Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền trong xây dựng chỉnh đốn đảng ở đảng bộ huyện đồng phú, tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________

NGÔ THỊ THANH CHUNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG XÂY DỰNG CHỈNH
ĐỐN ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG PHÚ
TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LỜI CAM ĐOAN

Nghệ An, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________

NGÔ THỊ THANH CHUNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG
CẦM QUYỀN TRONG XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS Đinh Trung Thành

Nghệ An, 2017


LỜI CÁM ƠN
Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến: Ban Giám hiệu nhà trường,
Phòng đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được học tập, rèn luyện trong thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình giảng
dạy, giúp đỡ chúng tơi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, TS
Đinh Trung Thành người hướng dẫn khoa học đã tận tình, quan tâm định hướng,
hỗ trợ tơi trong suốt q trình hồn thành luận văn tốt nghiệp
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Huyện ủy, lãnh đạo các ban xây
dựng Đảng Huyện ủy Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đã cung cấp cho tôi những tư
liệu hết sức quý báu để tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến những người thân
trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã ln động viên, khích lệ, tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài này.
Nghệ An, tháng 7 năm 2017
Tác giả luận văn

Ngô Thị Thanh Chung


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 8
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH
ĐỐN ĐẢNG .......................................................................................................... 8
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền ..................................................... 8
1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng .............................................................................................................. 13
1.3. Sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền
trong xây dựng chỉnh đốn Đảng ............................................................................ 24
Chương 2 THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH
BÌNH PHƯỚC .................................................................................................... 41
2.1. Khái quát về Đảng bộ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước .............................. 41
2.2. Tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đảng bộ huyện Đồng Phú, tỉnh
Bình Phước về đảng cầm quyền trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ........................ 44
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TẠI ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC ........................ 65
3.1. Quan điểm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền trong xây
dựng chỉnh đốn đảng tại Đảng bộ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước ................... 65
3.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền trong xây dựng,
chỉnh đốn Đảng tại Đảng bộ huyện Đồng Phú – Tỉnh Bình Phước trong giai đoạn
hiện nay ................................................................................................................ 76
C. KẾT LUẬN .................................................................................................. 105
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 108


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta, là người
thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới. Người đã để lại cho dân tộc ta di sản tinh thần to lớn, những tư
tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả.
Việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc từng nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh, tổng kết để vận dụng và phát triển tư tưởng đó trong cơng cuộc đổi
mới hiện nay là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, tồn dân ta,
trong đó có nội dung của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Nước ta đang đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, trong bối cảnh trong
nước và thế giới có nhiều thay đổi diễn ra nhanh chóng gắn với những biến động
lớn tạo nên thời cơ lớn và thách thức cũng không nhỏ. Trước tình hình đó địi hỏi
Đảng ta phải thực sự vững mạnh toàn diện mới đủ sức lãnh đạo cách mạng và
thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
trong toàn Đảng để hoàn thành sứ mệnh của một Đảng cầm quyền, tiếp tục lãnh đạo
và đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền để vận dụng vào
quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta nói chung và xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở
từng chi, đảng bộ cụ thể nói riêng là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay nhằm
làm cho hệ thống của Đảng đủ mạnh để lãnh đạo hệ thống chính trị hoạt động,
đưa đất nước và dân tộc Việt Nam khơng ngừng phát triển. Đó là niềm vinh dự
và tự hào to lớn của toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và để biến niềm vinh dự
và tự hào đó trở thành hành động cách mạng cụ thể, ngày 7/11/2006 Bộ chính trị
khóa X đã ban hành Chỉ thị số 06 - CT/TW triển khai Cuộc vận động "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; Bộ Chính trị khóa XI ban hành
Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Việc thực hiện học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được triển khai sâu rộng trong cả nước, góp
phần tích cực trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng như góp phần
quan trọng vào việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề



2
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tuy nhiên, việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh cịn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm
thường xuyên, chưa thành ý thức tự giác của khơng ít tổ chức đảng, cơ quan, địa
phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị khóa XII tiếp tục
ban hành Chỉ thị 05 – CT/TW ngày 15/5/2016 “về đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Đảng bộ huyện Đồng Phú được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy
Bình Phước, trong suốt chặng đường phát triển của mình đã lãnh đạo nhân dân
trong huyện vượt qua mọi khó khăn để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị,
chăm lo xây dựng Đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội trong sạch vững mạnh, góp phần quan trọng đưa tỉnh
Bình Phước phát triển tồn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện Đồng Phú không tránh khỏi những hạn chế
nhất định trong phương thức lãnh đạo và tổ chức thực hiện các Nghị quyết của
Đảng bộ. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong xây
dựng, chỉnh đốn đảng còn nhiều hạn chế. Việc tuân thủ các nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt Đảng có lúc, có nơi cịn lúng túng. Cơng tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ
cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của một
bộ phận tổ chức cơ sở đảng chưa theo kịp đòi hỏi của tình hình phát triển kinh tế
- xã hội cơ sở. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở một
số cơ sở Đảng, cơ quan, tổ chức cịn mang tính hình thức, chưa trở thành việc
làm thường xuyên, việc “làm theo” hiệu quả chưa rõ rệt. Tình hình đó địi hỏi
phải nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách nghiêm túc, đánh giá
đúng thực trạng để đề xuất các giải pháp góp phần khắc phục những tồn tại, yếu
kém, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tạo ra những chuyển biến mới
trong cơng tác xây dựng, chỉnh đốn đảng góp phần xây dựng Đảng bộ trong
sạch, vững mạnh xứng đáng là một Đảng cầm quyền.
Từ những vấn đề nêu trên, bằng những kiến thức đã học tập nghiên cứu và

trong thực tiễn công tác tác giả chọn vấn đề: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng cầm quyền để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện Đồng
Phú, tỉnh Bình Phước" làm đề tài luận văn Thạc sỹ Khoa học Chính trị.


3
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về đảng cầm quyền và
công tác xây dựng đảng là vấn đề cốt lõi trong công tác lý luận của Đảng ta. Vì
thế, nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học. Mỗi cơng trình đều đưa ra những cách đánh giá và luận giải khác
nhau, đều đứng trên những lập trường, quan điểm riêng để vận dụng vào các vấn
đề chuyên môn.
Thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiếp cận với một số cơng trình nghiên cứu
và các tài liệu sau:
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền nội dung và phương thức cần quyền
của Đảng, tác giả GS.TS Nguyễn Văn Huyên, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2011.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, tác giả Trần Đình Huỳnh –
Ngơ Kim Ngân, Nxb. Hà Nội, 2004.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền, tác giả Lê Văn Tý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002.
Vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất
nước, tác giả PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của GS.
TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia 2011.
Các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI và
XII. Đặc biệt là các Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VI): “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI”;

Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề cơ bản
và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung
ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn


4
đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ”…
Những cơng trình, tài liệu này đã tổng kết về lý luận và thực tiễn vai trò
lãnh đạo của Đảng cầm quyền, đặc biệt là vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng làm rõ
phương thức lãnh đạo của Đảng cũng như công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một số đề tài khoa học, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ và các bài viết
của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu có
liên quan đế đề tài như:
Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối
quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng – dân một ý chí, bài của Tổng Bí thư Lê
Khả Phiêu đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 4/2009.
Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
tồn dân tộc đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bài của Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh đăng trên tạp chí Xây dựng
Đảng, 5/2006.
Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay và những vấn đề rút ra cho công
cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta, của GS. Đậu Thế Biểu, đề tài cấp bộ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Vị trí vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính
trị Việt Nam, của Nguyễn Văn Giang, luận văn thạc sỹ, chuyên ngành chính trị
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong công tác xây
dựng Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới (Từ
1986 đến 2011) của Bùi Thị Lệ Trinh, luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Hồ Chí
Minh học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học quốc gia Hà
Nội).
Trên các tạp chí và một số trang điện tử có khơng ít sự quan tâm của các
tác giả về vấn đề đảng cầm quyền và xây dựng chỉnh đốn đảng trong điều kiện
đảng cầm quyền như:


