Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.05 KB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chỉ thị số 52CT/TƯ ngày 21/01/2002 của Bộ Chính trị khẳng định:
kết nạp đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính qui luật
trong công tác xây dựng Đảng nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và bảo
đảm sự kế thừa phát triển của Đảng. Đảng là một cơ thể chính trị - xã hội
sống, có quá trình hình thành, phát triển và đào thải riêng. Vì vậy, sự phát
triển của Đảng là đòi hỏi tự nhiên, là qui luật tất yếu, nhằm để bù đắp số
lượng giảm đi và tạo thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa Đảng, bảo đảm sự kế
thừa, tạo thêm nhân tố mới trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
(ĐNĐV).
Thanh niên là lực lượng "rường cột của nước nhà" và Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh là đội hậu bị tin cậy của Đảng, là đội quân
xung kích cách mạng, là trường học xã hội chủ nghĩa (XHCN) của thanh
niên. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, thanh niên càng có vị trí, vai trò quan trọng
đối với sự phát triển đi lên của cả dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: sự nghiệp đổi mới có
thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước
theo con đường XHCN hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh
niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên.
Là cấp cơ sở trong hệ thống chính trị, phường là địa bàn mà ở đó
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được hiện thực
hóa. Nằm trên địa bàn đô thị, phường là nơi diễn ra những hoạt động sản
xuất kinh doanh, sinh hoạt chính trị, xã hội sôi động nhất. Những tác động
1
tích cực cũng như tiêu cực đều diễn ra ở đây. Điều đó đã tác động một cách
trực tiếp đến lý tưởng, động cơ, lối sống của thanh niên thành phố.
Hiện nay, ở Đà Nẵng đảng viên đang sinh hoạt tại các Đảng bộ
phường rất đa dạng và không đồng đều, xét theo nhiều khía cạnh. Số đảng


viên "đương chức" (trong đó có số trẻ) làm nòng cốt của các Đảng bộ đang
giữ trọng trách tại các cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân phường, trường học,
đồn công an, trạm xá, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ ít (và
chất lượng cũng còn nhiều hạn chế). Còn lại là các đảng viên đã nghỉ hưu
hoặc mất sức lao động. Chính vì vậy, làm tốt công tác phát triển đảng viên
(CTPTĐV) trong thanh niên ở cấp phường để góp phần trẻ hóa, tăng thêm
sinh lực, trí tuệ cho các Đảng bộ phường bảo đảm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của phường là một vấn đề rất quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng.
Là cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng thuộc
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Đà Nẵng, tác giả
muốn góp tiếng nói trong vấn đề này. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài:
"Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng
bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay" làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình, bài báo
nghiên cứu về CTPTĐV của Đảng, về giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng chính
trị, đạo đức cách mạng cho thanh niên như: "Xây dựng đội ngũ đảng viên là
thanh niên sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố
Hà Nội", luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Trang, 2001; về công tác phát
triển Đảng có các công trình "Phát triển đảng viên trong sinh viên các trường
đại học công an nhân dân ở phía Bắc trong giai đoạn hiện nay", luận văn
thạc sĩ của Vũ Thế Kỳ, 2001; "Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng
2
viên mới trong học viên hệ đào tạo sĩ quan ở các nhà trường thuộc Quân
chủng Phòng không - Không quân trong thời kỳ mới", luận văn thạc sĩ của Lê
Văn Lương, 2002; "Công tác phát triển đảng viên mới trong sinh viên đại
học ở Đà Nẵng hiện nay", luận văn thạc sĩ của Lê Thưởng, 2001; và "Công
tác phát triển Đảng trong sinh viên một số trường đại học ở Hà Nội hiện
nay, thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sĩ của Dương Trung Ý, 2001.

Riêng về CTPTĐV trong thanh niên ở Đà Nẵng đến nay chưa có công
trình nghiên cứu nào. Cũng tương tự như vậy, vấn đề phát triển đảng viên ở
phường trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa được nghiên cứu. Vì vậy,
việc nghiên cứu để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển đảng viên trong
thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là việc làm cần thiết và cấp
bách.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Góp phần đẩy mạnh CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng trong giai đoạn mới và phục vụ công tác giảng dạy của
bản thân ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò của thanh niên nói chung, thanh niên trên địa bàn
phường nói riêng trong sự nghiệp CNH, HĐH theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thanh niên trên địa bàn phường và
CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ năm
1997 đến nay. Từ đó, rút ra nguyên nhân của thực trạng, đề xuất một số
giải pháp để làm tốt CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở
thành phố Đà Nẵng giai đoạn mới.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Là CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường của các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay.
* Phạm vi nghiên cứu
CTPTĐV là vấn đề rất rộng, có thể nghiên cứu ở nhiều giai đoạn, đối
tượng khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu CTPTĐV trong thanh niên (sống và làm việc ở phường, gắn bó
chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể phường - gọi tắt là thanh niên trên

