Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Vai trò của đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh huyện hậu lộc, tỉnh thanh hóa trong công tác phát triển đảng viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 110 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

CAO CÔNG THỨC

VAI TRÒ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN
HỜ CHÍ MINH HỤN HẬU LỘC, TỈNH THANH HĨA
TRONG CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Viết Quang

NGHỆ AN, 2017


2
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học với đề tài “Vai trị của
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
trong công tác phát triển đảng viên” là kết quả của q trình cố gắng khơng
ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy giáo,
cô giáo, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua trang viết này tác giả xin gửi
lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên
cứu khoa học vừa qua.
Tơi xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo PGS.TS


Trần Viết Quang đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu
thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Vinh, khoa Giáo dục
chính trị, khoa Sau Đại học và Bộ mơn chính trị học đã tạo điều kiện cho tơi
hồn thành tốt cơng việc nghiên cứu khoa học của mình.
Một lần nữa, tơi xin chân thành cảm ơn Huyện ủy, Ủy ban nhân dân
huyện, Ban tổ chức Huyện ủy, Trung tâm Chính trị huyện, Ban Thường vụ
Huyện đoàn, Chi cục thống kê huyện, các đồng nghiệp, đơn vị công tác đã
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.
TÁC GIẢ

Cao Công Thức


3
MỤC LỤC
Mục lục
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG
TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
1.1. Phát triển đảng viên trong công tác xây dựng Đảng
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và phát triển đảng viên
1.3. Vai trị của Đồn Thanh niên trong công tác phát triển đảng viên
Chương 2: THỰC TRẠNG CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG
VIÊN VÀ VAI TRỊ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN
HỜ CHÍ MINH HỤN HẬU LỘC, TỈNH THANH HĨA
TRONG CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN

2.1. Khái quát về huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa và tổ chức Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
2.2. Cơng tác phát triển đảng viên huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa và
vai trị của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện trong
cơng tác phát triển đảng viên
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỜ CHÍ MINH
HỤN HẬU LỘC, TỈNH THANH HĨA TRONG CƠNG TÁC
PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
3.1. Quan điểm nâng cao vai trò của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa trong cơng tác phát triển
đảng viên
3.2. Giải pháp nâng cao vai trị của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa trong công tác phát triển
đảng viên
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC

Trang
3
5
10
10
10
19
27

33


33
52

77

77

84
101
103
108


4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Thống kê diện tích, dân số, đơn vị hành chính của huyện
Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

33

Bảng 2.2. Tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa

39

Bảng 2.3. Kết quả kết nạp đảng viên từ năm 2010 đến năm 2016

54


Bảng 2.4. Kết quả mở lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng Cộng sản
Việt Nam (lớp đối tượng Đảng) từ năm 2010 đến năm 2016

57

Bảng 2.5. Số lượng giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng kết nạp từ
năm 2010 dến năm 2016

61

Bảng 2.6. Số đoàn viên ưu tú được giới thiệu và số được kết nạp từ
năm 2010 đến năm 2016

65

Bảng 2.7. Số đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng với tổng số
đoàn viên và thanh niên

66


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều 44, Chương X, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã chỉ
rõ: “Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng,
thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong
trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh
niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh,...”. Đồn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia công tác xây dựng Đảng vừa là tất yếu
khách quan, vừa là nhiệm vụ tự thân của Đoàn.
Phát triển đảng viên mới là một nội dung quan trọng của cơng tác xây
dựng đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển của
Đảng ta. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Nếu Đảng ta
không biết chọn lọc, kết nạp, đề bạt đồng chí mới thì đâu có như ngày nay”
[25, tr.467]. Người vạch rõ tính tất yếu, yêu cầu, phương châm, phương pháp
của công tác phát triển đảng là: “Để làm tròn nhiệm vụ rất nặng nề nhưng rất
vẻ vang,…Đảng phải phát triển tổ chức của mình một cách thận trọng, vững
chắc và rộng rãi trong quần chúng”[25, tr.20-21]. Các Nghị quyết Đại hội
Đảng cũng luôn nhấn mạnh đến công tác này. Đặc biệt, Chỉ thị 51-CT/TW,
ngày 21 tháng 1 năm 2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) đã chỉ rõ: “Kết nạp
đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng, thường xun, có tính quy luật trong
cơng tác xây dựng Đảng cũng như trong quá trình phát triển, hoạt động lãnh
đạo của Đảng, nhằm tăng thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát
triển của Đảng”.
Thực tế ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa hiện nay, có một số nơi điều
kiện để kết nạp đảng viên tương đối thuận lợi, nhưng một số nơi công tác kết
nạp đồn viên ưu tú vào Đảng cịn gặp rất nhiều khó khăn. Ở một số chi đồn


