Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác. </i>
<i>Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay; </i>
<i>Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc. </i>


<i>Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung; </i>
<i>Dầu năng miễn thửa nhân nghì, ba phiến ngói u hơn lầu gác.42</i>


<i>Trong bài “Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường”, ông viết </i>


<i>Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên, </i>


<i>Bán vô, bán hữu tịch dương biên. </i>
<i>Mục đồng địch lý quy ngưu tận, </i>
<i>Bạch lộ song song phi há điền. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<i><b>Dịch nghĩa: </b></i>


<i>Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói, </i>
<i>Bóng chiều tà nửa khơng, nửa có. </i>


<i>Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết, </i>
<i>Từng hàng cị trắng bay xuống ruộng. </i>


Khơng những vậy, ông đã khuyên mọi người trong cuộc sống không nên coi
trọng công danh, không màng phú quý để xây dựng nếp sống đạo đức. trong bài
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ông viết :


<i>Công danh chẳng trọng, </i>
<i>Phú quý chẳng màng 43</i>


Tư tưởng Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến Trần Nhân Tông, nên ông đã
sống một cuộc đời thanh tịnh, lặng lẽ, khơng ốn giận, không chấp, sống theo nếp
sống thiện của nhà Phật. yên bề với cảnh sống đạm bạc, tìm chỗ an dưỡng thân
mình, vào chơc núi cao non khuất,náu mình trong hoang dã, làm bạn cùng vượn,
quét đài hoa, thờ Bụt, tụng niệm trời Phật, cầu thánh hiền mà lịng hỷ xả, vơ sự,
thanh nhàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<i>Đêm ngày hương hoả. </i>
<i>Tụng kinh niệm bụt, </i>
<i>Chúc thánh khẩn cầu”44</i>



Khi con người đã tu tập, rèn luyện đạo đức và trí tuệ ( rèn một tấm lòng) để trở
về với chân tâm, bản tính của mình, làm điều thiện, tránh được điều ác, thị khi đó
the Trần Nhân Tơng con người ta sẽ khơng cịn phân biệt cái này cái kia, khơng cịn
tranh nhân chấp ngã và thị phi chẳng hề nữa :


<i>Chẳng còn bỉ thử. </i>
<i>Tranh nhân chấp ngã. </i>
<i>Trần duyên rũ hết, </i>
<i>Thị phi chẳng hề. </i>
<i>Rèn một tấm lòng, </i>
<i>Đêm ngày đon đả. </i>
<i>Ngồi cong trần thế, </i>
<i>Chẳng quản sự thay. </i>
<i>Văng vẳng ngàn kia, </i>
<i>Dầu lòng dong thả.45</i>


Trải qua thời chiến, Trần Nhân Tơng đã tìm thấy trong đạo Phật có nhiều yếu
tố tích cực có thể tăng cường sự đồn kết toàn dân và đặc biệt là củng cố gây dựng,
rèn luyện đạo đức xã họi, đó là cơ sở không thể thiếu được của sự phồn thịnh, lành
mạnh.


Mong muốn này của ơng khơng chỉ có ý nghĩa tơn giáo, mà cịn mạng ý nghĩa
chính trị sâu xa, nhằm khắc phục những hạn chế của Phật giáo thời Lý và đầu thời
Trần, đồng thời nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập, thống nhất cho xã hội Đại Việt.
đây cũng chính là lý do vì sao Trần Nhân Tông sau khi xuất gia đã đi khắp nơi trong
nước giảng giả về mười điều thiện, giáo hóa nhân dân trở nên hiếu hịa và đạo đức.


44<i><sub> Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần quyển thượng, tr. 533, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.</sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57></div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<b>Tiểu kết chương 2 </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<b>KẾT LUẬN </b>


Cuộc đời và tư tưởng của Trần Nhân Tơng có thể được nghiên cứu và tiếp
nhận trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở mỗi một phương diện, dù là nhà vua, nhà
thơ, nhà tư tưởng Trần Nhân Tông cũng đều khiến chúng ta bất ngờ về tầm am hiểu.
Tư tưởng của ông về Phật, Phật tính, niết bàn, hay bàn về nhân sinh quan và con
đường tu tập giải thốt... khơng những khơng cao siêu, khó hiểu mà nó cịn hết sức
giản dị, đời thường. Ắt hẳn vì vậy mà những tư tưởng của ông đã lan tỏa vào trong
xã hội, len lỏi vào từng đối tượng con người.


Với quan niệm tuân thủ theo các quy luật vận động của xã hội, lối sinh hoạt tự
nhiên của con người, ông đưa ra một phương châm tu tập được gói gọn trong “Cư
Trần Lạc Đạo”. Ơng cho rằng: đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ. Nhưng ăn ở
đây không phải là phải ăn ngon, mặc không phải mặc cho đẹp, và ngủ không phải
để say. Vì nếu làm như vậy sẽ khiến cho lục tặc trong con người chúng ta trỗi dậy.
Mà theo Trần Nhân Tông, ăn, uống và ngủ chỉ để đáp ứng đủ nhu cầu tự nhiên tối
thiểu của con người, tránh sa đà hay tự nhấn chìm mình vào cõi tham. Mục đích của
cuộc sống khơng chỉ để tồn tại, mà là để giác ngộ chính bản thân mình, tự mình
giúp mình khỏi những khổ đau của cuộc đời.


Chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Phật giáo, Trần Nhân Tông đã tô điểm
cho nhân thế một hệ tư tưởng nhân văn sâu sắc, tô nét cho văn hóa thời kỳ nhà Trần
trở nên rực rỡ và trở thành một triều đại hưng thịnh Phật giáo trở nên hưng thịnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Trần Nhân Tông vừa là một vị vua anh hùng có bản lĩnh vững vàng của người
lãnh đạo vừa là một vị đại sư khai sáng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có nhiều tư
tưởng Phật học uyên thâm. Là một nhà tư tưởng lớn của nhân thế, nên mặc dù đã có
rất nhiều nghiên cứu về ơng như các bài báo, luận văn, luận án... nhưng vẫn là chưa
<i>đủ để chúng ta hiểu đúng, hiểu đầy đủ, hiểu sâu về ơng. Và khóa luận “Một số vấn </i>



<i>đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông” này cũng mới chỉ là bước </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


1. <i>Đồn Trung Cịn (1995), Phật học từ điển tập 1, Nxb TP. Hồ Chí Minh. </i>


2. <i>Đồn Trung Cịn (2009), Pháp Bảo Đàn Kinh, Nxb Tơn giáo Hà Nội. </i>


3. <i>Bùi Huy Du (2011), Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, Luận án Tiến sĩ </i>
Triết học (Mã số: 6222.08.01), Trường Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
- Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn.


4. <i>Thích Quang Đạo (2016), Đại cương triết học Phật giáo, Nxb Hồng Đức. </i>


5. <i>Cư sĩ Nguyên Giác (3/016), Trần Nhân Tơng – Đức Vua sáng tổ một dịng </i>


<i>thiền, Nxb Hội Nhà Văn. </i>


6. Nguyễn Hùng Hậu (1995), Tìm hiểu tư tưởng triết học Thiền của Trần Nhân
Tông, Tạp chí Triết học (số 3).


7. <i>PGS. Nguyễn Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb VHTT </i>
và Viện Văn Hóa.


8. <i>Ni sư Ayya Khema, Diệu Linh – Lý Thu Linh dịch (2017), Vô ngã vô ưu </i>


<i>(Thiền quán về Phật đạo), Nxb Lao Động. </i>


9. <i>Nguyễn Hiển Lê (1/2018), Khổng Tử, Nxb Văn hóa Văn Nghệ. </i>



10. <i>Thích Thơng Phương (2003), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Nxb Tôn giáo, </i>
Hà Nội.


11. <i>Thích Thơng Phương (2006), Trần Nhân Tơng và thiền phái Trúc Lâm, Nxb </i>
Tôn giáo, Hà Nội.


12. <i>Lê Mạnh Thát (2000), Tồn tập trần Nhân Tơng, Nxb Tp Hồ Chí Minh. </i>


13. <i>Lê Mạnh Thát (2000) , Tổng tập văn học Phật Giáo Việt Nam, , Nxb </i>
TPHCM.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

15. <i>Lê Mạnh Thát (2005), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 3( Từ Lý Thái Tông </i>


<i>đến Trần Thánh Tơng) , Nxb Tp Hồ CHí Minh. </i>


16. Hồng Thị Thơ (2005), Thiền Phật giáo: Nguyên lý và một số phạm trù cơ
bản, Tạp chí Triết học (số 10).


17. <i>Nguyễn Thị Toan (2010), Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của </i>


<i>Trần Nhân Tông, Luận văn Thạc sĩ Triết học (Mã số: 602280), Trường Đại học </i>


Quốc Gia Hà Nội- Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn.


18. <i>Trần Thái Tơng (Nguyễn Đăng Thục dịch) 1972, Khóa Hư Lục, bản PDF </i>


19. <i>Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân Văn Quốc Gia (2000), Tổng tập văn </i>


<i>học Việt Nam tập 1, Nxb KHXH. </i>



20. <i>Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân Văn Quốc Gia (2000), Tổng tập văn </i>


<i>học Việt Nam tập 2, Nxb KHXH. </i>


21. Tuệ Sĩ và Đức Thắng dịch, (Người đọc: Thy Mai, Huy Hồ, Tuấn Anh,…),


<i>Kinh Trung A Hàm, Nxb Phương Đông, Loại đĩa CD </i>


22. <i>Ủy ban Khoa hộc xã hội viện Văn học (1978), Thơ Văn Lý – Trần tập 1, Nxb </i>
Khoa học – Hà Nội.


23. <i>Ủy ban Khoa hộc xã hội viện Văn học (1978), Thơ Văn Lý – Trần tập 2, Nxb </i>
Khoa học – Hà Nội.


24. <i>Ủy ban Khoa hộc xã hội viện Văn học (1978), Thơ Văn Lý – Trần tập 3, Nxb </i>
Khoa học – Hà Nội.


25. <i>Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, Nxb </i>
<i>KHXH, Hà Nội. </i>


26. 20/4


</div>

<!--links-->

×