địa bàn phường) của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về xây
dựng Đảng và xây dựng CNXH.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận mác xít, trong đó đặc biệt
chú ý các phương pháp như: phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê và lý luận gắn liền với thực tiễn.
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn
* Ý nghĩa
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy và chỉ đạo thực tiễn CTPTĐV của các Đảng bộ phường.
* Đóng góp của luận văn
- Hệ thống, khái quát thực trạng CTPTĐV trong thanh niên của các
Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ 1997 đến nay (2003).
4
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh, đổi mới CTPTĐV trong
thanh niên ở Đảng bộ phường tại Đà Nẵng thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
5
Chương 1
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG THANH NIÊN
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG THANH NIÊN
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG - QUAN NIỆM, VAI
TRÒ VÀ Ý NGHĨA
1.1.1. Quan niệm của Đảng bộ phường ở Đà Nẵng về công tác

phát triển đảng viên trong thanh niên
Lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)
chứng minh rằng, Đảng luôn luôn chú trọng phát triển đảng trong thanh niên.
Đây là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ đối với tuổi trẻ Việt
Nam mà còn liên quan đến sinh mệnh và sức sống của Đảng. Trong bối cảnh
mới đầy biến động và phức tạp trên thế giới, những thời cơ và thách thức của
đất nước ta hiện nay, ĐCSVN vẫn giữ vững được trọng trách lãnh đạo toàn xã
hội vươn lên. Bản thân Đảng đã tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm với
nhiệm vụ quan trọng của thời cuộc đặt ra. Vì vậy, CTPTĐV trong thanh niên
nhằm:
Tăng thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa đội ngũ, bảo đảm
sự kế thừa và phát triển của Đảng. Làm tốt công tác tạo nguồn để
lựa chọn, bồi dưỡng, kết nạp những người ưu tú có đủ tiêu chuẩn,
trong Đoàn thanh niên, trong công nhân, nông dân, trí thức, chiến
sĩ các lực lượng vũ trang...chú ý những cơ sở trọng yếu, những
nơi còn ít và chưa có đảng viên. Coi trọng chất lượng, không
chạy theo số lượng, bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc, đồng thời
không định kiến, hẹp hòi... phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo
6
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là một nhiệm vụ
quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đặt CTPTĐV trong
thanh niên thành chương trình, kế hoạch cụ thể và tổ chức chỉ
đạo chặt chẽ, mang lại kết quả thiết thực [6, tr. 39].
Trong quá trình đấu tranh, trưởng thành, lãnh đạo nhân dân trước
đây và đổi mới hiện nay, các cấp ủy Đảng ở Thành phố Đà Nẵng nói
chung, ở các Đảng bộ phường nói riêng đều nhận thức và quan niệm rằng:
Thứ nhất, trong sự tồn tại và phát triển của mình, Đảng phải thường
xuyên bổ sung vào ĐNĐV những lực lượng mới, ưu tú trong phong trào
quần chúng. Đó là qui luật trong quá trình trưởng thành và là một nội dung
quan trọng trong công tác đảng viên của Đảng. Đặc biệt trong tình hình

