Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ TOÁN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI TRUNG TÂM XNK ĐÔNG PHONG THUỶ BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.84 KB, 16 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ TOÁN HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH NHẬP KHẨU TẠI TRUNG TÂM XNK ĐÔNG PHONG THUỶ
BẮC
3.1. SỰ CẦN THIẾT VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KẾ TOÁN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NHẬP KHẨU
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện
Chuyển sang cơ chế thị trường, hiệu quả cuối cùng của hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Tình trạng làm ăn không tính toán
hiệu quả "lãi giả. lỗ thật" thất thoát vốn phải được xoá bỏ hoàn toàn. Tình hình tài
chính của bất kỳ một doanh nghiệp, một đơn vị hoặc tổ chức nào cũng đòi hỏi phải
được phản ánh một cách trung thực, đầy đủ và kịp thời. Do đó kế toán, với chức
năng và nhiệm vụ của mình, chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc phản
ánh và cung cấp thông tin kinh tế phục vụ cho yêu cầu quản trị kinh doanh và quản
lý kinh tế tài chính.
Nhìn lại quá trình ra đời và phát triển của kế toán Việt Nam, chế độ kế toán
Việt Nam đã không ngừng được cải thiện, hoàn thiện và phát triển cùng với quá
trình và phát triển kinh tế, cùng với sự đổi mới của cơ chế kinh tế, góp phần tích
cực vào việc tăng cường và nâng cao chất lượng quản lý tài chính của Nhà nước và
doanh nghiệp. Chế độ kế toán hiện hành được bán hành theo quyết định của Bộ Tài
chính số 1141 TC-QĐ/CĐKT ngày 1/1/1995 đồng bộ cả chể độ chứng từ , số, tài
khoản và báo cáo tài chính.
Chế độ kế toán hiện hành đã được thiết kế xây dựng trên nguyên tắc đáp ứng
yêu cầu của nền kinh tế thị trường, tôn trọng và vận dụng có chọn lọc các nguyên
tắc, chuẩn mực quốc tế về kế toán. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế chuyển
đổi ở nước ta, đang hình thành và ngày càng phát triển, luôn đòi hỏi sự đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế tài chính nói riêng phải có sự thích ứng.
Mặt kiểm soát quá trình chọn lọc có nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về kế toán mới
chỉ là bước đầu, sự am hiểu về nguyên tắc và chuẩn mực này ở Việt Nam còn chưa
sâu sắc.
Do đó trong chế độ kế toán bán hành còn có những quy định chưa hoàn toàn
phù hợp, chưa sát với thực tế, quá trình vận dụng nguyên tắc, chuẩn mực còn hạn


chế nhất định đòi hỏi phải được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa.
Xét cụ thể trong nghiệp vụ kế toán kinh doanh nhập khẩu, thì những quy
định của tài chính về chế độ kế toán doanh nghiệp còn có những bất cập như: chiết
khấu bán hàng hạch toán vào chi phí tài chính, quy định về chênh lệch tỷ giá cuối
niên độ kế toán thông tư 44, hoặc chưa đề cập đến một số nội dung như chưa có
hoá đơn chứng từ để phản ánh nghiệp vụ chiết khấu, giảm giá, chưa có những quy
định cụ thể về thuế giá trị gia tăng liên quan vấn đề này, trong chế độ kế toán chưa
có hướng dẫn về kế toán thuế giá trị gia tăng đối với thu nhập hoạt động tài chính,
thu nhập baats thường ở những doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp trực tiếp.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu, cải tiến và tiếp tục
hoàn thiện hệ thống chế độ kế toán nói chung và kế toán kinh doanh nhập khẩu nói
riêng cho phù hợp với điều kiện mới là cần thiết khách quan.
3.1.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện
Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu phải được là một công
việc mang tính thường xuyên, liên tục, bởi xuất phát từ thực tế kinh doanh luôn
phát triển, ngày càng phong phú và đa dạng. Do đó, đòi hỏi cơ chế quản lý và
những công cụ quản lý cũng phải thích ứng với điều kiện mới, ngày càng hoàn
thiện hơn nữa cho phù hợp. Để đảm bảo cho việc hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu
quản lý và có tính khả thi cao thì nội dung hoàn thiện phải đáp ứng các yêu cầu cơ
bản sau:
3.1.2.1. Phù hợp với cơ chế quản lý hiện hành và có khả năng thích ứng trong tương
lai.
Hoàn thiện chế độ kế toán nói chung và kế toán nghiệp vụ kinh doanh nhập
khẩu nói riêng (đặc biệt trong điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng) là một tất yếu
khách quan trong giai đoạn hiện nay. Song việc hoàn thiện trước hết phải đảm bảo
sự phù hợp với các chính sách chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, các quy định
của luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật hiện hành. Mặt
khác trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, các chế độ chính sách về quản lý tài chính cũng từng bước
được cải tiến nhằm hoàn thiện và đồng bộ hoá đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị

trường.
Điều đó đòi hỏi kế toán phải có những thay đổi thích ứng để phát huy vai trò
là công cụ đắc lực và quan trọng nhất của quản lý kinh tế. Để quá trình hoàn thiện
công tác kế toán có cơ sở khoa học và ý nghĩa lâu dài, đòi hỏi ngoài việc phải tôn
trọng các chính sách, chế độ tài chính hiện hành, cần phải tính đến xu hướng hoặc
đón trước được những thay đổi trong tương lai của các chính sách tài chính này.
3.1.2.2. Phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý kinh doanh
xuất nhập khẩu
Chế độ kế toán của doanh nghiệp Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc
phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường ở Việt Nam, tôn trọng và vận dụng có
chọn lọc các nguyên tắc, chuẩn mực cùng với kinh nghiệm của một số nước có nền
kinh tế phát triển. Chế độ kế toán ban hành áp dụng chung cho các doanh nghiệp
thuộc mọi lĩnh vực hoạt động, mọi thành phần kinh tế trong cả nước. Tuy nhiên, ở
mỗi ngành, mỗi loại hình doanh nghiệp lại có những đặc điểm riêng về hoạt động
sản xuất kinh doanh, về tổ chức quản lý... Do đó khi hoàn thiện kế toán nghiệp vụ
kinh doanh nhập khẩu phải đảm bảo yêu cầu là phù hợp với chế độ kế toán doanh
nghiệp nói chung và đặc thù của đơn vị xuất nhập khẩu nói riêng, nghĩa là không
được phá vỡ cấu trúc của hệ thống chế độ kế toán hiện hành, mà trên cơ sở chế độ
kế toán này cùng với việc học tập, tiếp thu chuẩn mực kế toán, mô hình kế toán ở
các nước tiên tiến trên thế giới, kết hợp với đặc thù riêng của nghiệp vụ kinh
doanh xuất nhập khẩu để đưa ra những giải pháp phù hợp cho kế toán trong điều
kiện hiện nay. Đồng thời phải thể hiện được sự vận động khách quan của mối quan
hệ kinh tế liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp. Có như vậy thì việc hoàn thiện trở nên thiết thực và có hiệu quả hơn.
3.1.2.3. Tính khả thi cao trên cơ sở hiệu quả và tiết kiệm
Bất kỳ một giải pháp hoàn thiện nào trong công tác quản lý kinh tế nói
chung và công tác kế toán nói riêng đều đòi hỏi có tính khả thi và được xem xét
trong mối quan hệ với hiệu quả và tiết kiệm. Bởi vậy hoàn thiện kế toán nghiệp vụ
kinh doanh nhập khẩu (đặc biệt trong điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng) phải
hướng tới việc đảm bảo các vấn đề sau:

- Cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về toàn bộ hoạt động kinh
doanh nhập khẩu trên nhiều lĩnh vực như: quy mô, thời gian, địa điểm của nghiệp
vụ... Chỉ những thông tin được cung cấp kịp thời và trung thực mới là cơ sở để nhà
quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn trong quá trình kinh doanh.
- Việc thu thập, xử lý, tập hợp và cung cấp thông tin phải đảm bảo khoa học,
hợp lý và phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Phải cân đối giữa lợi ích
đạt được và chi phí bỏ ra để đảm bảo tính hiệu quả trong tổ chức công tác kế toán.
Tóm lại, để hoàn thiện kế toán nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu tại các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn
thì trong quá trình hoàn thiện phải đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu cơ bản trên
một cách đồng bộ, bởi việc thực hiện tốt yêu cầu cơ bản này là điều kiện để thực
hiện tốt yêu cầu cơ bản kia và ngược lại.
3.2. ĐÁNH GIÁ VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU Ở
TRUNG TÂM ĐÔNG PHONG - THUỴ BẮC
3.2.1. Những ưu điểm trong công tác hạch toán hàng nhập khẩu tại Trng tâm
XNK Đông Phong
- Để hoàn tất một nghiệp vụ mua hay bán đòi hỏi phải qua rất nhiều các bộ
phận khác nhau trong Trung tâm, ở mỗi bộ phận này đều phải lập chứng từ (đó có
thể là chứng từ thực hiện hay chứng từ mệnh lệnh) và đều có xác nhận của ít nhất
một người khác. Ví dụ ở nghiệp vụ mua hàng, phòng yêu cầu không thể thực hiện
đặt riêng ngoài kế hoạch với người cung cấp vì phòng tiếp nhận ghi chép một cách
độc lập các hàng hoá nhận được và phòng kế toán xác định giá. Phòng tiếp nhận
không thể gian lận hàng hoá vì báo cáo nhận hàng phải phù hợp với hoá đơn.
Tương tự người cung cấp không thể ghi hoá đơn nhiều hơn hàng hoá được giao đi.
Công việc của phòng kế toán được kiểm soát bởi người cung cấp và nhiều bộ phận
kế toán khác nhau. Ở nghiệp vụ bán, sự kiểm soát lẫn nhau cũng diễn ra tương tự.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy công tác kiểm soát các hoạt động ở
Trung tâm rất chặt chẽ, sự phân công, phân nhiệm giữa các bộ phận trong đơn vị
rất rõ ràng. Từ đó việc xây dựng chu trình xử lý và luân chuyển chứng từ cho mỗi
loại nghiệp vụ không những chỉ chú trọng đến những chứng từ làm căn cứ để ghi

