CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TRONG DOANH
NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC KẾ TOÁN BÁN HÀNG
VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG.
1. Quá trình bán hàng và kết quả bán hàng.
Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu về hàng hoá, thành phẩm, lao vụ,
dich vụ cho khách hàng, doanh nghiệp thu được tiền hay được quyền thu tiền. Xét
về mặt chu chuyển vốn thì bán hàng là quá trính chuyển từ vốn thành phẩm, hàng
hoá sang vốn bằng tiền. Như vậy quá trình bán hàng là quá trình vận động ngược
chiều của hàng và tiền ( H - T ), kết thúc quá trình này khách hàng có được hàng
để thoả mãn nhu cầu của mình còn doanh nghiệp thu được tiền để tái sản xuất
giản đơn và sản xuất mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Về mặt phạm vi
bán hàng gồm bán hàng ra bên ngoài trong doanh nghiệp và bán hàng trong nội
bộ doanh nghiệp.
Hàng là một khái niệm chung dùng để chỉ hàng hoá, sản phẩm đem tiêu thụ.
Sản phẩm có thể là thành phẩm, lao vụ, dịch vụ thậm chí là nửa thành phẩm đang
trên dây chuyền sản xuất nhưng vì một lý do nào đó được đem ra tiêu thụ
Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu quá trình bán hàng bao gồm quá trình
chi phí chi ra để có được số hàng đem tiêu thụ, chi cho các hoạt động tiêu thụ,
quản lý hàng và quá trình thu được tiền về số hàng đã bán. Chênh lệch giữa doanh
thu thu được về số hàng đã bán (doanh thu thuần) với chi phí (giá vốn hàng bán,
chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp) của số hàng đó chính là kết quả
bán hàng được biểu hiện bằng số tiền lãi hoặc lỗ trong một thời kỳ. Kết quả bán
hàng là bộ phận chủ yếu, quan trọng nhất trong kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó phản ánh tổng hợp kết quả của hoạt động kinh doanh trong thời kỳ
của doanh nghiệp.
Kết quả bán hàng được tạo ra từ quá trình bán hàng. Giữa kết quả bán hàng
và quá trình bán hàng nói riêng và toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung có
1
Trần thị Vân Anh
1
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
mối quan hệ nhân - quả rất chặt chẽ. Tổ chức tốt quá trình bán hàng là cơ sở để
tạo ra kết quả bán hàng tốt và ngược lại.
2. ý nghĩa, vai trò của quá trình bán hàng và kết quả bán hàng.
Doanh nghiệp trong nền kinh thị trường được hiểu theo nghĩa chung nhất là
tổ chức kinh tế hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất
của doanh nghiệp. Để tạo ra được lợi nhuận doanh nghiệp phải tổ chức hoạt động
kinh doanh của mình, phải “bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mà
mình có”, tức là phải xuất phát từ thị trường. Điều này khác hẳn với cơ chế sản
xuất kinh doanh theo kế hoạch nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoá. Bằng
chứng duy nhất cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là sản phẩm của
doanh nghiệp được tiêu thụ tốt trên thị trường và doanh nghiệp làm ăn có lãi. Thị
trường luôn là một thực thể phức tạp và biến độngkhông ngừng. Sản phẩm của
doanh nghiệp chỉ có chu kỳ sống nhất định, việc thị trường chấp nhận sản phẩm
cua doanh nghiệp cũng chỉ mang tính lịch sử. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải
không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản
phẩm cho phù hợp với nhu cầu thị trường nhằm mục đích sản phẩm của doanh
nghiệp được tiêu thụ tốt trên thị trường. Nói các khác việc có tiêu thụ được hàng
hay không? Có tạo được lợi luận bán hàng hay không? Có vai trò quyết định đén
sự sống, còn của doanh nghiệp. Điều đố là do xuất phát những ý nghĩa cơ bản sau
của nó đối với doanh nghiệp:
- Thứ nhất: Kết quả bán hàng được tạo ra từ quá trình bán hàng biểu hiện
bằng số lãi hoặc lỗ. Kết quả bán hàng là nguồn để doanh nghiệp mở rộng hoạt
động kinh doanh, là nguồn để phân phối cho các chủ sở hữu, làm nghĩa vụ với
nhà nước, người cung cấp, cải thiện đời sống cho lao động,.... Cơ chế thị trường
luôn khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, tạo ra
được lợi nhuận đồng thời cũng đào thải các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, hoạt
động kém hiệu quả.