hiện nay, CTPTĐV càng trở nên có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất
lượng ĐNĐV của Đảng.
Có thể nói, trong các phạm vi vận động thanh niên hiện nay thì địa
bàn dân cư là phạm vi khó nhất, đang gặp nhiều lúng túng nhất. Thực tiễn ở
Đà Nẵng đặt ra: Thanh niên trên địa bàn dân cư, họ là những ai? Có thể
phân ra bốn loại thanh niên trên địa bàn dân cư. Một loại đã được tập hợp
trong tổ chức Đoàn, Hội ngoài phường, tạm gọi là loại thứ nhất; loại đã
được tập hợp trong tổ chức Đoàn, hội ở phường, tạm gọi là loại thứ hai;
loại đã được tập hợp trong tổ chức thanh niên không phải là Đoàn, Hội, tạm
gọi là loại thứ ba và loại chưa được tập hợp trong tổ chức thanh niên nào,
tạm gọi là loại thứ tư. (Xin nói rằng, việc phân loại ở đây chỉ là thao tác
trừu xuất trong nghiên cứu và quản lý, hoàn toàn không mang ý nghĩa phân
biệt, đối xử - một điều tối kỵ trong quá trình đoàn kết, tập hợp, giáo dục
thanh niên). Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở loại
thứ hai, thứ ba, thứ tư và tạm gọi là thanh niên trên địa bàn dân cư.
Thứ hai, trước thực trạng ĐNĐV hiện nay, bên cạnh số đông có
phẩm chất và đạo đức tốt, có một bộ phận không nhỏ đảng viên thoái hóa,
7
biến chất về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức và năng lực yếu, không
tỏ rõ vai trò của mình đối với tổ chức Đảng và với quần chúng. Cho nên,
việc nâng cao chất lượng đảng viên theo phương châm: chặt chẽ hơn nữa
"đầu vào", xử lý chính xác "đầu ra", nâng cao chất lượng đội ngũ hiện có
và CTPTĐV phải kết hợp gắn chặt với việc chỉnh đốn, sàng lọc ĐNĐV.
Thứ ba, về nguyên tắc, Đảng chỉ kết nạp những người ưu tú, có đủ
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thực hiện các nhiệm vụ của Đảng.
Trong khi kết nạp đảng viên mới phải đặc biệt chú trọng thực hiện phương
châm coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng đơn thuần.
Bảo đảm chất lượng là yêu cầu xuyên suốt quá trình phát triển đảng
viên mới. Đây là một chuỗi các công đoạn đòi hỏi tổ chức Đảng mà trực
tiếp là các cơ sở đảng và các chi bộ phải quan tâm chỉ đạo công phu, chu

đáo ngay từ khi tạo nguồn như tuyên truyền, giáo dục, lựa chọn đến các
khâu kết nạp và giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức.
Quá trình đó phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ theo đúng Điều lệ
Đảng và hướng dẫn của Trung ương. Trong CTPTĐV phải luôn coi trọng
chất lượng, lấy tiêu chuẩn đảng viên làm cơ sở, phải có kế hoạch, biện pháp
cụ thể, không hạ thấp yêu cầu về chất lượng, chạy theo số lượng, nhưng
cũng không có thái độ hẹp hòi, định kiến, bảo thủ, cầu toàn, không tích cực
tạo điều kiện phát triển đảng viên mới. Lênin cho rằng: "Chúng ta cần có
những đảng viên mới không phải là để quảng cáo mà là để làm việc thật sự.
Những người đó, chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ của chúng ta, đảng ta
mở rộng cửa để đón những người lao động" [11, tr. 256].
Sức mạnh của Đảng phụ thuộc vào chất lượng đảng viên. Người được
xét kết nạp vào Đảng phải có đủ tiêu chuẩn đảng viên, số lượng chỉ có ý nghĩa
khi bảo đảm chất lượng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi cơ cấu, thành
phần và độ tuổi của ĐNĐV còn mất cân đối thì Đảng cần có một số lượng
đảng viên phù hợp để hoàn thiện tổ chức, thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng.
8
Với ý nghĩa đó, số lượng đảng viên có quan hệ chặt chẽ với chất lượng
đảng viên. Giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng chung trong
toàn Đảng đã là khó khăn, phức tạp, lâu dài thì đối với các đảng bộ phường
(nói chung) ở Đà Nẵng nói riêng lại càng nan giải. Bởi vì, do lịch sử để lại
nhiều đảng viên giai đoạn cách mạng trước tiên phong, gương mẫu, hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Nay chuyển sang giai đoạn cách mạng mới nhiều đảng
viên do điều kiện hoàn cảnh mới, đòi hỏi năng lực mới, không phát huy
được vai trò của mình. Thậm chí có một bộ phận tụt hậu. Bộ phận này cũng
đã được các cấp ủy Đảng giải quyết dần dần bằng nhiều cách hợp lý, hợp
tình. Nhưng dù có giải quyết thế nào thì theo qui luật 10 đến 15 năm nữa số
này sẽ hết. Trong khi đó hướng kết nạp đảng viên mới hiện nay là chú
trọng vào đối tượng nam, nữ thanh niên ưu tú để "trẻ hóa" ĐNĐV thì ở
phường lại gặp rất nhiều khó khăn cả về số lượng lẫn chất lượng. Do vậy,

