Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT LIỆU VÀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199 KB, 32 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT LIỆU VÀ KẾ
TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN
XUẤT
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI QUẢN LÝ VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ
TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1. Khái niệm, đặc điểm và vị trí của nguyên vật liệu trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh thì đối tượng lao động là yếu tố không thể
thiếu được, biểu hiện cụ thể cụ thể của nó dưới dạng vật hoá là các loại vật liệu.
Đối tượng lao động chỉ trở thành vật liệu khi có lao động của con người tác
động vào. Chính vì vậy không phải bất cứ đối tượng lao động nào cũng là vật
liệu.Ví dụ: Quặng sắt không phải là vật liệu nhưng khi khai thác qua chế biến thì
lại trở thành vật liệu.
Nói tóm lại:
Vật liệu là đối tượng lao động được thay đổi do lao động có ích của con người
tác động vào nó. Vật liệu là đối tượng lao động được biểu hiện dưới hình thái vật
chất- một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở cấu thành lên thực
thể sản phẩm.
Đặc điểm của vật liệu là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định, trong
quá trình đó vật liệu bị thay đổi toàn bộ hình thái vật chất ban đầu và giá trị vật liệu
được dịch chuyển một lần toàn bộ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất ( Công nghiệp, Nông nghiệp, Xây dựng cơ
bản) vật liệu là yếu tố vật chất quan trọng, chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng số chi phí để tạo ra sản phẩm, do vậy vật liệu không chỉ quyết định
đến mặt số lượng của sản phẩm, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm tạo ra. Nguyên vật liệu có đảm bảo đúng quy cách chủng loại, sự đa dạng thì
sản xuất mới đạt được yêu cầu và phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao
của xã hội.
Như vậy vật liệu có một giá trị rất quan trọng không thể phủ nhận được trong
quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.
Việc quản lý chặt chẽ nguyên vật liệu có một ý nghĩa rất lớn trong việc phấn


đấu giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng thu nhập cho doanh
nghiệp. Chính vì vậy việc tổ chức tôt công tác kế toán vật liệu đóng một vai trò
quan trọng và có ý nghiã lớn đối với công tác quản lý kinh tế tài chính của doanh
nghiệp.
2. Yêu cầu của việc quản lý vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quản lý vật liệu là yêu cầu khách quan của mọi nền sản xuất xã hội. Trong điều
kiện như hiện nay, nền sản xuất ngày càng mở rộng và phát triển trên cơ sở đáp
ứng đầy đủ nhu cầu phục vụ xã hội. Sản phẩm tiêu thụ nhiều thì lợi nhuận đem lại
càng cao, việc sử dụng vật liệu một cách tiết kiệm hợp lý, có hiệu quả ngày càng
được coi trọng.
Trước hết phải quản lý chặt chẽ quá trình thu mua, vận chuyển bảo quản, sử
dụng vật tư trong những yếu tố đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được tiến hành một cách thuận lợi và nhanh chóng. Qua đó tạo điều
kiện tốt cho việc thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, không
ngừng nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hoá, là cơ sở tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Ngoài ra, quản lý vật liệu chặt chẽ tránh những mất mát hư hỏng, giảm bớt
những rủi ro thiệt hại xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
góp phần nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, quản lý tốt vật liệu còn là điều kiện tốt để xác định hiệu quả sản xuất
kinh doanh và đánh giá tài sản của một đơn vị một cách đầy đủ, xác thực, đảm bảo
tính trung thực khách quan của số liệu, thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.
Với những ý nghĩa đó, việc quản lý vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Trong khâu thu mua: Phải quản lý về mặt khối lượng, quy cách, đúng chủng
loại và chất lượng, giá mua và chi phí thu mua của vật liệu phải được phản ánh đầy
đủ và chính xác, kế hoạch thu mua vật liệu phải đúng tiến độ thời gian, phù hợp
với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trong khâu bảo quản: Để tránh mất mát hư hỏng, hao hụt, đảm bảo an toàn
vật liệu, việc tổ chức tốt kho tàng bến bãi thực hiện đúng chế độ bảo quản đối với