- Thứ hai: Kết quả bán hàng là chỉ tiêu tài chính quan trọng, cơ bản phản
ánh tổng quát hoạt động sản xuất kinh doanh và tình trạng tài chính của doanh
nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với chỉ tiêu tài chính kết
2
Trần thị Vân Anh
2
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
quả bán hàng là tốt doanh nghệp doanh nghiệp sẽ có điều kiện tham gia thị trường
vốn, huy động vốn thông qua các biện pháp phát hành cổ phiếu, trái phiếu,...
không ngừng nâng cao năng lực tài chính, mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Thứ ba: Xét về mặt chu chuyển vốn, quá trình bán hàng là quá trình
chuyển từ vốn thành phẩm, hàng hoá sang vốn bằng tiền kết thúc một vòng luân
chuyển vốn của doanh nghiệp. Do vậy đẩy nhanh quá trình bán hàng sẽ giúp
doanh nghiệp tiết kiệm vốn một cách tương đối do đẩy nhanh quá trình thu hồi
vốn, tăng vòng quay lưu thông từ đố nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Thứ tư: Xét trrên góc độ kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt quá trình bán hàng
của mỗi doanh nghiệp sẽ góp phần vào việc điều hoà giữa sản xuất và tiêu dùng,
giữa tiền và hàng đảm bảo sự cân đối trong từng ngành cũng như trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Mặt khác trong điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ và nền kinh
tế mở cửa của nước ta thì việc tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá ở mỗi doanh nghiệp
có thể tạo nên uy tín, sức mạnh của đất nước trên trường quốc tế.
3. Yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và kết quả bán hàng.
Quản lý quá trình bán hàng và kết quả bán hàng là quản lý kế hoạch và thực
hiện kế hoạch bán hàng, chỉ tiêu kết quả bán hàng đối với từng mặt hàng trong
từng thời kỳ, theo từng hợp đồng kinh tế quản lý khối lượng hàng hoá, thành
phẩm bán ra và tiêu thụ nội bộ, quản lý doanh thu bán hàng, giá vốn hàng bán, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp của hàng bán ra, quản lý là quá trình
thanh toán với khách hàng,với nhà nước về thuế tiêu thụ phải nộp.
Yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và kết quả bán hàng là phải giám sát
chặt chẽ hàng hoá, thành phẩm tiêu thụ trên cả 3 mặt: số lượng, chất lượng, chủng
loại: giám sát chặt chẽ chi phí bán hàng phát sinh trong quá trình tiêu thụ, phản
ánh kịp thời doanh thu bán hàng; xác định đúng đắn giá vốn hàng bán, chi phí
quản lý doanh nghiệp phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ, từ đó xác định đúng
đắn kết quả bán hàng; Có biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh quá trình tiêu thụ, tăng
doanh thu bán hàng và kết quả bán hàng, không ngừng củng cố, mở rộng thị
trường. Quản lý chặt chẽ kết quả bán hàng giải quyết hài hoà giữa nhu cầu đầu tư
3
Trần thị Vân Anh
3
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
và nhu cầu phân phối, giữa mối quan hệ lợi ích của các bên liên quan: chủ sở hữu,
nhà nước, người đầu tư, công nhân viên,...
Quá trình bán hàng, kết quả bán hàng có ý nghĩa, vai trò quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, cũng như liên quan đén lợi ích của
nhiều bên. Do vậy yêu cầu quản lý chặt chẽ, hiệu quả quá trình bán hàng, kết quả
bán hàng là tất yếu khác quan.
4. Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Kế toán bán hàng, xác địng kết quả bán hàng có đối tượng là tài sản và sự
vận động của tài sản hay tài sản của các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh
trong quá trình bán hàng của doanh nghiệp. Nó trực tiếp thu nhận, xử lý và cung
cấp thông tin về quá trình bán hàng của doanh nghiệp và thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể sau:
- Ghi chép đầy đủ kịp thời khối lượng thành phẩm, hàng hoá, dịch vụ bán ra
và tiêu thụ nội bộ, tính toán đúng đắn trị giá vốn hàng đã bán, chi phí bán hàng và
các chi phí khác nhằm xác định đún đắn kết quả bán hàng.
- Kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch lợi
nhuận, xác định kết quả bán hàng phục vụ cho viêc lập báo cáo tài chính và quản
lý doanh nghiệp.
Sau khi có được kết quả bán hàng, phân tích kết quả bán hàng sẽ đi vào
đánh giá một cách có hệ thống và toàn diện kết quả bán hàng của doang nghiệp
nói chung và của từng mặt hàng, từng bộ phận nói riêng, xác định và tính toán cụ
thể mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới kết quả bán hàng từ đó đề xuất các
biện pháp nhằm nâng cao kết quả bán hàng của soanh nghiệp trong kỳ tới.
Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ
trợ bổ sung cho nhau cùng nâng cao hiệu quả của công tác quản lý quá trình bán
hàng của doanh nghiệp.
Xuất phát từ nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
trên thì việc phải tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng là một yêu cầu khách quan.
4
Trần thị Vân Anh
4
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng đòi hỏi
phải bố trí sử dụng có hiệu quả lao động của bộ phận kế toán bán hàng trong mối
liên hệ chặt chẽ với các bộ phận kế toán khác. Đòi hỏi việc tổ chức hệ thống
chứng từ và luân chuyển chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, hình thức kế
toán, kiểm tra kế toán, trang bị các phương tiện kỹ thuật xử lý thông tin phải thực
sự khoa học, hợp lý vừa phù hợp với yêu cầu của chính sách, chế độ nhà nước qui
định vừa phù hợp với đặc điểm quá trình bán hàng và yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo phát huy đưpợc vai trò của kế
toán trong việc quản lý các hoạt động kinh tế tài chính.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH THU BÁN HÀNG VÀ KẾT
QỦA BÁN HÀNG.
1. Phương thức bán hàng.
Phương thức bán hàng là cách thức doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu
thành phẩm, hàng hoá cho khách hàng và thu được tiền hoặc được quyền thu tiền
về số hàng tiêu thụ. Bán hàng là sự vận động ngược chiều của hàng và tiền, nó
gồm hai quá trình: Quá trình doanh nghiệp giao hàng cho khách hàng và quá trình
doanh nghiệp thu được tiền hoặc được quyền thu tiền.
Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu, bán hàng được chia thành:
+ Bán hàng trong nước
+ Bán hàng ngoài nước ( xuất khẩu )
1.1. Bán hàng trong nước
Cũng như các doanh nghiệp Thương mại dịch vụ trong nước, các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thường áp dụng các phương pháp bán hàng
sau đây:
1.1.1. Phương thức bán hàng qua kho
Phương thức bán hàng qua kho bao gồm hai hình thức: gửi hàng và giao
hàng trực tiếp.
•Hình thức gửi hàng
Theo hình thức này, doanh nghiệp bán gửi hàng cho khách hàng và giao tại
địa điểm đã ký trong hợp đồng ( nhà ga, bến cảng...). Hàng gửi đi vẫn thuộc
5
Trần thị Vân Anh
5
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào khách hàng nhận được hàng, chấp
nhận thanh toán hoặc đã thanh toán thì khi ấy hàng hoá được tính là bán.