5
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền” của GS. Đặng Xuân Kỳ
đăng trên Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam số ra ngày 7 tháng 10 năm
2015; “Tư tưởng Hồ Chí minh về Đảng cầm quyền ở Việt Nam” của PGS.TS
Thành Huy, đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 9/2005; “Đảng lãnh đạo,
Đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của TS Nguyễn Quốc Sửu đăng
trên trang Điện tử Tạp chí Cộng sản số ra ngày 29 tháng 01 năm 2015; “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Th.s
Nguyễn Hồ Sơn đăng trên trang Điện tử báo Hà Nội mới số ra ngày 30 tháng 11
năm 2015; “Tư tưởng Hồ Chí minh về xây dựng, chỉnh đốn đảng trong điều kiện
đảng cầm quyền” của TS. Dương Trung Ý đăng trên trang Điện tử Tạp chí Xây
dựng Đảng số ra ngày 28 tháng 5 năm 2011.
Ngồi ra cịn có hệ thống giáo trình, tài liệu giáo khoa, sách chuyên khảo,
tham khảo, nhiều bài viết, bài nói liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng
cầm quyền và cơng tác xây dựng chỉnh đốn đảng.
Phần lớn các cơng trình, đề tài, bài viết này có liên quan đến lĩnh vực
nghiên cứu của đề tài, đề cập các nội dung dưới nhiều góc độ và phương diện

khác nhau, qua đó cung cấp cho tác giả nguồn tư liệu rất bổ ích, làm cơ sở lý
luận cho việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng cầm quyền với tư cách là một nội dung khoa học và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đảng cầm quyền trong xây dựng chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện
Đồng Phú, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay chưa có tác giả nào đề cập.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài này với mong muốn góp phần luận giải những
vấn đề mà lý luận và thực tiễn cấp bách đang đặt ra đối với công tác xây dựng
chỉnh đốn đảng tại Đảng bộ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn
hiện nay .
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đảng cầm quyền, đưa ra các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng cầm quyền trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ
huyện Đồng Phú - Tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay.


6
3. Nhiệm vụ của đề tài
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung giải quyết những
vấn đề sau:
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở khoa học của việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng cầm quyền trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Thứ hai: Đánh giá đúng thực trạng việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng cầm quyền trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện Đồng
Phú, tỉnh Bình Phước.
Thứ ba: Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở
Đảng bộ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền và
việc vận dụng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện Đồng Phú tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn khơng trình bày tồn bộ lý luận mà chỉ tập trung phân tích để
đưa ra vấn đề cốt lõi trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, từ đó
làm cơ sở cho việc vận dụng nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện
Đồng Phú - tỉnh Bình Phước.
- Luận văn tập trung khảo sát ở Đảng bộ huyện Đồng Phú - tỉnh Bình
Phước về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hiện Cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" cũng như việc thực hiện Chỉ thị số
03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và việc triển khai thực hiện Chỉ
thị 05 – CT/TW ngày 15/5/2016 “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của Bộ Chính trị khóa XII.


7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Mácxít, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn dảng.
Trong quá trình thực hiện đề tài kế thừa có chọn lọc một số vấn đề lý luận của
các cơng trình khoa học.
Để hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp
chuyên ngành trong đó chú trọng các phương pháp: lịch sử cụ thể, phân tích,
tổng hợp...
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Luận văn là cơng trình nghiên cứu với góc độ chính trị học tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng cầm quyền và việc vận dụng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng tại
một Đảng bộ huyện cụ thể của Tỉnh Bình Phước.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng

chỉnh đốn Đảng ở địa phương, cơ sở
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.


8
B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG XÂY DỰNG,
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm tồn điện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. [11, tr 83-84]
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là một tập hợp đơn giản những ý
tưởng, những suy nghĩ cụ thể của Hồ Chí Minh trong hồn cảnh cụ thể, mà là
một hệ thống những quan điểm, quan niệm về con đường cách mạng Việt Nam,
được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm khoa học, định nghĩa về Tư
tưởng Hồ Chí Minh cần được trình bày cơ đọng, chặt chẽ, ở cấp độ lý luận nhằm
phản ánh được bản chất và nội dung cốt lõi của nó.
Trong giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh đã định nghĩa về Tư tưởng Hồ

Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn điện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phong con người”. [29, tr. 19]