từng loại vật liệu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sản xuất và kết quả kinh
doanh.
- Trong khâu sử dụng vật liệu: Phải thực hiện tốt định mức tiêu hao, sử dụng
hợp lý tiết kiệm trên cơ sở các định mức và dự toán chi nhằm phát huy hiệu quả sử
dụng vật liệu, nâng cao chất lượng và có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ thấp giá
thành sản phẩm, tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp.
Đồng thời phải thường xuyên hoặc định kỳ phân tích tình hình thực hiện định
mức tiêu hao vật liệu trong sản xuất, đó cũng là cơ sở làm tăng thêm sản phẩm cho
xã hội.
Do vậy trong khâu sử dụng cần phải tổ chức tốt việc ghi chép phản ánh tình
hình thực hiện định mức tiêu hao vật liệu trong sản xuất, đó cũng là cơ sở làm tăng
thêm sản phẩm cho xã hội.
Do vậy trong khâu sử dụng cần phải tổ chức tốt việc ghi chép phản ánh tình
hình xuất dùng và sử dụng vật liệu trong sản xuất kinh doanh.
- Trong khâu dự trữ: Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được diễn ra bình
thường, không bị ngừng trệ hoặc gây tình trạng ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định được định mức dự trữ tối đa, tối thiểu.
Tóm lại: Vật liệu là yếu tố quan trọng trong quá trình tạo ra sản phẩm, muốn
sản phẩm đạt tiêu chuẩn, chất lượng cao và tạo được uy tín trên thương trường thì
nhất thiết phải tổ chức tốt việc quản lý vật liệu.
3. Nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý kinh tế là tiết kiệm
lao động xã hội.
Trong doanh nghiệp sản xuất thì phải tiết kiệm triệt để các khoản chi phí nhằm
hạ giá thành sản phẩm.
Như phần trên đã nêu: Vật liệu là khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong giá thành sản phẩm, ngoài ra còn là bộ phận quan trọng trong giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp. Do vậy việc quản lý và sử dụng vật liệu là một trong
những nhân tố quyết định sự thành công của công tác quản lý kinh doanh.
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, việc cạnh tranh gay gắt giữa các

doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Trong cuộc tranh đua này ai biết cách
tổ chức quản lý, bố trí xắp xếp công việc nhịp nhàng theo một guồng máy, không
để một bộ phận nào phải dừng thì doanh nghiệp đó sẽ đứng vững và phát triển.
Vật liệu là những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, nếu quản lý và sử dụng
tốt sẽ tạo cho các yếu tố đầu ra những cơ hội tốt để tiêu thụ. Vì vậy trong suốt quá
trình luân chuyển, việc giám đốc chặt chẽ số lượng vật liệu mua vào, xuất dùng để
đảm bảo cho chất lượng sản phẩm theo đúng yêu cầu về kỹ thuật, giá trị đề ra đòi
hỏi cán bộ kế toán vật liệu phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp số liệu về tình hình thu mua
vận chuyển, bảo quản, tình hình nhập xuất tồn kho vật liệu về mặt số lượng, chủng
loại, giá cả, thời hạn nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời chủng loại vật liệu cho quá
trình sản xuất, kiểm tra giá cả của vật liệu và tính đúng giá thành thực tế của vật
liệu mua vào.
Thứ hai: áp dụng đúng đắn các phương pháp hạch toán ban đầu về vật liệu,
mở các sổ thẻ kế toán chi tiết để ghi chép, phân loại tổng hợp số liệu về tình hình
thực hiện có và tình hình biến động tăng giảm trong quá trình sản xuất kinh doanh,
tính toán đúng trị giá vốn vật liệu xuất dùng, cung cấp số liệu kịp thời để tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Thứ ba: Kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo quản dự trữ và sử dụng vật
liệu, kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch mua vật liệu, kiểm tra việc thực hiện kế
hoạch giá thành vật liệu mua vào, kiểm tra việc tuân thủ các định mức tiêu hao vật
liệu dùng vào sản xuất.
Thứ tư: Tham gia kiểm kê đánh giá lại vật liệu tồn kho theo đúng chế độ
nhà nước quy định, lập báo cáo về vật liệu phục vụ cho công tác quản lý và lãnh
đạo, tiến hành phân tích kinh tế tình hình thu mua bảo quản, dự trữ và sử dụng vật
liệu nhằm đưa ra đầy đủ các thông tin cần thiết cho quá trình quản lý.
Như vậy tổ chức công tác kế toán vật liệu sẽ góp phần thúc đẩy cung ứng
kịp thời đồng bộ vật liệu cần thiết cho sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng.
II. PHÂN LOẠI, ĐÁNH GIÁ NGUYÊN VẬT LIỆU
1. Phân loại nguyên vật liệu