6
nơng thơn, cơng tác vận động đồn viên vào Đảng cịn gặp nhiều khó khăn,
ngồi việc do thanh niên khơng chịu phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện thì điều
cịn trăn trở đối với các chi ủy, chi bộ là khơng có nguồn để phát triển đảng
viên, một số nơi tiêu chí đặt ra cho quần chúng quá khắt khe. Bên cạnh đó,
cơng tác đãi ngộ, hỗ trợ cho cán bộ làm cơng tác thanh niên cịn những hạn chế
nhất định. Vì vậy, để nâng cao vai trị của tổ chức Đồn trong cơng tác phát
triển đảng viên nhằm góp phần trẻ hóa, tăng thêm sinh lực, trí tuệ cho Đảng
bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị là một vấn đề rất quan trọng

trong công tác xây dựng Đảng.
Tính đến thời điểm hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có nhiều cơng
trình khoa học, nhiều bài viết nghiên cứu về công tác phát triển đảng viên như:
luận văn của Nguyễn Văn Hào với đề tài: "Đẩy mạnh công tác phát triển đảng
viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn
hiện nay" năm 2003; Trên tạp chí cộng sản, ngày 21 tháng 2 năm 2015,
Nguyễn Duy Ngân có bài “Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên ở Hà Tĩnh”; Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3, Đào Ngọc Dung (2006) có bài
“Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng tạo nguồn phát triển đảng viên trong thanh
niên;…về vai trò của Đồn Thanh niên trong cơng tác xây dựng Đảng: Tạp chí
cộng sản số 2 +3/2015, Lục Hiền Lương có bài “Phát huy vai trị của Đồn
Thanh niên trong xây dựng Đảng”; Tạp chí cộng sản, ngày 7 tháng 4 năm 2016,
Thạc sỹ Bùi Hồng Tùng có bài “Vai trị của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh trong tham gia thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới;
Luận văn Thạc sỹ của Thiều Thị Tuyết Trinh (2015) với đề tài “Vai trị của
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong xây dựng ý thức pháp luật cho
thanh niên ở Việt Nam hiện nay;…
Các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến công tác phát triển
đảng viên nói chung trong cơng tác xây dựng Đảng, công tác bồi dưỡng lý


7
tưởng cách mạng cho đoàn viên thanh niên để phấn đấu trở thành đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trị của Đồn Thanh niên trong một số lĩnh vực
như: giáo dục pháp luật cho đoàn viên thanh niên, chung tay xây dựng nông
thôn mới, trong công tác xây dựng Đảng,…
Riêng về cơng tác phát triển đảng viên trong đồn viên thanh niên ở
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố nói chung và vai trị của Đồn Thanh niên
trong cơng tác phát triển đảng viên nói riêng chưa có cơng trình nghiên cứu
nào. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài Vai trị của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa trong cơng tác phát triển đảng viên
để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Hậu Lộc,
tỉnh Thanh Hoá là cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Vì thế, chúng tơi chọn vấn đề “Vai trị của Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa trong cơng tác phát triển đảng
viên” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trị của Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố trong cơng tác
phát triển đảng viên, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trị của
tổ chức Đồn trong cơng tác phát triển đảng viên trong đoàn viên hiện nay.
3. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trị của Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh trong công tác phát triển đảng viên.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác phát triển đảng viên và vai trị
của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá
ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá thời gian qua.


8
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao vai trị của Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố trong cơng tác phát
triển đảng viên thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề phát triển đảng viên và vai trị của Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố trong
cơng tác phát triển đảng viên, tập trung là phát triển đảng viên từ đối tượng
đoàn viên thanh niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu vai trị của Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá trên địa bàn huyện trong công
tác phát triển đảng viên từ năm 2010 đến năm 2016. Đánh giá rõ thực trạng,
tìm ra nguyên nhân và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố trong
cơng tác phát triển đảng viên thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa vào phương pháp tổng kết thực tiễn, khảo sát,
thống kê, phân tích, trao đổi,…điều tra phỏng vấn; tổng hợp thống kê số liệu,
tư liệu, phân tích đánh giá các dữ liệu đã có.
6. Đóng góp mới của đề tài
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trị của Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố trong cơng tác
phát triển đảng viên.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao vai trị của tổ chức Đồn
các cấp, đặc biệt là Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc,


9
tỉnh Thanh Hố trong cơng tác phát triển đảng viên. Đồng thời, giúp cấp uỷ,
chính quyền và các cấp bộ Đoàn nghiên cứu, tham mưu triển khai thực hiện
nhiệm vụ công tác phát triển đảng viên thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Đồn Thanh niên trong cơng
tác phát triển đảng viên.
Chương 2. Thực trạng công tác phát triển đảng viên và vai trị của
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố
trong cơng tác phát triển đảng viên.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trị của Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hố trong cơng tác
phát triển đảng viên.


10
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ VAI TRÒ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỜ CHÍ MINH
TRONG CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
1.1. Phát triển đảng viên trong công tác xây dựng Đảng
1.1.1. Đảng viên và phát triển đảng viên
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hay còn gọi là đảng viên là người
gia nhập và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời sinh hoạt
tại tổ chức này. Ở Việt Nam, từ “đảng viên” được đa số hiểu là thành viên của
Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ có Đảng Cộng sản tồn tại hợp pháp và lãnh
đạo xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thì đảng viên phải là cơng dân
Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên và người này phải thừa nhận và tự nguyện
thực hiện các Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng (Chi bộ, Đảng bộ,...) được
nhân dân tín nhiệm, sau đó được giới thiệu kết nạp, thử thách, sinh hoạt và
cơng nhận chính thức.
Điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) chỉ rõ: “Đảng viên
Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Ðảng,
đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên
lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng,
các nghị quyết của Ðảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hồn thành

tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết


11
với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Ðảng, giữ gìn đồn kết thống
nhất trong Ðảng”.
Số lượng đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam tính đến kỳ đại hội XII
(năm 2016) là khoảng hơn 4,5 triệu người. Qua quá trình phát triển của lịch
sử, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng, trong lịch sử, nhiều đảng viên
đã có nhiều đóng góp, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và để lại
nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu. Nhiều
lãnh tụ, lãnh đạo tiêu biểu của Việt Nam là đảng viên Đảng Cộng sản. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn cịn tình trạng cán bộ, đảng viên giữ các chức vụ trong
bộ máy Nhà nước, cơng ty quốc doanh có những hành vi tham nhũng, xa hoa,
lãng phí và có một bộ phận khơng nhỏ đảng viên có biểu hiện suy thoái đạo
đức, lối sống, đây là vấn đề đang trở nên mang tính phổ biến và làm ảnh
hưởng đến uy tín của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Chất lượng đảng viên là yêu cầu xuyên suốt quá trình phát triển đảng
viên mới. Đây là một chuỗi các cơng đoạn địi hỏi tổ chức Đảng mà trực tiếp
là các cơ sở Đảng và các chi bộ phải quan tâm chỉ đạo công phu, chu đáo
ngay từ khi tạo nguồn như tuyên truyền, giáo dục, lựa chọn đến các khâu kết
nạp và giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức. Q trình đó
phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ theo đúng Điều lệ Đảng và hướng
dẫn của Trung ương. Trong công tác phát triển đảng viên phải luôn coi trọng
chất lượng, lấy tiêu chuẩn đảng viên làm cơ sở, phải có kế hoạch, biện pháp
cụ thể, khơng hạ thấp yêu cầu về chất lượng, chạy theo số lượng, nhưng cũng
khơng có thái độ hẹp hịi, định kiến, bảo thủ, cầu tồn, khơng tích cực tạo điều
kiện phát triển đảng viên mới.
Chất lượng đảng viên cao là nguồn cung cấp cán bộ tốt cho Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể nhân dân. Như vậy, chất lượng đảng viên của tổ chức

Đảng có quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã


12
khẳng định “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi
bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt ”[26, tr. 92].
Chỉ thị 75 của Bộ Chính trị nêu rõ: Người được xét kết nạp vào Đảng
phải có đủ tiêu chuẩn đảng viên, số lượng chỉ có ý nghĩa khi bảo đảm chất
lượng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi cơ cấu, thành phần và độ tuổi
của đội ngũ dảng viên còn mất cân đối thì Đảng cần có một số lượng đảng
viên phù hợp để hoàn thiện tổ chức, thực hiện vai trị lãnh đạo của Đảng. Với
ý nghĩa đó, số lượng đảng viên có quan hệ chặt chẽ với chất lượng đảng viên.
Giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng chung trong tồn Đảng
đã là khó khăn, phức tạp, lâu dài. Bởi vì, do lịch sử để lại nhiều đảng viên
trong giai đoạn trước đây ln có tinh thần tiên phong, gương mẫu, hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Nay chuyển sang giai đoạn cách mạng mới nhiều đảng
viên do điều kiện hồn cảnh mới, địi hỏi năng lực mới, khơng phát huy được
vai trị của mình. Thậm chí có một bộ phận tụt hậu, bộ phận này cũng đã được
các cấp ủy Đảng giải quyết dần dần bằng nhiều cách hợp lý, hợp tình.
Hiện nay đội ngũ đảng viên, trong khi phần đơng có phẩm chất và đạo
đức tốt, thể hiện được vai trò tiền phong, gương mẫu, thì vẫn có một bộ phận
khơng nhỏ đảng viên thối hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, phẩm chất
đạo đức và năng lực yếu, khơng tỏ rõ vai trị của mình đối với tổ chức Đảng
và với quần chúng. Kinh nghiệm thực tiễn của Đảng ta nhiều năm qua đã chỉ
rõ, trong xây dựng đội ngũ đảng viên phải tiến hành đồng thời cả ba biện
pháp: giáo dục bồi dưỡng, chỉnh đốn và phát triển đội ngũ đảng viên.
Chúng ta biết rằng, chất lượng đảng viên không chỉ bắt nguồn từ yếu tố
tự thân, chủ quan. Chất lượng đảng viên được quyết định chủ yếu bởi những
tác động tích cực từ phía tổ chức, trong tổ chức và do tổ chức. Nguyên lý của
vấn đề này chính là, đảng viên mạnh là do tổ chức mạnh. Từ đây có thể suy ra

những yếu tố tạo nên chất lượng đảng viên:


13
Thứ nhất, tổ chức phải sớm nhận ra những quần chúng ưu tú, tích cực
bồi dưỡng, rèn luyện và thử thách, tạo ra những “hạt giống tốt” cho Đảng.
Trong Điều lệ tóm tắt của Đảng được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trình bày tại
Hội nghị thành lập Đảng (3/2/1930) xác định rất rõ tư cách đảng viên theo
tinh thần chủ nghĩa Lênin: “LỆ VÀO ĐẢNG: Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản,
chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh
phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ
phận đảng thời được vào Đảng”[11, tr.7].
Thực tiễn sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời và lãnh
đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
đã chứng minh rằng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng
không phụ thuộc nhiều vào số lượng mà được quyết định bởi phẩm chất của
từng đảng viên.
Thứ hai, tổ chức phải có trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, rèn
luyện đội ngũ đảng viên. Thực chất của luận điểm này chính là việc tổ chức
phải làm gì để tạo nên một lực lượng đảng viên mang trong mình bản chất
giai cấp cơng nhân và xứng đáng với vai trị tiên phong của nó.
Trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản, C. Mác viết: “Về mặt lý luận, họ
hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến
trình và kết quả chung của phong trào vô sản”; “Về mặt thực tiễn, những
người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả
các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên” [43, tr.614 - 615].
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân của
Đảng là cách mạng và khoa học. Bản chất cách mạng của Đảng được quy
định bởi bản chất giai cấp xã hội mà Đảng đại diện lấy làm cơ sở, bởi mục
tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng. Còn bản chất khoa học của Đảng được quy