•Hình thức giao hàng trực tiếp
Theo hình thức này, khách hàng uỷ quyền cho cán bộ nghiệp vụ nhận hàng
tại kho của doanh nghiệp bán hoặc trong trường hợp giao nhận hàng tay ba tại các
bến cảng, ga tàu... Người được uỷ quyền phải đảm bảo có đầy đủ thủ tục giấy tờ
như chứng minh thư nhân dân, giấy giới thiệu và các thủ tục cần thiết khác. Hàng
hoá chuyển quyền sở hữu khi người được uỷ quyền ký vào hoá đơn GTGT, phiếu
xuất kho. Trong trường hợp này dù khách hàng đã trả tiền hoặc chưa trả tiền thì
kế toán doanh nghiệp bán đều được phản ánh doanh thu bán hàng.
1.1.2. Phương thức bán hàng vận chuyển thẳng
Phương thức bán hàng vận chuyển thẳng được chia thành hai hình thức:
Vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán
Vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán
•Bán hàng vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán
Theo hình thức này, doanh nghiệp XNK ký kết hợp đồng với khách hàng và
với người cung cấp để mua hàng ở bên cung cấp bán cho khách hàng. Hàng hoá
không chuyển về kho của doanh nghiệp XNK mà được thực hiện bằng một trong
hai cách:
( 1 ) Bên cung cấp chuyển hàng thẳng đến bên khách hàng
( 2 ) Khách hàng trực tiếp nhận hàng tại kho hoặc địa điểm nào đó do
bên cung cấp giao hàng
• Bán hàng vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán
Theo hình thức này, doanh nghiệp XNK không tham gia vào quá trình mua,
bán hàng hoá mà chỉ đóng vai trò trung gian, môi giới giữa bên bán và bên mua
để hưởng phần thủ tục phí theo hợp đồng thoả thuận với các bên.
1.1.3. Phương thức bán hàng đại lý
Đây là phương thức mà bên chủ hàng giao hàng cho bên nhận đại lý để bán.
Bên nhận đại lý sẽ được hưởng hoa hồng do được làm đại lý. Theo luật thuế nếu
6
Trần thị Vân Anh
6
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
bên nhận đại lý bán hàng theo đúng giá của bên giao qui định thì phần hoa hồng
được hưởng không phải chịu thuế giá trị gia tăng, tất cả các khoản thuế GTGT
phải nộp đều do bên chủ hàng phải chịu, còn nếu bên nhận đại lý bán hàng hưởng
khoản chênh lệch giá thì bên nhận đại lý phải chịu thuế GTGT tính trên phần
GTGT đó. Bên giao đại lý chỉ chịu thuế GTGT theo phạm vi doanh thu của mình.
1.1.4. Phương thức bán hàng trả góp
Kinh doanh theo cơ chế thị trường, bán hàng trả góp là một hình thức làm
tăng doanh thu, phù hợp với thu nhập của dân cư. Bán hàng trả góp là phương
thức bán hàng thu tiền nhiều lần, người mua phải thanh toán lần đầu ngay tịa thời
điểm mua một phần tiền hàng, số tiền còn lại người mua chấp nhận tả dần vào các
kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi xuất nhất định. Thông thường số tiền trả ở
các kỳ sau bằng nhau trong đó bao gồm doanh thu gốc và phần lãi do trả chậm.
Theo phương thức này khi giao hàng cho người mua, hàng được xác định ngay là
tiêu thụ. Doanh nghiệp bán hàng trả góp phải nộp thuế GTGT trên giá bán trả một
lần chưa có thuế GTGT của số hàng hoá đó ( không bao gồm lãi trả góp ) không
tính theo số tiền trả góp từng kỳ.
1.1. 5. Các phương thức bán lẻ
•Phương thức bán hàng thu tiền trực tiếp
Theo phương thức này, nghiệp vụ bán hàng hoàn thành trực diện với khách
hàng, khách hàng nộp tiền cho người bán, người bán giao hàng cho khách hàng.