Trong các doanh nghiệp sản xuất, nguyên vật liệu được sử dụng với khối lượng
lớn, bao gồm nhiều loại khác nhau, vai trò công cụ kinh tế tính năng lý hoá khác
nhau và biến động thường xuyên liên tục hàng ngày trong quá trình sản xuất. Để
quản lý được vật liệu một cách chặt chẽ, khoa học, hợp lý thì phải phân loại vật
liệu theo những tiêu thức nhất định.
Tuy nhiên việc phân loại cũng tuỳ thuộc vào từng loại hình trong doanh nghiệp
và từng nghành sản xuất khác nhau. song nhìn chung trong các doanh nghiệp sản
xuất việc phân loại vật liệu được phân chia theo các tiêu thức sau:
* Theo nội dung kinh tế, vai trò của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vật liệu được chia thành các loại sau:
+ Nguyên vật liệu chính (bao gồm cả nửa thành phẩm mua ngoài ) Nguyên vật
liệu chính là đối tượng lao động chủ yếu cấu thành nên thực thể chính của sản
phẩm như thép, sắt trong các doanh nghiệp chế tạo máy, cơ khí, xây dựng cơ bản,
bông trong các nhà máy sợi, vải trong các nhà máy may... Đối với nửa thành phẩm
mua ngoài với mục đích là tiếp tục quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá. Ví dụ
như sợi mua ngoài trong các doanh nghiệp dệt cũng được coi là nguyên vật liệu
chính.
+ Vật liệu phụ là những đối tượng lao động nhưng nó không phải là cơ sở vật
chất chủ yếu hình thành nên sản phâmr mới. Vật liệu phụ chỉ có tác dụng trong quá
trình sản xuất chế tạo sản phẩm. Ví dụ như làm tăng chất lượng nguyên vật liệu
chính và sản phẩm, phục vụ cho công tác quản lý, phục vụ sản xuất, phục vụ cho
nhu cầu công nghệ, cho việc bảo quản bao gói sản phẩm như các loại thuốc nhuộm,
thuốc tẩy, sơn, dầu nhờn, bao bì, vật liệu đóng gói, xà phòng dẻ lau...
+ Nhiên liệu: Bao gồm các loại ở thể lỏng, khí, rắn như xăng dầu, than củi, hơi
đốt, cung cấp năng lượng cho các phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị phục
vụ cho công nghệ sản xuất sản phẩm trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Phụ tùng thay thế: Bao gồm tất cả các loại thiết bị, phương tiện lắp đặt vào
các công trình xây dựng cơ bản, thiết bị sản xuất phương tiện vận tải...
+ Thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm các loại thiết bị, phương tiện lắp đặt vào
các công trình xây dựng cơ bản của doanh nghiệp.

+ Phế liệu: Là các loại vật liệu loại ra trong quá trình sản xuất sản phẩm như
gỗ, sắt, thép vụn hoặc phế liệu thu hồi trong quá trinh thanh lý tài sản cố định.
Từ cách phân loại này giúp cho kế toán vận dụng tốt các tài khoản tổng hợp, tài
khoản cấp 1, cấp 2, để tổ chức hạch toán quản lý vật liệu một cách khoa học, chặt
chẽ và có hiệu quả.
* Theo nguồn hình thành, vật liệu có thể chia thành:
+ Vật liệu mua ngoài
+ Vật liệu tự sản xuất
+ Vật liệu từ các nguồn khác như nhận góp vốn liên doanh, viện trợ, cấp phát,
tặng thưởng...
Cách phân loại này tạo tiền đề cho việc quản lý và sử dụng riêng cho các loại vật
liệu trong sản xuất kinh doanh.
* Theo quyền sở hữu, có thể chia vật liệu thành:
+ Vật liệu tự có: Toàn bộ vật liệu thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
+ Vật liệu của bên ngoài: Vật liệu nhận gia công, chế biến hoặc giữ hộ
* Theo mục đích sử dụng của vật liệu
( cũng như nội dung quy định phản ánh chi phí vật liệu trên các tài khoản kế
toán), vật liệu của doanh nghiệp được chia thành:
+ Nguyên vật liệu trực tiếp: Dùng cho sản xuất, chế tạo sản phẩm.
+ Nguyên vật liệu dùng cho các nhu cầu khác: phục vụ, quản lý ở các phân
xưởng, tổ, đội sản xuất, cho nhu cầu bán hàng, quản lý doanh nghiệp.
Trên thực tế, việc sắp xếp từng loại vật liệu như đã trình bày ở trên, tuy nhiên
mỗi loại vật liệu có tính năng lý hoá khác nhau và việc sử dụng vật liệu vào quá
trình sản xuất của mỗi đơn vị cũng khác nhau. Do đó để phục vụ cho việc quản lý
nguyên vật liệu tốt hơn thì cần phải biết một cách đầy đủ, cụ thể số hiện có, tình
hình biến động của từng loại vật liệu nên vật liêu cần được phân chia một cách
chi tiết hơn theo các tính năng, các quy cách, phẩm chất trên cơ sở đó xây dựng
sổ danh điểm vật liệu, trong đó vật liệu được chia thành từng loại, từng nhóm
theo như mẫu dưới đây:
SỔ DANH ĐIỂM NGUYÊN VẬT LIỆU