định bởi tính tiền phong về tư tưởng, lý luận khoa học mà Đảng lấy làm cơ sở


14
tư tưởng; bởi trí tuệ của những con người ưu tú, tiêu biểu trong quần chúng
giai cấp và nhân dân mà Đảng hấp thu vào đội ngũ của nó; bởi phong cách,
tác phong công tác của Đảng và đội ngũ đảng viên. Từ khi thành lập đến nay,
Đảng ta chưa bao giờ xa rời những vấn đề cơ bản đó của Chủ nghĩa Mác Lênin về Đảng và xây dựng Đảng.
Thứ ba, tự thân người đảng viên phải tích cực và tự giác phấn đấu, rèn
luyện. Những nguyên lý khoa học, biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
luận giải, bên cạnh những phẩm chất tốt được xem là tiền đề trong quá trình
giác ngộ lý tưởng để được đứng vào hàng ngũ và những tác động tích cực từ
phía tổ chức, người đảng viên phải chấp nhận sứ mệnh là phấn đấu, rèn luyện
và hy sinh suốt đời. Đây là điểm khác biệt giữa người đảng viên cộng sản với
những người khác, đây cũng là sự khác biệt giữa Đảng Cộng sản chân chính
với những đảng chính trị khác. Tất nhiên, đây cũng là điểm khó nhất, phức tạp
nhất, là thách thức lớn nhất đối với Đảng và người đảng viên trong q trình
xây dựng Đảng.
Chính vì nhiệm vụ khó khăn mà ngay ở trang mở đầu cuốn Đường Cách
mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã viết về “tư cách một người cách mệnh” với 23
điều răn dạy. Trong đó có 14 điều yêu cầu người cách mạng phải tự làm với
chính mình; 5 điều phải làm đối với người khác; 4 điều phải làm trong khi
thực thi nhiệm vụ.
Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng việc
xây dựng đội ngũ đảng viên, trong đó Đảng chú trọng đặc biệt cơng tác phát
triển đảng trong thanh niên. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, không chỉ
đối với tuổi trẻ Việt Nam mà còn liên quan đến vận mệnh và sức sống của
Đảng. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động và phức tạp hiện nay, trước
những vận hội và cả những thách thức vơ cùng lớn, để có thể giữ vững được
địa vị lãnh đạo sự nghiệp xây dựng vả bảo vệ đất nước Đảng cộng sản Việt



15
Nam phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm với nhiệm vụ quan trọng của
thời đại đặt ra. Vì vậy, cơng tác phát triển đảng viên trong đồn viên thanh
niên là nhằm tăng thêm sinh lực mới cho Đảng, đảm bảo sự kế thừa và phát
triển của Đảng. Vì vậy, việc kết nạp đảng viên mới phải gắn với nhiệm vụ xây
dựng và củng cố Đảng. Tích cực xây dựng nguồn phát triển đảng viên, làm tốt
công tác tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng lực lượng cảm tình
nịng cốt của Đảng ở các cơ sở. Hướng việc phát triển đảng viên trong giai
cấp công nhân, thanh niên lao động ở cơ sở, sinh viên, giáo viên, những nơi
cịn ít và chưa có đảng viên. Thường xun quan tâm lãnh đạo Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây
dựng Đảng. Đặt công tác phát triển đảng viên trong đồn viên thanh niên
thành chương trình, kế hoạch cụ thể và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ, mang lại
hiệu quả thiết thực.
1.1.2. Phát triển đảng viên là một nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức
cơ sở Đảng
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Vấn đề phát triển đảng
viên là vấn đề quan trọng trong xây dựng Đảng. Đảng phải có một số lượng
đảng viên nhất định mới hình thành nên tổ chức đảng. Sự nghiệp lãnh đạo
cách mạng của Đảng là sự nghiệp vĩ đại lâu dài phải do nhiều thế hệ chiến sĩ
cộng sản tham gia gánh vác. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu chỉ có thể có
trên cơ sở số lượng, chất lượng đội ngũ đảng viên tương ứng. Do đó, Đảng
phải thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng viên.
Phát triển đảng viên là vấn đề có tính ngun tắc trong công tác tổ chức
xây dựng Đảng, nhằm làm tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Nếu không làm tốt cơng tác này,
Đảng sẽ bị già hóa, trì trệ, giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, khơng
hồn thành được vai trò lãnh đạo và sứ mệnh của mình đối với sự nghiệp cách