9
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa
văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác
– Lê nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong suốt hơn 87 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta
tiến lên xây dựng một đất nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong di
sản Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung về Đảng cầm quyền. Khái niệm về
“Đảng cầm quyền” là một khái niệm có nội hàm rộng và được hiểu theo nhiều
cách khác nhau.
1.1.2. Nội dung đảng cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trên thế giới, quan niệm về đảng cầm quyền được hiểu theo cách phổ
biến nhất là một đảng sau cuộc bầu cử đã giành được đa số ghế trong Nghị viện
và theo quy định của Hiến pháp và pháp luật của quốc gia, đảng đó có đủ điều
kiện và có quyền đứng ra thành lập Chính phủ. Hoặc trong trường hợp không
giành được đủ số ghế cần thiết thì có quyền liên kết với đảng khác để thành lập
Chính phủ tạo nên liên minh cầm quyền. Việc một Đảng cầm quyền hoặc liên
minh cầm quyền chỉ trong khoảng thời gian theo chu kì bầu Nghị viện, nếu
khơng tiếp tục giành được đa số ghế thì sự cầm quyền cũng khơng cịn, mà sự
cầm quyền lại thuộc về đảng vừa giành được đa số ghế hoặc liên minh mới trong
cuộc bầu cử gần nhất.

Ở Việt Nam, khái niệm về “Đảng cầm quyền” có nội hàm rộng hơn, đó là
khơng chỉ ở việc thành lập Chính phủ mà còn là việc Đảng lãnh đạo nhân dân
đấu tranh giành được chính quyền về tay nhân dân, lãnh đạo nhân dân lập ra bộ
máy nhà nước gồm các hệ thống: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Song, không
dừng lại ở đó mà Đảng cịn tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và xã hội thơng qua hệ
thống chính trị để tiếp tục đưa nhà nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
nhằm giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, nghèo nàn, lạc hậu,
đem lại lợi ích cho toàn xã hội.
Các nhà khoa học Việt Nam cho rằng: theo Hồ Chí Minh, “Đảng cầm
quyền” là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã
lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp


10
lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội [42, tr.78] - tác giả luận văn đồng tình với quan
niệm về “Đảng cầm quyền” này.
Ở Việt Nam ta, vấn đề đảng cầm quyền luôn gắn liền với quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, lịch sử Việt Nam đã
cho thấy khi chưa có sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân
tộc ta bị chìm đắm trong ba đại họa. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam như
ngọn đuốc bừng sáng, soi đường cho dân tộc thoát khỏi sự tối tăm, bế tắc. Sự ra
đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta đó là sự lựa chọn của lịch sử,
và đó cũng chính là sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sứ mệnh lịch
sử đó là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi Đảng ta ra đời đã
hình thành nên mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân và Đảng ta đã thật sự
trở thành Đảng cầm quyền khi Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành được chính
quyền vào năm 1945. Do điều kiện đất nước lại có chiến tranh cho nên mãi đến
năm 1954 Đảng ta mới lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp

tục lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho đến ngày nay.
Hồ Chí Minh với cương vị một lãnh tụ của Đảng ta và ở vào cương vị
Chủ tịch nước nhiều năm, Người luôn quan tâm đến việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, củng cố vai trò của Đảng trong điều kiện mới. Người đã ý thức rất rõ về
vai trò của Đảng cầm quyền, về sứ mệnh lịch sử của Đảng cầm quyền. Hồ Chí
Minh đã viết trong Di chúc để lại cho Đảng và nhân dân ta như sau: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành với nhân dân”[7].
Theo Hồ Chí Minh, khi trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng cần phải ý
thức đầy đủ, sâu sắc chức trách xã hội của mình. Nếu khơng thực sự là đầy tớ
của nhân dân, thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ rơi vào trạng thái
quan liêu, do đó sẽ mất đi sức sống vốn có của nó. Dựa vào dân, gắn bó mật thiết
với nhân dân là điều kiện tồn tại và phát triển của Đảng.


11
Với quan niệm về Đảng cầm quyền như đã nêu trên đây luôn là cơ sở lý
luận và thực tiễn để chúng ta tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ
mới để Đảng đủ sức lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo Cương lĩnh đã đề ra. Đội
ngũ cán bộ, Đảng viên của Đảng tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của
Đảng. Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng
thành pháp luật để làm công cụ quản lý. Như vậy, giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân có mối quan hệ mật thiết, gắn bó khơng tách rời biệt lập mà là sự thống nhất
trong cơ chế nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo. Nhà
nước là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, và như vậy Đảng cầm quyền nhưng dân
là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ.
Người luôn nhấn mạnh vấn đề quyền lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là