Loại: Nguyên vật liệu chính- ký hiệu
Ký hiệu Tên nhãn hiệu quy cách Đơn Đơn gía Ghi
Nguyên liệu, Vật liệu vị
tính
hạch
toán
chúNhóm Danh điểm
NL, VL
1 2 3 4 5 6
1521.01 1521.01.01
............. ..............
1521.99 1521.99.01
2. Đánh giá vật liệu.
Đánh giá vật liệu là dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị vật liệu theo
những nguyên tắc nhất định. Về kế toán Nhâp - Xuất - Tồn kho vật liệu phải phản
ánh theo trị giá vốn thực tế ( giá thành thực tế của vật liệu nhập kho )
2.1 Tính giá vật liệu theo giá thành thực tế của vật liệu nhập kho.
Nguyên vật liệu của doanh nghiệp thường được nhập từ nhiều nguồn khác
nhau, tuỳ theo từng nguồn nhập mà giá vốn thực tế của vật liệu được xác định như
sau:
 Đối với vật liệu mua ngoài, trị giá vốn thực tế gồm:
Trị giá mua ghi
trên hoá đơn
+
Chi phí thu mua thực tế (bao
gồm cả chi phí vc, bx)

Các khoản chiết khấu
giảm giá (nếu có)
 Đối với vật liệu do doanh nghiệp tự gia công chế biến thì giá vốn thực tế bao

gồm:
Trị giá vốn thực tế VL xuất
kho gia công chế biến +
Các chi phí gia công
chế biến VL
 Đối với vật liệu thuê ngoài gia công chế biến, giá vốn thực tế bao gồm:
Trị giá vốn thực tế
vật liệu thuê ngoài +
Các chi phí vận chuyển bốc dỡ cùng với số tiền
phải trả cho đơn vị nhận gia công chế biến
chế biến
 Đối với vật liệu nhận đóng góp từ các tổ chức cá nhân tham gia góp vốn liên
doanh thì : giá thực tế góp vốn liên doanh là giá do bên liên doanh quy định.
 Phế liệu được đánh giá theo giá ước tính ( giá thực tế có thể sử dụng đuợc )
2.2 Tính trị giá vốn vật liệu xuất kho.
Đơn giá vật liệu nhập kho ở các lần nhập vật liệu thường khác nhau nên khi
xuất dùng vật liệu kế toán phải tính chính xác trị giá vốn thực tế của vật liệu xuất
kho sử dụng cho các mục đích khác nhau. Việc tính toán trị giá thực tế của vật liệu
xuất kho có thể được tính theo nhiều phương pháp, tuỳ theo điều kiện vận dụng
của từng doanh nghiệp để có thể lựa chọn phương pháp tính cho phù hợp.
 Tính theo phương pháp giá thực tế bình quân
 Phương pháp tính giá bình quân của cả kỳ dự trữ
Giá đơn vị
bình quân
=
cả kỳ dự trữ
Trị giá thực tế NVL Trị giá thực tế
NVL
tồn kho đầu kỳ + nhập kho trong
kỳ

Số lượng NVL tồn + Số lượng NVL
kho đầu kỳ nhập kho trong
kỳ
Phương pháp này có ưu điểm là tính toán đơn giản, dễ làm, tính toán giá trị
của nguyên vật liệu xuất sử dụng trong kỳ tương đối chính xác. Tuy nhiên lại có
nhược điểm là công việc tính toán dồn vào cuối kỳ, gây ảnh hưởng đến công tác
quyết toán nói chung.
 Phương pháp tính giá bình quân cuối kỳ trước:
Nội dung chính của phương pháp này là lấy giá thực tế bình quân của mỗi
loại nguyên vật liệu tồn kho ở cuối kỳ trước làm đơn giá tính giá trị xuất kho của
nguyên vật liệu đó trong kỳ.
Giá đơn vị
bình quân =
cuối kỳ trước
Trị giá thực tế NVL tồn kho cuối kỳ trước
Số lượng NVL tồn kho cuối kỳ trước
Giá thực tế NVL
xuất trong kỳ =
Số lượng NVL
xuất trong kỳ
×
Giá đơn vị bình
quân cuối kỳ trước
Phương pháp này, mặc dù khá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến
động của nguyên vật liệu trong kỳ. Tuy nhiên không chính xác vì không tính đến
sự biến động của giá cả nguyên vật liệu kỳ này.
 Phương pháp tính giá bình quân sau mỗi lần nhập:
Theo phương pháp này, sau mỗi lần nhập kho nguyên vật liệu, tính lại giá
thực tế nguyên vật liệu bình quân sau mỗi lần nhập kho và từ đó xác định giá
trị nguyên vật liệu xuất sử dụng sau lần nhập đó.