sổ, mà còn coi trọng vai trò của những chứng từ mang tính mệnh lệnh và những
chứng từ tự lập khác ở từng khâu trong quá trình kiểm soát các hoạt động.
- Trung tâm áp dụng hình thức sổ chứng từ ghi sổ là hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu quản lý kinh doanh của đơn vị và hình thức này lại thuận lợi cho việc sử
dụng kế toán máy.
- Trung tâm áp dụng hệ thống tài khoản thống nhất theo quy định 1141-
TC/CĐ kế toán của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc áp dụng chế độ kế toán mới
thống nhất trong cả nước, trong mọi lĩnh vực kinh doanh, mọi thành phần kinh tế.
Đồng thời để thuận t iện cho việc theo dõi và hạch toán, Đông Phong có mở thêm
một số tiểu khoản phù hợp với đặc điểm riêng của đơn vị.
- Trong quá trình xuất nhập kho trung tâm theo dõi một cách thường xuyên
lượng hàng hoá tồn kho được kiểm kê vào cuối tháng có biên bản kiểm kê ghi chép
số hàng tồn thực tế. Số lượng hàng hoá tồn kho được phản ánh trung thực để phòng
kế toán báo cáo lên Ban Giám đốc và cũng qua đó Trung tâm có kế hoạch nhập
thêm hoặc tìm cách tiêu thụ hàng nhanh chóng hơn (trong trường hợp hàng bị tồn
đọng nhiều) để đạt được lượng tồn kho hợp lý. Mỗi loại hàng hoá nhập kho đều
được theo dõi trên một thẻ kho giúp kế toán nắm được dễ dàng lượng hàng hoá tồn
kho và sự biến động của nó một cách liên tục theo trình tự nhập, xuất hàng.
- Việc bố trí cán bộ kế toán và phân định công việc trong phòng kế toán của
Trung tâm là tương đối tốt, phù hợp với khối lượng công việc và đáp ứng được yêu
cầu quản lý đặt ra. Đội ngũ kế toán trong phòng có trình độ nghiệp vụ thành thạo,
có trách nhiệm trong công tác. Đặc biệt phụ trách kế toán là người có kinh nghiệm
trong nghề, hiểu biết sâu rộng về chế độ tài chính kế toán, có kinh nghiệm nghiệp
vụ ngoại thương. Do đó, việc tổ chức chỉ đạo các hoạt động kế toán của Trung tâm
luôn chính xác, đảm bảo được yêu cầu quản lý lãnh đạo của Trung tâm, tránh cho
Trung tâm được những bất lợi trong thanh toán và kinh doanh.
Tóm lại, nhờ có sự cố gắng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh
nhập khẩu nói chung, trong công tác kế toán nói riêng, Trung tâm xuất nhập khẩu
Đông Phong đã ngày càng phát triển và đứng vững hơn trong nền kinh tế thị
trường đầy biến động và qua đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn

Công ty. Tuy nhiên trong công tác hạch toán hoạt động nhập khẩu, Trung tâm vẫn
còn một số hạn chế tồn tại nhất định.
3.2.2. Những điểm cần hoàn thiện trong công tác kế toán hàng nhập khẩu tại
Trung tâm xuất nhập khẩu Đông Phong và phương hướng hoàn thiện
Tìm những nhược điểm trong công tác kế toán hàng nhập khẩu tại Trung
tâm, ta không chỉ đi tìm những điểm mà Trung tâm làm sai, hay làm không phù
hợp với chế độ kế toán hiện hành mà còn phải nhận thấy được những điểm bất cập
của chế độ kế toán.
Những điểm cần hoàn thiện:
3.2.2.1. Hoàn thiện hoá đơn chứng từ
* Hoàn thiện yếu tố của chứng từ kế toán:
Thực tế trong hoá đơn thuế giá trị gia tăng trên mẫu hoá đơn theo chế độ kế
toán quy định (cũng như được Trung tâm áp dụng) chỉ có 3 chữ ký của thủ trưởng
đơn vị, trưởng phòng kế toán và người mua hàng, là chưa hợp lý, bởi người chịu
trách nhiệm vật chất trực tiếp đối với nghiệp vụ còn bao gồm cả người viết hoá đơn
và thủ kho. Người viết hoá đơn chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, trung thực của

×