một vấn đề đặt ra đối với các cấp đảng bộ phường ở Đà Nẵng là trên cơ sở
nắm vững những yêu cầu về tiêu chuẩn đảng viên, coi trọng chất lượng
nhưng cần vận dụng linh hoạt trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Không đòi hỏi thực hiện một cách máy móc, cứng nhắc các tiêu chuẩn ở
những địa bàn dân cư chưa có đảng viên hoặc ít đảng viên mà rất cần có sự
lãnh đạo trực tiếp của người đảng viên. Nếu làm tốt việc phát triển đảng
viên trẻ thì chất lượng ĐNĐV sẽ được tăng cường, sau khoảng 10, 15 năm
nữa các đảng bộ phường sẽ có một ĐNĐV trong sạch vững mạnh, đáp ứng
tốt yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và các thời kỳ tiếp theo trên địa bàn
phường.
Thứ tư, xét duyệt đúng tiêu chuẩn, đúng nguyên tắc, đúng trình tự, đúng
thủ tục. Đồng thời không định kiến, hẹp hòi, không "thành phần chủ
nghĩa".
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên
9
1.1.2.1. Vai trò của thanh niên
Thanh niên có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng và tương lai của dân tộc.
Theo C.Mác, giai cấp công nhân chỉ được hình thành với tư cách là
một giai cấp khi ý thức được địa vị và tương lai của mình. Những công
nhân tiên tiến nhất hoàn toàn hiểu rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân
và do đó tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế
hệ công nhân đang lớn lên [17, tr. 263]. Cuối thế kỷ XIX trong bối cảnh xã
hội tư bản, Mác cho rằng, cần phải giải thoát cho thanh niên, thiếu niên
khỏi sự tác động có tính chất phá hoại của hệ thống hiện đại. Chính Mác đã
gọi thanh niên là cội nguồn của sự sống của dân tộc và giai cấp công nhân, là
bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc.
Khi đánh giá vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng, các
quan điểm mácxít đã chỉ ra, chỉ có cách mạng vô sản và sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới thực sự làm cho thế hệ thanh
niên phát huy được vai trò to lớn của mình một cách tích cực, chủ động và
sáng tạo. Do vậy, giáo dục thanh niên được coi là nhiệm vụ hàng đầu để có
con người mới XHCN.
Ph. Ăngghen nêu rõ: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị,
chính hiện thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống
chính trị. Chính Ăngghen là người đầu tiên đưa ra các quan niệm như: "Đội
quân xung kích quyết định của đạo quân vô sản", "đội hậu bị của đảng" để
gắn với thanh niên. Vào năm 1853, khi "đảng của Mác" đã khẳng định
được vị trí của mình trên vũ đài chính trị, trong cuộc đấu tranh quyết liệt
chống lại đạo luật đặc biệt của Bítxmác, Ăngghen đã viết: Chính thế hệ trẻ là
nguồn bổ sung dồi dào nhất cho đảng. Luận thuyết của Mác - Ăngghen luôn
khẳng định lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo cần được tập hợp, tổ
10
chức và giáo dục, sao cho những biến đổi tư tưởng của họ bắt kịp với thời
đại, đi đúng quỹ đạo của dòng thác cách mạng đang cuộn chảy.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen trong
điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là "nguồn sinh lực chiến
đấu của cách mạng". Người chỉ rõ: "Há chẳng phải trong đảng cách mạng
của chúng tôi, thanh niên chiếm ưu thế tuyệt đối là một điều tự nhiên sao?
Chúng tôi là đảng của những người đổi mới, mà thanh niên luôn đi theo đổi
mới. Chúng tôi là đảng đấu tranh chống chế độ cũ thối nát mà thanh niên
luôn đi đầu" [12, tr. 210]. Có thể nói, đây là luận điểm thể hiện rõ nhất, trực
tiếp nhất vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng. Với quan điểm
này Lênin khẳng định, thanh niên là một bộ phận quan trọng, hùng hậu của
cách mạng, là đội hậu bị của Đảng cộng sản, là đội quân xung kích trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, là thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của các
thế hệ đi trước và các thế hệ thanh niên sẽ nối tiếp nhau xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳng định:
Chúng ta biết rằng, hiện giờ có hàng chục, hàng trăm