bản chất chế độ mới của chúng ta. Cho nên sự lãnh đạo của Đảng ta còn là nhằm
thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về
nhân dân. Nếu khơng giữ vững và thực hiện ngun tắc đó Đảng sẽ thối hóa,
biến chất, trở thành Đảng đối lập với nhân dân, đứng trên nhân dân; đứng trên
pháp luật; Cán bộ, Đảng viên của Đảng sẽ trở thành những “ông quan cách
mạng” chỉ chăm lo lợi ích của cá nhân, của gia đình và dịng họ mình. Cho nên,
phải xây dựng cơ chế Đảng cầm quyền. Cốt lõi của cơ chế đó là quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, với Nhà nước. Trong quan hệ này thì: Đảng phải trong sạch,
xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân; Nhà nước là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ chính quyền các cấp
đều là cơng bộc của dân, đầy tớ của dân; Nhân dân làm chủ thì mọi quyền hành,
mọi lực lượng là ở dân, nhân dân thật sự tham gia quản lý nhà nước.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dân chủ là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch,
Bộ trưởng, Thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho
nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng. Theo người, nhân dân muốn
thật sự bảo đảm được quyền lực của mình, cần phải có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; Đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo, phải củng cố “cái nền nhân
dân”.
Vấn đề Đảng cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất
rộng. Hồ Chí Minh cho rằng Đảng cầm quyền là Đảng phải chịu trách nhiệm đối


12
với toàn bộ đời sống xã hội trước nhân dân, trước dân tộc. Đảng phải chăm lo từ
việc lớn đến việc nhỏ như lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trên
phạm vi cả nước, đồng thời Đảng phải luôn quan tâm đến đời sống hàng ngày
của nhân dân như cơm ăn, áo mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh. Sự lãnh
đạo của Đảng là bao trùm và xun suốt vì lợi ích của nhân dân. Đảng cầm
quyền nhưng Đảng khơng có một lợi ích nào khác ngồi lợi ích của nhân dân,
của dân tộc. Ngược lại, trách nhiệm của Đảng là rất lớn, Người chỉ rõ: “Nếu dân

đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm Đảng và Chính phủ có lỗi” [42,
tr.572]. Như vậy, Người cũng là đồng thời chỉ ra sự gắn bó máu thịt giữa Đảng
và nhân dân. Cho nên, về trách nhiệm, Đảng phải vạch ra đường lối phát triển
kinh tế - xã hội cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước để lãnh đạo
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội nhằm làm cho nhân dân được ấm no, hạnh
phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện. Về mặt xã hội, Đảng cầm quyền
nhưng phải lãnh đạo xây dựng cho được một xã hội mới mà ở đó quyền làm chủ
thuộc về nhân dân, xã hội khơng cịn sự áp bức, bóc lột, bất cơng - đó là một xã
hội mang đậm tính nhân bản, nhân văn, con người đối xử với nhau có văn hóa,
có tình có nghĩa, đồng tâm hiệp lực để xây dựng quê hương đất nước. Vì vậy,
Đảng cầm quyền thì Đảng phải vạch ra Cương lĩnh, đường lối để phát triển toàn
diện đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể chứ khơng cịn là sự lãnh đạo
chính trị chung chung.
Để lãnh đạo tồn diện đất nước, Đảng phải thông qua bộ máy nhà nước để
thực hiện sự quản lý mọi mặt của đời sống xã hội với quyền lực nhà nước là do
nhân dân trao cho. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức cơ sở Đảng trong hệ
thống, lãnh đạo thông qua phải “lấy dân làm gốc”, mỗi người dân phải hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham
gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà.
Trong cơ chế Đảng cầm quyền thì một số cán bộ Đảng viên được giao
những nhiệm vụ trong bộ máy quyền lực, bộ máy hành chính - xã hội có quan hệ
đến quyền lực, quyền lợi. Nhưng Người Cộng sản không bao giờ được xa rời
mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của mình. Hồ Chí Minh đã dạy: Những người Cộng
sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là đấu
tranh cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ ngĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi


13
trên đất nước ta và trên tồn thế giới. Khơng vì địa vị, quyền lợi riêng tư, khơng
dựa vào quyền lực nhân dân giao phó mà tha hóa, biến chất, lo cá nhân, hưởng

thụ. Cán bộ, Đảng viên phải thường xuyên quan tâm nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong xây
dựng, chỉnh đốn Đảng
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn đảng
“Trong toàn bộ di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh phần nói về
Đảng và xây dựng Đảng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng và có nội dung rất
phong phú, đặc sắc, toàn diện và hoàn chỉnh”… Tất cả đều toát nên một tinh
thần nhất quán, một sự mong mỏi thiết tha của của Hồ Chí Minh: phải hết sức
coi trọng và thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng; phải xây dựng
Đảng ta thật sự trong sạch, xứng đáng là Người lãnh đạo và người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng tuy giản dị nhưng hết sức sâu
sắc, bình dị mà vĩ đại có tác dụng soi sáng lâu dài cho chúng ta trong việc chăm
lo xây dựng và củng cố và đổi mới Đảng ta… Đảng ta luôn quán triệt và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng. Qua thực tiễn chúng ta càng thấm thía rằng: chỉ có nắm vững, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mới có
thể xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh – nhân tố hàng đầu quyết định
mọi thành công của cách mạng nước ta [50, tr.9-10].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” trong đó khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động". Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc
thực tiễn lịch sử của Đảng và của cách mạng Việt Nam trong suốt quá trình cách
mạng từ khi thành lập Đảng đến nay. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan
trọng thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng ta.
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
(bổ sung , phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-



14
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động" [13, tr.88] và xác định một trong những bài học kinh nghiệm lớn “…Đảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đạt
ra”… [13, tr. 66]
Hơn 87 năm qua, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn
dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổng kết 30 năm đổi mới ở
nước ta, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu, trong đó bài học
hàng đầu là phải “…kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh…”
[14, tr. 69]
Quán triệt quan điểm vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong q
trình lãnh đạo cách mạng đặc biệt là trong xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Chỉ thị 23-CT/TW, ngày 27-3-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá
IX về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới khẳng định “Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ phát triển mới, cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những
nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết những vấn đề thực tiễn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị…”.
Từ kết quả tích cực sau hơn 3 thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW, ngày
27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khố IX, Bộ Chính trị tiếp tục ban
hành Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 về tổ chức cuộc vận động "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" với yêu cầu “Việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền … với cuộc vận động xây dựng,

chỉnh đốn Đảng, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, với các phong trào thi đua yêu nước”.
Từ kết quả triển khai Chỉ thị 06-CT/TW, ngày 07-11-2006 về tổ chức
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã khẳng
định việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là rất quan trọng


15
và cần thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt mà cịn có ý
nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chỉ
thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nêu rõ “… kết hợp việc tổ
chức học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với cơng tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, các cuộc vận động và các phong trào đang triển khai trong
Đảng và trong xã hội, góp phần đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng
ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị”.
Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập.
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội
dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm
chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" trong nội
bộ, đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn
đảng
Từ những năm đầu thành lập, trải qua cuộc đấu tranh giành, giữ chính
quyền và kháng chiến chống thực dân, đế quốc, khi nhận thấy trong Đảng xuất
hiện những dấu hiệu mất đoàn kết; tư tưởng, lập trường của cán bộ, đảng viên

không vững vàng, vi phạm kỷ luật đảng; chủ nghĩa cơ hội, xét lại xuất hiện…,
Đảng ta đã mở cuộc vận động chỉnh đốn Đảng, bao gồm chấn chỉnh cán bộ và
chỉnh huấn đảng viên. Tác phẩm Tự chỉ trích (năm 1939) của Tổng bí thư
Nguyễn Văn Cừ và tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947) của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cũng như các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ đã chỉ đạo triển khai cuộc đấu tranh tự
phê bình và phê bình; nghiêm khắc lên án, chỉ trích những khuynh hướng cơ độc
hẹp hòi và khuynh hướng hữu khuynh thỏa hiệp, nhằm nâng cao sức chiến đấu
của Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường quan hệ
mật thiết với nhân dân. Nhờ vậy, chúng ta đã hun đúc được ý chí, nghị lực, tạo


16
nên sức mạnh vô địch, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), với thái
độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng và nói rõ sự thật, chỉ ra những sai lầm,
khuyết điểm về bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, chưa nhận thức và vận dụng
đúng đắn quy luật khách quan, lạc hậu về lý luận, chưa nắm bắt đúng thực tiễn
đất nước dẫn đến những sai lầm khuyết điểm trong chủ trương, chính sách, Đảng
ta đã quyết tâm sữa chữa, đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng đắn những đặc
trưng, quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những đặc điểm riêng
của Việt Nam để đi đến quyết định đường lối đổi mới, mở ra thời kỳ phát triển
toàn diện đất nước. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là đổi mới tư duy lý luận, đổi
mới đường lối, chính sách và đổi mới tổ chức, cán bộ, phong cách lãnh đạo.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991), Đảng ta
đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, vượt qua những thách thức to lớn, nhất là bối cảnh phong trào chủ nghĩa
xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào.