Giá đơn vị
bình quân sau =
mỗi lần nhập
Trị giá thực tế NVL + Trị giá thực tế NVL nhập
giữa
tồn cuối lần nhập trước lần xuất trước và lần xuất
này
Số lượng NVL tồn + Số lượng NVL nhập kho
giữa
cuối lần xuất trước lần xuất trước và lần xuất
này
Trị giá thực tế NVL
xuất sử dụng
=
Số lượng NVL
xuất sử dụng
×
Giá đơn vị
bình quân

Phương pháp này có ưu điểm là khắc phục được nhược điểm của hai phương
pháp trên, tính toán vừa chính xác, vừa kịp thời giá trị của nguyên vật liệu xuất
trong kỳ. Tuy nhiên phải tính toán nhiều lần, tốn công sức, không phù hợp với
kế toán bằng tay. Thích hợp với doanh nghiệp sử dụng chương trình kế toán máy
và số lần nhập nguyên vật liệu trong kỳ không nhiều.
 Tính theo phương pháp giá thực tế đích danh.
Phương pháp này thường được áp dụng đối với các loại vật liệu có trị giá cao,
các loại vật tư đặc chủng và bảo quản theo từng lô vật liệu nhập kho. Giá vật liệu
xuất kho được căn cứ vào đơn giá của vật liệu nhập kho theo từng lô của vật liệu
nhập kho, không quan tâm đến thời gian nhập.

Ưu điểm: Đây là phương pháp lý tưởng nhất bởi giá trị hàng tồn kho phản ánh
đúng giá trị của nó.
Nhược điểm: Công việc tính toán phức tạp, đòi hỏi phải hạch toán đầy đủ, chi
tiết, tỉ mỉ.
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có những loại nguyên vật
liệu có đặc điểm riêng, giá trị lớn, có điều kiện bảo quản riêng từng lô nguyên vật
liệu nhập kho
 Tính theo phương pháp nhập, trước xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này người ta giả thiết lô hàng nào nhập trước thì xuất trước,
xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất.
Như vậy giá trị vật liệu tồn kho sẽ được tính gần với giá trị hiện tại vì được tính
theo giá của lần nhập kho mới nhất
Các doanh nghiệp có thể tính ngược lại bằng cách tính trị giá vốn hàng còn lại
theo đơn giá nhập sau xuất sau rồi dùng quan hệ cân đối vật liệu luân chuyển trong
kỳ để tính trị giá vốn vật liệu xuất dùng trong kỳ.
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ làm, luôn cập nhật được thông
tin về tình hình nhập - xuất nguyên vật liệu trong kỳ một cách gần đúng với luồng
nhập - xuất trong thực tế. Đặc biệt khi giá cả có xu hướng tăng thì áp dụng phương
pháp này, doanh nghiệp có số lãi nhiều hơn so với khi sử dụng phương pháp khác,
do giá vốn hàng bán bao gồm những vật tư, hàng hoá mua vào từ trước với giá
thấp.
Nhược điểm của phương pháp này là làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp
với chi phí hiện tại bởi vì doanh thu hiện tại được tạo bởi giá trị vật tư đã được
mua vào từ đó rất lâu.
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có ít danh điểm NVL, số
lần nhập mỗi loại không nhiều, việc sủ dụng NVL đòi hỏi cao về mặt chất lượng và
thời hạn dự trữ.
 Tính theo phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)
Theo phương pháp này người ta giả thiết lô hàng nào nhập sau thì sẽ được xuất
trước, hàng thuộc lô hàng nào thì lấy đơn giá mua thực tế hoặc giá thành sản phẩm

xuất thực tế của lô hàng đó để tính.
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ làm, luôn cập nhật về giá trị
nhập xuất kho nguyên vật liệu, và nó làm cho những khoản doanh thu hiện tại phù
hợp với những khoản chi phí hiện tại bởi doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị
của vật tư được mua ngay gần đó. Đặc biệt khi giá cả thị trường có xu hướng tăng
lên, phương pháp này sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm được số thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước bởi lúc đó giá trị của hàng hoá tồn kho cuối
kỳ sẽ là thấp nhất và giá vốn hàng bán tăng lên do đó giảm lợi nhuận dẫn tới thuế
thu nhập giảm.

×