ngàn quân hậu bị là thanh niên công nông..., hoàn cảnh của
chúng ta càng khó khăn, thì họ càng xích gần lại với chúng ta
đông đảo hơn, với tinh thần hy sinh quên mình cao hơn. Những
quân hậu bị đó làm cho chúng ta hoàn toàn tin chắc rằng...chúng
ta đã có được nguồn lực lượng hậu bị mà chúng ta có thể khai
thác lâu dài, với qui mô to lớn [15, tr. 338].
Lênin tin tưởng việc tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và quản
lý nhà nước trong chế độ mới sẽ có lực lượng thanh niên. Họ sẽ hoạt động với
cách thức mới hơn và hiệu quả cao hơn. Người viết: "Nếu chúng tôi làm việc
không quá gấp, thì trong vài năm nữa chúng tôi sẽ có một số thanh niên
đông đảo có khả năng làm thay đổi bộ máy của chúng tôi" [16. tr. 360-363].
11
Đó chính là sự thể hiện cao nhất vai trò, vị trí, sự đóng góp của thanh niên
trong quản lý xã hội và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định rõ
lập trường của những người cộng sản chân chính là cần phải giáo dục cộng
sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân.
Kế thừa những di sản quí báu của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một cách sáng tạo những luận điểm
mác xít về vị trí, vai trò của thanh niên trong xã hội; về nhiệm vụ giáo dục
thanh niên, về Đoàn thanh niên cộng sản trong điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Nếu như trước đó C.Mác. Ph. Ăngghen, V.I.Lênin luôn
gắn thanh niên với giai cấp công nhân, với đảng tiên phong của nó, thì đến
Hồ Chí Minh đã có sự phát triển vượt bậc, cụ thể. Thanh niên không những
gắn với giai cấp công nhân mà còn gắn với dân tộc, với Đảng cộng sản. Do
đó, muốn "hồi sinh" dân tộc, trước hết phải "hồi sinh" thanh niên. Trong tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, phần phụ lục "gửi thanh niên Việt Nam"
Người tha thiết kêu gọi "Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết
mất, nếu đám thanh niên sớm già của Người không sớm hồi sinh" [18, tr.
133]. Bác nhận thấy "thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc",

"người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già; đồng thời là người
phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". "Thanh niên là lực lượng cơ
bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ". Trong mọi công việc thanh
niên là người có khả năng thực hiện khẩu hiệu "đâu cần thanh niên có, việc
khó thanh niên làm" [7, tr. 96]. Người tổng kết: "Thanh niên là một bộ
phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ.
Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên
phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc" [7, tr. 96]. Việc thành
lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (với hạt nhân là cộng sản
Đoàn) để chuẩn bị cho việc thành lập ĐCSVN và sáng lập từ báo cách
12
mạng mang tên Thanh niên chứng tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn chiến
lược, khi Người biết rằng chỉ có thanh niên mới có thể "nắm vai trò là
những người châm ngòi lửa đầu tiên cho cách mạng nước ta". Người thấy
rõ sự thịnh suy, mạnh yếu của một dân tộc phần lớn tùy thuộc vào thanh
niên. Coi thanh niên là đầu tàu của lực lượng cách mạng, thức tỉnh thanh
niên để thức tỉnh một dân tộc là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Trong các tác phẩm, các buổi nói chuyện, Hồ Chí Minh đã đề cập
nhiều đến việc giáo dục đạo đức, đến những mục tiêu, phương hướng, hình
thức, biện pháp thiết thực để giáo dục thanh niên nhằm biến nguồn sinh lực
dồi dào của tuổi trẻ dưới dạng tiềm năng trở thành hiện thực. Theo Người,
giáo dục thanh niên không thể tách rời với những cuộc đấu tranh cải tạo, xây
dựng xã hội. Nhiệm vụ của thanh niên to lớn, vai trò càng vẻ vang thì phẩm
chất, năng lực càng phải cao. Phẩm chất và năng lực đó nhất thiết phải thông
qua con đường giáo dục và rèn luyện mới có. Bác nhắc nhở: giáo dục và
rèn luyện thanh niên là trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, các tổ chức của
thanh niên, của gia đình và toàn xã hội. Trong đó, Đoàn thanh niên là tổ chức
chính trị của thanh niên do Đảng lập ra, là người đại diện cho thanh niên, là
hạt nhân đoàn kết, giáo dục và phát huy vai trò xung kích của thanh niên.
Đoàn thay mặt Đảng tập hợp và rèn luyện thanh niên, tổ chức thanh niên

đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mối quan hệ giữa Đoàn với
Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng về đường lối chính trị thì
thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc lập; trong
mọi công việc, đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu để lôi
cuốn nhân dân cùng tiến bộ; mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà
làm.
Trong di chúc để lại, Người nêu bật vấn đề thanh niên với những
đánh giá và căn dặn của mình:
13
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều
hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng
cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa "hồng" vừa
"chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và cần thiết [21, tr. 498].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta hết sức coi trọng và đánh giá
cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Điều đó được công nhận
ngay từ Đại hội Đảng lần thứ nhất (28/3/1935): "Thanh niên lao động Đông
Dương là một lực lượng cách mạng rất lớn, vị trí thanh niên trong các
phong trào dân tộc giải phóng trước năm 1930 rất quan trọng. Trong thời
kỳ cao trào 1930-1931, thanh niên lao động rất hăng hái tham gia các cuộc bãi
công, biểu tình vũ trang, bạo động, thiết lập chính quyền Xô viết" [2, tr.
253]. Trong các thời kỳ khó khăn của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
khẳng định: "Một Đảng cách mạng bao giờ cũng tuyển đội ngũ xung phong
của mình trong các giới thanh niên". Năm 1968, Nghị quyết 181 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về công tác vận động thanh niên đã khẳng định
vai trò của Đoàn thanh niên lao động Việt Nam là: Đội quân xung kích
cách mạng thực hiện mọi nhiệm vụ của Đảng, tham gia xây dựng Đảng,
kiện toàn Đảng, đào tạo lực lượng hậu bị cho Đảng.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, trước những biến động phức

tạp của tình hình trong nước và thế giới, diễn biến tâm lý, tư tưởng của
thanh niên đang có nhiều vấn đề đặt ra phải được suy nghĩ nghiêm túc. Sự
phân tầng về nghề nghiệp và thu nhập trong thanh niên ngày càng rõ nét do
tác động của cơ chế kinh tế thị trường, những chuẩn mực truyền thống và
những định hướng giá trị tốt đẹp đang có xu hướng biến đổi. Do vậy, Đảng
ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về công tác thanh niên, khẳng
định sự quan tâm đặc biệt đến thanh niên và công tác thanh niên.
14
Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa V) đặt vấn đề: tập hợp thanh niên một cách rộng rãi bằng nhiều loại
hình thức tổ chức linh hoạt khác nhau theo đối tượng, nhu cầu và sở thích để
làm những việc có ích cho xã hội và cho tuổi trẻ. Chú ý thích đáng những đặc
điểm của nữ thanh niên, của thanh niên các dân tộc, các tôn giáo, thanh niên
quân đội, thanh niên học sinh, thanh niên các vùng khác nhau của đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa VI) chỉ
rõ: Đảng cần hướng dẫn sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể và tổ
chức quần chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên cùng nhau chăm lo lợi
ích thiết thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng và ở các cơ sở, đoàn thể cần coi trọng
việc tập hợp quần chúng (trong và ngoài đoàn thể) bằng những hình thức linh
hoạt (nhóm, tổ, câu lạc bộ...) hoạt động theo những nội dung thích hợp. Tiếp
theo tinh thần đó, Nghị quyết 25 của Bộ Chính trị (khóa VI) một lần nữa
khẳng định rằng Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải hết lòng bồi dưỡng, phát
huy tiềm năng và vai trò chủ động của thanh niên trên mọi lĩnh vực của công
cuộc đổi mới, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược con người. Đặc biệt,
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) "Về công tác
thanh niên trong thời kỳ mới" đã đánh giá về thanh niên một cách toàn diện
hơn. Đảng ta chỉ rõ: "Thanh niên ngày nay là lực lượng xã hội to lớn, có tiềm
năng hùng hậu" [5, tr. 80], "Thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng" [5, tr. 82].

Trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc ta, thanh niên Việt Nam đã thể
hiện vai trò cực kỳ to lớn của mình. Có biết bao thanh niên đã xả thân vì
nước, góp phần làm nên những kỳ tích trong lịch sử đấu tranh gìn giữ nền
độc lập, tự do cho Tổ quốc. Họ luôn có mặt trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc yêu cầu theo lời dạy của Bác Hồ:
15
"không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết
chí cũng làm nên" [18, tr. 95].
Trong thực tế cuộc sống hiện nay, thanh niên là những người góp
phần tạo ra cục diện mới của đất nước. "Quân đội bảo vệ Tổ quốc là từ
thanh niên, lực lượng lao động và phát triển đất nước cũng là thanh niên;
trong lao động sáng tạo, tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ mới, thanh
niên đóng vai trò chủ lực" [22, tr. 37]. "Thành công và phát triển hay để đất
nước tiếp tục trì trệ trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chủ yếu là do thanh
niên quyết định" [22, tr. 40].
Tóm lại, trong lịch sử và hiện tại giành, giữ chính quyền và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn
mạnh và đánh giá cao vai trò của thanh niên. Đồng thời cũng luôn chỉ rõ
con đường duy nhất để thanh niên xứng đáng với vai trò vẻ vang của mình
là phải không ngừng học tập và rèn luyện đạo đức cách mạng, tức là thanh
niên phải phấn đấu trở thành người cộng sản chân chính.
1.1.2.2. Ý nghĩa công tác phát triển trong thanh niên ở các Đảng
bộ phường
Phát triển ĐNĐV trẻ về tuổi đời, có trí tuệ cao phẩm chất tốt, dồi dào
về thể lực, trong sáng về đạo đức là nhiệm vụ có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng:
Một là, là nền tảng của Đảng, các Đảng bộ phường trực tiếp đưa
đường lối của Đảng đến với quần chúng và lãnh đạo, tổ chức quần chúng
thực hiện thắng lợi đường lối ấy. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới các
Đảng bộ phường cần phải tăng thêm số đảng viên trẻ, thông qua đó Đảng