Sự sụp đổ của mơ hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và các nước
Đông Âu cũng như tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, khiến
cho một số cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII (năm 1992) đã ban hành Nghị quyết về một số
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, trong đó chú trọng những bài học về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng: “…chống nguy cơ sai lầm về đường lối, vi phạm
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, sai lầm về lựa chọn và bố trí cán bộ, tệ
quan liêu xa rời quần chúng…” [15]
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (năm 1999) đã ban hành Nghị
quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay. Khi đó, Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận: “…trong Đảng đang bộc lộ một số
yếu kém: sự suy thối về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu,
lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm
trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy


17
tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới” [16, tr.24]. Cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng
và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (năm 2006), Đảng ta đánh giá: “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên
chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích
cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu” [12, tr.268].
Thực tế cho thấy, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được thực hiện thường
xuyên, kiên trì với sự chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc mới mang lại hiệu quả thiết
thực nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Cơng cuộc
đổi mới phát triển tồn diện, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng càng đòi hỏi nâng cao vai trò lãnh đạo và trách

nhiệm của Đảng cầm quyền. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
(năm 2011), Đảng ta đề ra tám nhiệm vụ chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng:
tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân; tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính
trị; kiện tồn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới công
tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng [13,
tr.255, 264].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016), Đảng ta
tiếp tục bổ sung, phát triển thành mười nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đó là: chú
trọng xây dựng Đảng về chính trị; đổi mới công tác tư tưởng, lý luận; tăng cường
rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực
dụng; tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị;
kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở
đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi
trọng cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ; đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đẩy mạnh đấu


18
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới phuơng thức lãnh đạo của
Đảng [14, tr.199-214].
Mặc dù đã có nghị quyết riêng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tại các kỳ
đại hội vấn đề này cũng được nhấn mạnh, kiểm điểm nghiêm túc, song trong
Đảng vẫn còn những khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài, chậm được khắc phục,
với những diễn biến phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm sút lòng
tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trị, sức chiến đấu và

năng lực lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI
đã thảo luận và ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay. Nghị quyết đã chỉ rõ, vấn đề cấp bách hiện nay là một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc… Những hạn chế, yếu kém đó kéo
dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng; nếu không được sữa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh
đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ [18, tr. 21-22]. Vì vậy, để tạo chuyển
biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, Trung ương đã đề
ra ba giải pháp cấp bách nhằm khắc phục yếu kém, khuyết điểm: (1) Kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối vơí Đảng; (2) Xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; (3) Xác định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ
với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng [18, tr.26]. Thực hiện có hiệu quả những vấn đề cấp bách đó sẽ tạo được
sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác
xây dựng Đảng, làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam “thật sự là Đảng cách mạng
chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh” [18, tr.27]. Một Đảng cách mạng
như thế khơng những vai trị lãnh đạo, cầm quyền được củng cố vững chắc, chất
lượng hiệu quả lãnh đạo được nâng cao mà sức chiến đấu, khả năng tự bảo vệ


19
được tăng cường, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của các

thế lực thù dịch, chủ động phòng ngừa những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ
Đảng. Trung ương cũng đề ra bốn nhóm giải pháp, trong đó có giải pháp hành
đầu là tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ,
đảng viên cấp trên trước cấp dưới sau.
Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “một
số việc chưa đạt mục tiêu nghị quyết đề ra”[14, tr. 186]. Tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham những,
lãng phí tiêu cực, lợi ích nhóm,… trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp không
những chưa được đẩy lùi mà cịn có mặt, có bộ phận diễn biến phức tạp hơn. Bên
cạnh đó, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức
tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Đại hội XII xác định:
“Khơng ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng,
hoài nghi về va trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô
nguyên tắc, trái với cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng
viên”[14, tr.195]. Việc lãnh đạo chỉ đạo của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng nhất là
người đứng đầu chưa có quyết tâm chính trị cao; trong thực hiện các giải pháp có
việc, có nơi chưa nghiêm túc; cịn thiếu những cơ chế, chính sách, biện pháp có
tính đột phá, đủ mạnh làm chuyển biến cơ bản tình hình. Vì vậy Đại hội XII của
Đảng nhấn mạnh “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ
phát triển, đổi mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng
Đảng…”[14, tr. 198].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định
sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là: “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ” [14, tr. 217] và nhấn mạnh, trong những năm tới phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác xây dựng Đảng, trong tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện

nay”. Đồng thời, tồn Đảng phải cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số