16
mạng. Vì vậy, tiến hành cơng tác phát triển đảng viên là yêu cầu khách quan,
thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo và công tác tổ chức xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Khi kết nạp đảng viên mới cần phải giữ
đúng những điều kiện Trung ương đã quy định và kết hợp với những công tác
trọng tâm. Quyết không nên tùy tiện, cẩu thả, tách rời cơng việc thực tế,…Khi
kết nạp thì thủ tục phải nghiêm nhưng giản đơn”[23, tr.570-571]
Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) quy định 5 nhiệm
vụ của tổ chức cơ sở đảng, trong đó có nhiệm vụ “Xây dựng Đảng bộ, chi bộ
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện
tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất
trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên,
nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức,
năng lực cơng tác; làm công tác phát triển đảng viên”.
Công tác phát triển đảng viên là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác
xây dựng tổ chức Đảng nói riêng, xây dựng Đảng nói chung, nhằm củng cố,
xây dựng, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng. Thực tế hơn
87 năm qua, nhờ làm tốt công tác phát triển đảng viên, Đảng ta đã không
ngừng lớn mạnh, từ chỗ chỉ có hơn 5.000 đảng viên trước khi giành chính
quyền, Đảng ta đã phát triển lên hàng triệu đảng viên, với hàng vạn cơ sở
Đảng, đủ sức lãnh đạo quân và dân ta làm nên những thắng lợi thần kỳ, đánh
đổ những tên đế quốc, thực dân đầu sỏ, hùng mạnh nhất của thời đại, hoàn
thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành
cơng cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc
lập của Tổ quốc.
Để công tác phát triển đảng viên thật sự có chất lượng, các cấp ủy, tổ
chức đảng cần phải thực hiện tốt nhiều khâu, nhiều bước theo một qui trình



17
chặt chẽ, nghiêm túc: từ tuyên truyền, giáo dục, tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp
đến giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức, trong đó khâu tạo
nguồn, bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Vì chỉ có tạo nguồn, bồi dưỡng tốt thì mới bổ sung được cho Đảng những
người ưu tú nhất, tiêu biểu nhất, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, uy
tín và sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Ngược lại, nếu làm không tốt, khơng
chỉ triệt tiêu tính tích cực phấn đấu của quần chúng mà tổ chức Đảng, đảng
viên sẽ mắc bệnh hẹp hịi, cầu tồn hoặc tùy tiện hạ thấp tiêu chuẩn và điều
kiện của người vào Đảng, gây tác hại nhiều mặt, làm cho công tác phát triển
đảng viên không thực hiện được yêu cầu đề ra. Do vậy, các tổ chức đảng cần
chủ động có kế hoạch tạo nguồn, bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng viên;
phân công cấp ủy viên, các đoàn thể theo dõi, giúp đỡ và giao chỉ tiêu cụ thể
về phát triển đảng viên cho từng chi bộ. Hằng năm lấy kết quả công tác bồi
dưỡng, phát triển đảng viên ở cơ sở làm căn cứ tính điểm thi đua khen thưởng
cuối năm. Mặt khác, phải thông qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, chức trách
được giao và qua phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở để bồi
dưỡng, rèn luyện người vào Đảng. Hiện nay vai trò, trách nhiệm của đảng
viên trong việc phát hiện, tạo nguồn phát triển đảng viên chưa được quan tâm
đúng mức, mới chỉ dừng lại ở việc bồi dưỡng, giúp đỡ những quần chúng ưu
tú theo sự phân công của chi bộ. Cần nâng cao trách nhiệm của đảng viên
trong việc chủ động phát hiện, giới thiệu người vào Đảng và trách nhiệm
trước chi bộ về hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng, về động cơ phấn đấu
vào Đảng, về chất lượng của người vào Đảng trước khi kết nạp,...Có như vậy,
quần chúng mới tự giác phấn đấu, tha thiết được kết nạp vào hàng ngũ của
Đảng ngày một nhiều hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn trong công tác phát triển
đảng viên, ở một số địa phương, đơn vị công tác này chưa được quan tâm



18
đúng mức. Thậm chí có những chi bộ, Đảng bộ do quá “tuyệt đối hóa” tiêu
chuẩn đảng viên nên nhiều năm gần như “đóng cửa Đảng”, cả nhiệm kỳ
khơng kết nạp được đảng viên nào. Ngược lại, có những nơi lại chạy theo chỉ
tiêu, số lượng, ít chú ý đến chất lượng nên sau khi kết nạp đảng viên mới
không thật sự “tỏa sáng”, trở thành những cán bộ chủ chốt có năng lực, có
phẩm chất đạo đức, tác phong gương mẫu, được quần chúng tin yêu. Nhiều
đảng viên trẻ vẫn chưa phát huy hết vai trị xung kích, mới chỉ “làm nền” cho
các cuộc hội họp, bỏ phiếu,…thậm chí có người cịn mau chóng lụi tàn, phải
xóa tên khỏi tổ chức Đảng. Thực tế hiện nay nhiều tổ chức cơ sở đảng khơng
phát huy được vai trị hạt nhân lãnh đạo, mất sức chiến đấu cũng một phần do
kết nạp những đảng viên chưa đủ tiêu chuẩn, biết đúng không ủng hộ, biết sai
không dám đấu tranh “Mười rằm cũng ư, mười tư cũng gật”.
Rõ ràng nếu phát triển đảng viên mà không bảo đảm chất lượng là điều
rất nguy hiểm. Bác Hồ đã từng cảnh báo: Đảng mạnh không phải chỉ do số
lượng đảng viên quyết định; số lượng đảng viên chỉ trở thành sức mạnh một
khi nó đạt những yêu cầu về chất lượng. Theo Người, nếu khơng qn triệt và
thực hiện đúng đắn vấn đề có tính ngun tắc đó, thì dù có kết nạp được nhiều
đảng viên, dù số lượng đảng viên tăng, vẫn không làm cho tổ chức đảng mạnh
lên mà trái lại có khi còn làm cho tổ chức đảng trở nên lỏng lẻo, biến Đảng
thành câu lạc bộ, khơng làm trịn vai trị người lãnh đạo. Do vậy, Người ln
nhắc nhở: “Đảng không phải chỉ cần số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng
phải có cái chất của người đảng viên”[26, tr.222].
Xã hội càng phát triển, càng đặt ra những yêu cầu cao đối với cơng tác
xây dựng đảng, trong đó có cơng tác phát triển đảng viên mới. Nói cách khác,
cơng tác phát triển đảng viên mới là một khâu quan trọng trong việc xây dựng
tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ
mới. Do đó, cần phải làm thật tốt cơng tác này để làm sao Đảng ta thật sự thu