Các doanh nghiẹp XNK có hoạt động bán lẻ hàng hoá không thuộc diện
phải lập hoá đơn bán hàng, người bán phải lập “bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ
(mẫu số 06/GTGT) theo từng lần bán, theo từng loại hàng. Cuối ngày người bán
hàng nộp bảng kê cho bộ phận kế toán để làm doanh thu tính doanh thu và tính
thuế GTGT.
•Phương thức bán hàng thu tiền tập trung
Theo phương thức này, địa điểm bán hàng có nhân viên thu ngân riêng, viết
tích kê, hoá đơn và thu tiền của khách hàng, giao hoá đơn, tích kê để khách hàng
nhận hàng tại người giao hàng.
7
Trần thị Vân Anh
7
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Cuối ngày hoặc cuối ca nhân viên giao hàng lập bảng kê bán lẻ, đối chiếu
với số tiền thực nộp của nhân viên thu ngân để xác định thừa thiều tièn bán hàng.
•Phương thức bán hàng tự phục vụ
Phương thức này thường được thực hiện ỏ cá siêu thị, khách hàng tự chọn
hàng để mua, việc thanh toán tiền hàng được thực hiện bởi các nhân viên bán
hàng, hàng hoá được qui định bởi mã số, mã vạch, trên cơ sở đó, sử dụng hệ
thống máy tính để tính tiền hàng mà khách hàng phải thanh toán. Cuối ngày, cuối
ca có thể xác định được doanh thu trên cơ sở số liệu tích luỹ của máy tính.
1.1.6 Bán hàng trong nội bộ doanh nghiệp
Bán hàng trong nội bộ doanh nghiệp gồm việc bán hàng giữa cấp trên (đơn
vị chính) với cấp dưới (các đơn vị trực thuộc) và giữa cấp dưới với nhau trong
một đơn vị hạch toán độc lập
1.2. Kế toán bán hàng ngoài nước (xuất khẩu hàng hoá)
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá, sản phẩm dịch vụ ra nước ngoài trên cơ sở
các hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa doanh nghiệp XNK nước ta với nước ngoài
thanh toán bằng ngoại tệ. ngoài một số trường hợp xuất khẩu theo Nghi định thư,
HIệp định, xuất khẩu trừ vào các khoản nợ của nhà nước giao cho doanh nghiệp
XNK thực hiện.
Đối với các mặt hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể tiến hành theo
phương thức xuất khẩu trực tiếp (trực tiếp quan hệ, giao dịch, ký kết hợp đồng,
thanh toán...) hay phương thức uỷ thác (uỷ thác cho các đơn vị khác) hoặc kết hợp
cả trực tiếp và uỷ thác.
Thông thường phương thức trực tiếp được sử dụng khi doanh nghiệp có đủ
khả năng tổ chức đàm phán, ký kết hợp đồng, am hiểu đối tác và am hiểu thị
trường. Ngược lại nếu doanh nghiệp chưa thật sự am hiểu thị trường hay bạn
hàng mới với những mặt hàng mới hoặc doanh nghiệp chưa đủ khả năng tổ chức
đàm phán, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, doanh nghiêp có thẻ tiến hành xuất
khẩu hàng hoá theo phương thức uỷ thác. Điều kiện ràng buộc đối với bên uỷ
thác như sau:
8
Trần thị Vân Anh
8
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đối với đơn vị nhận xuất hàng uỷ thác phải chịu trách nhiệm về tư cách
pháp nhân để xuất hàng và được hưởng hoa hồng uỷ thác xuất khẩu đồng thời
phải phối hợp với bên nhờ uỷ thác để cùng giải quyết những việc khiếu nại kiện
tụng có thẻ xảy ra. Còn đối với đơn vị nhờ xuất khẩu uỷ thác phải chịu trách
nhiệm toàn bộ chi phí để nhập được hàng và phối hợp với bên nhận uỷ thác để
giải quyết các vấn đề có thể xảy ra: kiện tụng, khiếu nại.... Hai bên phải lập hợp
đồng kinh tế qui định những điều kiện cần thiết: phương thức giao hàng, phương
thức thanh toán, tỷ lệ hoa hồng được hưởng...