hoạt động "ăn sâu", "bám chắc" rộng rãi trong các khu dân cư, nắm bắt
thông tin, dư luận, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của quần
chúng để phản ánh và tham gia cùng cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên kịp
16
thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, thúc đẩy các phong trào của phường,
của thành phố và cả nước. Đồng thời, trực tiếp tiến hành công tác tuyên
truyền, cổ động, giáo dục, thuyết phục, tổ chức quần chúng quán triệt, thực
hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,
các chương trình, kế hoạch công tác của cấp trên và của cấp mình nhằm
mục tiêu ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, nâng cao đời
sống các tầng lớp nhân dân trên địa bàn phường.
Hai là, làm tốt CTPTĐV trong thanh niên sẽ góp phần trẻ hóa Đảng,
khắc phục sự bất hợp lý trong kết cấu độ tuổi và năng lực lãnh đạo của
ĐNĐV đang sinh hoạt và làm việc tại phường. Mặt khác, việc chú trọng
CTPTĐV trong thanh niên ở phường, ở tổ dân phố sẽ tạo ra được những
hạt nhân cho phong trào quần chúng ở cơ sở. Sự tiếp cận và chà xát của đời
sống thị trường sẽ tạo cho Đảng những cán bộ có đủ năng lực và tính nhạy
bén để hiểu được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, cũng như giúp Đảng
tìm được phương sách tốt nhất để hiện thực hóa chủ trương, đường lối của
mình. Làm được như vậy thì sẽ khắc phục được tình trạng xa dân, xa thực
tế mà nhiều chi bộ, đảng bộ ở phường đang mắc phải.
Ba là, tăng cường CTPTĐV trong thanh niên ở phường sẽ nâng cao
trình độ trí tuệ cho Đảng bộ phường và góp phần củng cố khối liên minh
công - nông - trí thức đang công tác, sinh hoạt, nghỉ hưu tại phường.
Xu thế của thời đại ngày nay là phát triển mạnh về khoa học, kỹ
thuật và công nghệ. Lực lượng sản xuất ngày càng chứa đựng hàm lượng trí
tuệ cao, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nghị quyết Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương 2 (khóa VIII) chỉ rõ: chỉ bằng con đường
CNH, HĐH, phát triển khoa học - công nghệ mới có thể đưa nước ta từ
nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh. Giai cấp công

nhân muốn thực hiện được sứ mệnh của mình trong điều kiện hiện nay tất
yếu phải được trí tuệ hóa. ĐCSVN với tư cách là đội tiên phong của giai
17
cấp công nhân, của xã hội cần phải được nâng cao năng lực trí tuệ. Nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng hiện nay là lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Quá trình này đòi hỏi một cách khách quan Đảng
phải nâng cao trình độ trí tuệ từ trung ương đến cơ sở. Vì thế, ĐNĐV ở
phường - những tế bào của Đảng không chỉ có đạo đức trong sáng mà còn
phải có tri thức, trí tuệ cao, thể lực dồi dào. Có như vậy quần chúng và cán
bộ ở cơ sở mới thực sự yên tâm và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ.
Bốn là, làm tốt CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn dân cư sẽ có
cơ sở tạo nguồn cán bộ cho Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở phường.
Làm tốt CTPTĐV ở các Đảng bộ phường là quá trình xây dựng một
lực lượng kế tục sự nghiệp vẻ vang của Đảng và bảo đảm chắc chắn cho sự
thành công của cách mạng nước ta. Quá trình đó sẽ làm cho Đảng ta trưởng
thành về mọi mặt nâng cao sức chiến đấu, làm cho Đảng luôn phát triển,
tăng cường ảnh hưởng của Đảng đến các đối tượng dân cư ở phường vốn
đa dạng, phức tạp hiện nay.
1.2. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN
ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ PHƯỜNG Ở ĐÀ NẴNG
1.2.1. Tình hình, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội các
phường ở Đà Nẵng và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ phường hiện
nay
1.2.1.1. Tình hình, đặc điểm các phường
Là một trọng điểm của vùng kinh tế miền Trung, Đà Nẵng liền kề
với khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất. Với lợi thế về cơ
sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, nhà ga, bệnh viện,
trường học... tương đối tốt; có cảng nước sâu tiếp nhận tàu vận tải và tàu du
lịch cỡ lớn, có sân bay quốc tế, quốc lộ 14 B với cảng Tiên Sa, đầu mối của
đường xuyên Á, nối liền biển Đông nước ta với Lào, Thái Lan và các nước