19
hút được những người ưu tú nhất, tiêu biểu nhất về phẩm chất, năng lực, trí
tuệ trong giai cấp cơng nhân, nơng dân, trí thức và các thành phần xã hội
khác. Chỉ có kết nạp được những người như vậy, Đảng ta mới có đủ uy tín,
năng lực, trí tuệ để lãnh đạo cách mạng.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và phát triển đảng viên
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thanh niên và phát
triển đảng viên trong thanh niên
Quy luật sinh tồn và phát triển của con người cho thấy, việc trải qua
giai đoạn thanh niên của mỗi con người là tất yếu. Vấn đề tưởng như hiển
nhiên ấy lại đem đến nhiều điều thú vị trong quá trình nghiên cứu, trao đổi,
tranh luận của các nhà triết học, xã hội học, sinh lý học, của những người làm
công tác Đảng, cơng tác xã hội và đồn thể,…Sự thú vị cịn ở chỗ ngay chính
những người được coi là thanh niên nhiều khi cịn hồi nghi về “sự trẻ trung”,
lịng “nhiệt huyết” hay sự “sớm già nua” của mình, nghi ngờ về vị trí vai trị
của mình trong cộng đồng, trong xã hội. Chính vì vậy, trong thực tế khơng
khỏi có những quan niệm khơng giống nhau về tuổi thanh niên và thế hệ
thanh niên. Song, điều nổi lên rõ hơn cả là gắn với sự phát triển của lịch sử
nhân loại vấn đề thanh niên luôn được các quốc gia, các thời đại coi là vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt.
Xét bất kỳ ở phương diện nào, thanh niên cũng thuộc phạm trù con
người, phạm trù xã hôi. Thanh niên là một lớp người, là một thế hệ sống hoà
đồng trong cộng đồng xã hội. Lớp người này, thế hệ này mang những yếu tố
sinh lý, tâm lý khác biệt những lớp người khác trong cộng đồng, đó là những
yếu tố mà có thể giúp họ vươn cao, bay xa, dám nghĩ, dám làm và có thể tạo
nên những kỳ tích trong tiến trình phát triển của lịch sử.



20
Sinh thời, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những
nhìn nhận đánh giá đúng mức chính xác về thanh niên. Theo C.Mác, giai cấp
vơ sản chỉ được hình thành với tư cách là một giai cấp khi nó ý thức được địa
vị và tương lai của nó. ''Bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân nhận
thức rõ ràng tương lai của giai cấp họ và do đó, tương lai của cả lồi người,
hồn tồn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ cơng nhân đang lớn lên''[45,
tr.7]. C.Mác là người phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân. Sứ mệnh lịch sử đó địi hỏi giai cấp cơng nhân phải vươn lên tự khẳng
định mình và tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng
mình và giải phóng nhân loại, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, ấm
no hạnh phúc. Thực hiện sứ mệnh lịch sử đó khơng phải là một sớm một
chiều mà là công việc của nhiều năm, của nhiều thế hệ công nhân, thế hệ sau
kế tiếp thế hệ trước. Như vậy, từng lớp thanh niên sẽ là những người tiếp tục
đưa sự nghiệp cách mạng của cha anh đến đích cuối cùng và chỉ có giáo dục
họ, đào tạo họ thật tốt mới có thể tạo cho họ có đủ bản lĩnh làm tốt cơng việc
được giao.
Ph.Ănghen nhìn nhận thanh niên trong mối quan hệ chặt chẽ với giai
cấp cơng nhân. Ơng coi thanh niên là lực lượng cách mạng quan trọng, là lớp
người rất hăng hái trong đấu tranh cách mạng. Vì thế, họ khơng thể đứng
ngồi chính trị, họ cần được tổ chức lại trong cuộc chiến bảo vệ lợi ích của
nhân dân lao động, trong đó có quyền lợi của họ. Ph.Ănghen đề xuất tư
tưởng: Thanh niên khơng thể đứng ngồi chính trị, chính hiện thực của cuộc
sống đã đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị. Ơng nhấn mạnh:
Thanh niên không bao giờ thoả mãn với lý tưởng trước đây, họ muốn được tự
do hơn trong hành động, họ khát khao lập chiến cơng, vì sự đổi mới họ sẵn
sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình. Ph.Ănghen là người đầu tiên đưa ra
các quan niệm “Đội quân xung kích quyết định của đạo qn vơ sản quốc tế,