20
05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là những nội dung cơ bản cần
thực hiện đồng bộ, tồn diện, có hiệu quả với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để Đảng ta trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đáp ứng lòng mong
đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong tình hình, bối cảnh nêu trên, Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa
XII đã tiếp tục ban hành Nghị quyết về “tăng cường xây dựng, chính đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đáp ứng địi hỏi cấp thiết
trong tình hình hiện nay; vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp bách
trước mắt, thể hiện quyết tâm chính trị và tư duy nhất quán của Đảng.
Trong quá trình xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần các Nghị quyết
của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng
lên; phương thức lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của nhân dân với
Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng
thành và tiến bộ về nhiều mặt. Tuy nhiên, trong những năm tới, tình hình thế
giới, khu vực và trong nước có những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng rất nhiều
phức tạp, khó khăn, thách thức, đặt ra cho đảng ta nhiều vấn đề cần thiết phải
giải quyết. Trong đó, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra từ năm 1994 vẫn cịn tồn tại
có mặt trầm trọng hơn nguy cơ “tụt hậu về kinh tế” đang là thách thức đối với
đất nước; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, sự xuống cấp về đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí đang gây bất bình và làm giảm niềm tin của nhân dân đối vớí Đảng và Nhà
nước. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá, đẩy mạnh “diễn biến hồ

bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta hịng hạ thấp uy
tín và phủ định vai trị lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Bối cảnh đó, địi hỏi Đảng ta phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu giữ vững bản chất cách mạng, vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống
nhất cao về ý chí hành động, siết chặt đội ngũ; thực sự trong sạch vững mạnh, lối
sống, gắn bó máu thịt. Hơn bao giờ hết, công tác xây dựng Đảng trở thành một


21
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn, quyết định vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
1.2.3. Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền
trong xây dựng chỉnh đốn đảng
Đảng với tư cách là một tổ chức chính trị giữ vai trị lãnh đạo xã hội và là
một đảng cầm quyền thì vấn đề bảo đảm cho đảng ln ln trong sạch, vững
mạnh có ý nghĩa sống cịn. Đảng khơng chỉ là đội tiên phong chính trị của giai
cấp cơng nhân mà cịn là đội tiên phong chính trị của cả dân tộc. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền trong xây dựng chỉnh đốn đảng chính là
vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đảng cầm quyền trong
sạch vững mạnh:
Một là, đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh là đảng đó phải bảo vệ hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trong xây dựng đường lối, chiến lược và sách lược
Theo Hồ Chí Minh là phải chỉnh đốn nội bộ đảng để cán bộ trong đảng
hiểu rõ lợi ích của đảng ln gắn với lợi ích của nhân dân lao động và của dân
tộc, hiểu rõ hơn nhiệm vụ của chính mình và mối quan hệ giữa việc thực hiện
nhiệm vụ đó với sự hồn thành sự nghiệp của đảng. Để xây dựng được một đảng
cầm quyền trong sạch vững mạnh, theo Hồ Chí Minh cần phải thực hiện được
các yêu cầu sau:
Trước hết, cần phải nhất quán sự lựa chọn và khẳng định hệ tư tưởng, thế
giới quan và mục tiêu cần hướng tới của đảng trong toàn bộ q trình lãnh đạo

cách mạng trong đó, mục tiêu này cần thống nhất với mục tiêu của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Thứ hai, thực hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ việc xây dựng và bảo vệ hệ
tư tưởng của đảng chính là bảo vệ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin, vận dụng sáng tạo những nguyên lý này theo từng giai đoạn cụ thể, tình
hình cụ thể. Làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thấm sâu vào từng đảng viên, tổ
chức cơ sở đảng, thực sự là cơ sở tư tưởng cho hành động.
Thứ ba, xác định những nhận thức, quan điểm lệch lạc, sai trái, để đấu
tranh bảo vệ hệ tư tưởng của đảng, qua đó từng bước nâng cao nhận thức, củng
cố vững chắc quan điểm, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phương pháp


×