Đa dạng hoá phương thức bán hàng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách
hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp là một biện pháp quan trọng nhằm đẩy
mạnh tiêu thụ của doanh nghiệp. Phương thức bán hàng xét về mặt hạch toán kế
toán có ảnh hưởng trực tiếp đến thời điểm tiêu thụ, hình thành và ghi nhận doanh
thu bán hàng với việc sử dụng các tài khoản kế toán phản ánh tình hình xuất kho
thành phẩm hàng hoá đem bán, ghi nhận giá vốn hàng bán và tiét kiệm chi phí
bán hàng.
2. Doanh thu bán hàng.
• Khái niệm: Doanh thu bán hàng là số tiền hàng doanh nghiệp thu được ngay
hoặc đã được khách hàng chấp nhận thanh toán. Đối với doanh nghiệp nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng là giá bán chưa có
thuế GTGT đầu ra. Đối với doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp trực tiếp thì
doanh thu bán hàng là giá bán bao goòm cả thuế GTGT. Doanh thu bán hàng là
bộ phận chính quan trọng nhất trong tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Sau khi hàng được chuyển quyền sở hữu cho khách hàng và đã được xác
định là tiêu thụ, doanh nghiệp đã nghi nhận doanh thu bán hàng. Nhưng trong
trường hợp chất lượng của số hàng giao cho khách hàng không đảm bảo được
yêu cầu hoặc doanh nghiệp có cơ chế khuyến khích đối với khác hàng khi mua số
lượng lớn... thì còn phát sinh các khoản giảm trừ doanh thu gồm: giảm giá hàng
bán và hàng bán bị trả lại.
Giảm giá hàng bán là số tiền doanh nghiêp phải trả cho khách hàng trong
trường hợp hoá đơn bán hàng (hoá đơn GTGT) đã được viết theo giá bình
9
Trần thị Vân Anh
9
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
thường, hàng đã được xác định là bán nhưng do chất lượng kém khách hàng yêu
cầu giảm giá và doanh nghiệp đã chấp nhận. Hoặc khách hàng mua với số lượng
lớn doanh nghiệp giảm gía.
Hàng bị trả lại là số tiền doanh nghiệp phải trả cho khách hàng trong trường
hợp hàng đã được xác định là bán nhưng do chất lượng quá kém khách hàng trả
lại số hàng đó.
Trường hợp doanh nghiệp có nghiệp vụ xuất khẩu hàng hoá hoặc mặt hàng
của doanh nghiệp thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì thuế xuất khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt cũng được coi là khoản giảm trừ doanh thu.
Doanh thu bán hàng sau khi trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu là doanh
thu thuần.
Doanh thu thuần được tính bằng công thức sau:
Doanh
thu
thuần về
bấn
hàng
=
Doanh
thu ghi
trên hoá
đơn
-
Thuế
tiêu
thụ
đặc
biệt
-
Thuế
xuất
khẩu
-
Giảm
giá hàng
bán và
hàng bị
trả lại
* Nguyên tắc ghi nhận doanh thu:
Khi xác định doanh thu phải xác định thời điểm ghi nhận doanh thu. Bán
hàng là quá trình vận động ngược chiều của hàng và tiền nhưng không phải lúc
nào hàng và tiền cũng vận động cùng một thời điểm với nhau. Do vậy cá sự khác
nhau giữa thời điểm giao hàng và thời điểm ghi nhận doanh thu. Doanh thu bán
hàng có thể ghi nhận trước, trong hoặc sau thời điểm giao hàng.
Sản phẩm, hàng hoá chỉ được xác định là tiêu thụ khi nó được chuyển đến
cho khách hàng và được khách hàng thanh toán ngay, hoặc chấp nhận thanh toán.
Thời điểm tiêu thụ được là thời điểm người mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh
toán về số hàng mà doanh nghiệp cung cấp. Như vậy việc ghi nhận doanh thu bán
10
Trần thị Vân Anh
10