21
đội dự bị Đảng” để nói lên mối quan hệ mật thiết giữa thanh niên và giai cấp
công nhân. Năm 1853 khi Đảng do C.Mác thành lập đã khẳng định được vai
trị của mình trên vũ đài lịch sử, trong cuộc đấu tranh chống những đạo luật
đặc biệt của Bixmác, Ph.Ănghen khẳng định: Chính thế hệ trẻ là nguồn bổ
sung dồi dào nhất cho Đảng. Điều đó cho ta thấy ngay từ khi thành lập tổ
chức Đảng đầu tiên của giai cấp cơng nhân, C.Mác và Ph.Ănghen đã tìm được
nguồn lực bổ sung cho Đảng là lực lượng thanh niên và cho đó là lực lượng
quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại của Đảng.
Phát triển những luận điểm của C.Mác và Ph.Ănghen trong hoàn cảnh
lịch sử mới. V.I.Lênin coi thanh niên là: “Nguồn sinh lực chiến đấu của cách
mạng”[44, tr.67]. Người chỉ rõ: "Há chẳng phải trong đảng cách mạng của
chúng tôi, thanh niên chiếm ưu thế tuyệt đối là một điều tự nhiên sao? Chúng
tôi là Đảng của những người đổi mới, mà thanh niên luôn đi theo đổi mới.
Chúng tôi là Đảng đấu tranh chống chế độ cũ thối nát mà thanh niên luôn đi
đầu"[39, tr. 210]. Có thể nói, đây là luận điểm thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất
vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng.
V.I.Lênin khẳng định: “Chúng ta biết rằng, hiện giờ có hàng chục, hàng
trăm ngàn quân hậu bị là thanh niên cơng nơng,...hồn cảnh của chúng ta càng
khó khăn, thì họ càng xích gần lại với chúng ta đơng đảo hơn, với tinh thần hy
sinh quên mình cao hơn. Những qn hậu bị đó làm cho chúng ta hồn tồn
tin chắc rằng,...chúng ta đã có được nguồn lực lượng hậu bị mà chúng ta có
thể khai thác lâu dài, với qui mơ to lớn” [39, tr. 338]. Ơng đã luận giải được
ra những đặc điểm của nó và xác định mối quan hệ sự tác động qua lại giữa
các tổ chức thanh niên với các Đảng Cộng Sản. Ông đánh giá cao tiềm năng
sáng tạo của tuổi trẻ và khơng nghi ngờ về khả năng hồn thành xuất sắc
những nhiệm vụ của cách mạng mà các thế hệ trước chưa kịp hồn thành. Từ
cuối thế kỷ 19 ơng đã viết: “Người ta quan sát thấy thanh niên công nhân một



22
khát vọng nồng cháy khơng gì kìm hãm được tới lý tưởng của dân chủ và chủ
nghĩa xã hội”[38, tr.195]. Không phải ngẫu nhiêm trong bài báo: “Sự khủng
hoảng của chủ nghĩa Macxêvich” công bố ngày 7/12/1906, V.I.Lênin đã ghi
nguyên văn đoạn nghị luận sau đây của Ph.Ănghen: “Chúng ta là Đảng của
tương lại mà tương lai thuộc về thanh niên thì lại hào hứng đi theo những
người cách tân. Chúng ta là Đảng của sự chiến đấu quên mình với những gì
mục nát cũ kỹ mà thanh niên bao giờ cũng đi tiên phong trong cuộc đấu tranh
quên mình ấy”. Từ đó V.I.Lênin đi đến kết luận “Chúng ta mãi mãi là Đảng
của thanh niên, của giai cấp tiên phong”, “Chúng ta đấu tranh tốt hơn cha ông
chúng ta, con cháu chúng ta sẽ đấu tranh tốt hơn chúng ta nhiều và chúng sẽ
chiến thắng” và có thể nói rằng nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản chính là thời kỳ cách mạng sơi động. Chính V.I.Lênin là
người làm cho các tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của
C.Mác và Ph.Ănghen trở thành hiện thực sau cách mạng Tháng 10. Trong
khơng khí cách mạng sơi sục đó đã khẳng định một cách chắc chắn về vai trò
của thanh niên với Đảng, với cách mạng. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu dài, gian khổ, chỉ có thanh niên
mới là người có đủ thời gian và điều kiện để đảm bảo cho con đường đó từ ý
tưởng trở thành hiện thực.
Thanh niên là một bộ phận rất quan trọng của xã hội, giữ vị trí và vai
trị hàng đầu trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều coi thanh niên là một lực lượng cách mạng
hùng hậu, có vai trị quan trọng trong cách mạng và xem xét vấn đề thanh
niên ln gắn bó với giai cấp công nhân và đảng tiên phong. C.Mác khẳng
định: "Do những quy luật phát triển khách quan của xã hội, thanh niên bao
giờ cũng giữ vai trò quan trọng trong việc kế thừa và phát triển những thành
tựu của người đi trước"[42, tr. 23].



23
Trong q trình lãnh đạo, Đảng ta ln đánh giá đúng vị trí, vai trị
quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X), Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố
quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên
nhiều lĩnh vực, đảm nhận những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe
và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí
tuệ, ln năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình”[13, tr.35].
V.I.Lênin tin tưởng việc tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và
quản lý Nhà nước trong chế độ mới sẽ có lực lượng thanh niên. Họ sẽ hoạt
động với cách thức mới hơn và hiệu quả cao hơn. Người viết: "Nếu chúng tơi
làm việc khơng q gấp, thì trong vài năm nữa chúng tơi sẽ có một số thanh
niên đơng đảo có khả năng làm thay đổi bộ máy của chúng tôi"[40, tr. 360363]. Đó chính là sự thể hiện cao nhất vai trị, vị trí, sự đóng góp của thanh
niên trong quản lý xã hội và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định
rõ lập trường của những người cộng sản chân chính là cần phải giáo dục cộng
sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về thanh niên và phát triển đảng viên trong thanh niên
Kế thừa những di sản tư tưởng quý báu của C.Mác, Ph.Ănghen và
V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo các luận điểm Mácxít
về vai trị vị trí của thanh niên trong xã hội, về nhiệm vụ giáo dục thế hệ và về
Đoàn Thanh niên trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở thanh niên vai trò là dộng lực chủ
yếu của cách mạng. Đối với nước ta, vị trí của thanh niên được Người khẳng
định là lớp người tiên phong, đột phá, đảm bảo cho sự hồi sinh của dân tộc,



24
“nắm vai trò là những người châm ngòi lửa đầu tiên cho cách mạng nước
ta”[10, tr.48]. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ý thức rằng, thanh niên chính là đội
dự bị của Đảng, của cách mạng. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc là sự nghiệp các thế hệ kế tiếp nhau, thanh niên là đóng vai trò là
người tiếp sức cho cách mạng. Người chỉ rõ: “Thanh niên là người tiếp cách
mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ
thanh niên tương lai - tức các cháu thiếu niên nhi đồng”[19, tr.81]. Từ năm
1924, tấm gương hoạt động và những bài báo của Người đã có sức hấp dẫn
đối với thanh niên, cổ vũ thanh niên nước ta đứng lên làm cách mạng, việc
thành lập tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” với hạt
nhân là cộng đồng Đoàn để chuẩn bị thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam và
việc sáng lập tờ báo “Thanh niên” đã chứng tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn
chiến lược.
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln xác định thanh niên là đội quân xung kích đi đầu trong phong trào
cách mạng. Người nêu rằng: “Lực lượng to lớn và vững chắc trong cuộc
kháng chiến và kiến quốc. Mọi công việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu
hiệu đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”[20, tr.82]. Từ năm
1921, trong màn đêm của chế độ thực dân, Người đã nhận thấy: “Đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Đơng Dương giấu một cái gì đó đang sơi sục gào
thét và sẽ bùng nổ một cách ghê góm khi thời cơ đến, bộ phận ưu tú có nhiệm
vụ phải thúc đẩy cho thời cơ khi thời cơ đến”[22, tr.28].
Người cũng khẳng định, thanh niên đóng vai trị quan trọng trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là "lực lượng nòng cốt để xây dựng xã
hội mới", "nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên"[24, tr.185]. Người cho rằng, để hoàn thành sứ mệnh "Người chủ
tương lai của nước nhà" thanh niên phải "làm đầu tàu, xung phong gương



25
mẫu", phải "tiên phong" đến những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào
người khác làm ít kết quả thì thanh niên phải làm cho tốt. Bởi vì, theo Người
thì chỉ có tuổi trẻ mới đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng xử lý các tình
huống khó khăn trong điều kiện lao động phức tạp. Người nói thêm, dưới sự
dìu dắt của Đảng, thanh niên phải tự thân vận động, phải "biết lo toan, gánh
vác, không ỷ lại"; thường xuyên sáng tạo và đổi mới trong suy nghĩ và hành
động; dám nghĩ, dám làm, dám hi sinh và cống hiến vì mục tiêu chung của đất
nước. Muốn vậy, thế hệ trẻ phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện và học tập
để làm người và phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Trong Thư gửi học
sinh nhân ngày khai trường (tháng 9 năm 1945), Người đã gửi trọn niềm tin
yêu và trách nhiệm đối với thế hệ trẻ: Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp
hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở cơng học
tập của các em,...trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết
nguyên đán năm 1946, Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời
khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn quan
tâm đến lớp trẻ của dân tộc, thấy rõ vai trò to lớn, quyết định của thanh niên
trong tiến trình lịch sử và có niềm tin sâu sắc và khả năng cách mạng của họ.
Vì vậy, Người đã dành nhiều thời gian, dồn tâm lực để gieo mầm cách mạng
vào các thế hệ thanh niên Việt Nam. Theo Người, thanh niên đóng vai trị là
lực hùng hậu, đi đầu thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Do đó,
Đảng cần phải thường xuyên quan tâm, dẫn đường, chỉ lối để thanh niên có
thể thực hiện sứ mệnh "xung phong" của mình. Việc quan tâm bồi dưỡng phát
triển thanh niên vào Đảng hiện nay chính là Đảng ta đang thực hiện lời căn
dặn của Bác Hồ, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.



×