18
Đông Nam Á. Đà Nẵng lại nằm giữa quần thể di sản văn hóa thế giới gồm
cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu di tích Mỹ Sơn, nên có nhiều lợi thế so
sánh và điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển công
nghiệp, cảng biển, thương mại dịch vụ, du lịch và nhiều ngành nghề truyền
thống khác.
Ngày 1/1/1997 Đà Nẵng đi vào hoạt động theo cơ chế mới trực
thuộc Trung ương, tiếp đó ngày 23/10/1997, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Điều 1 của Quyết định
đã xác định rõ mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội thành phố
đến năm 2010:
Thành phố Đà Nẵng là một trong những trung tâm vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung và của cả nước. Từng bước phát
triển thành phố trở thành hiện đại, liên kết chặt chẽ về qui hoạch,
kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội với các tỉnh miền Trung để thúc
đẩy quá trình CNH, HĐH và bảo vệ môi trường, góp phần cùng
cả nước mở rộng hợp tác, nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế
nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế.
Thành phố Đà Nẵng gồm 33 phường, 14 xã, số phường nhiều gấp
2,5 lần số xã. Theo số liệu thống kê dân số đến năm 2000 là 730.000 người,
phân bố không đều giữa năm quận nội thành. Phường là đơn vị hành chính
cơ sở ở nội thành, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố. Một số
phường ở Đà Nẵng được nâng cấp từ xã lên, có phường dân số động, diện
tích hẹp, mật độ dân số cao (phường Hải Châu 2 mật độ dân số 43.866
người/km
2
). Dân số, ngành nghề ở phường thường xuyên biến động do sự
thay đổi, di dân, di chuyển, công tác... các phường ở trung tâm thành phố là
nơi tập trung nhân lực, cơ sở vật chất, các loại hình văn hóa, xã hội, an
ninh, chính trị tương đối phức tạp.

19
Về kinh tế 33 phường ở Đà Nẵng là nơi tập trung các hoạt động
thương mại, kinh doanh, dịch vụ, văn hóa xã hội... nên tốc độ phát triển
kinh tế nhanh. Những năm qua, nhờ xác định đúng cơ cấu kinh tế là công
nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đoàn
kết một lòng vượt qua khó khăn, phát huy tiềm năng, lợi thế nên đã đạt
được bước phát triển tương đối toàn diện.
Về chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng, ý thức được sự ổn định
chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới;
nền tảng để duy trì ổn định chính trị - xã hội là tập trung phát triển kinh tế,
từng bước nâng cao đời sống nhân dân, Đảng bộ các phường ở Đà Nẵng
chú trọng và dành nhiều công sức cho sự phát triển các lĩnh vực xã hội đã
tạo nên bước chuyển mới trên các mặt: Thành phố hoàn thành sớm việc
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, là địa phương thứ hai sau Hà Nội
được công nhận đạt chuẩn quốc gia phổ cập trung học cơ sở. Số học sinh
các cấp học, ngành học tăng nhanh hàng năm, nhất là ở trung học cơ sở và
phổ thông trung học. Hiện nay thành phố đã có 33/33 phường được công
nhận chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học, xóa mù chữ và phổ cập trung học
cơ sở.
Bằng nhiều hình thức và phương cách, trong 5 năm qua thành phố
đã tạo việc làm cho 7.780 vạn người, bình quân mỗi năm giải quyết việc
làm ổn định cho 1,55 vạn lao động trong các thành phần kinh tế. Năm
2001, thành phố đã cơ bản xóa hộ đói, và giảm số hộ nghèo xuống còn
5,1% (theo chuẩn mới), đời sống dân cư thành thị được nâng lên đáng kể,
đặc biệt là các hộ chính sách có mức sống trung bình so với khu vực. Đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" được các
tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và đạt kết quả tốt.
20
Công tác vận động quần chúng, cải cách hành chính, xây dựng chính

quyền, xây dựng Đảng thường xuyên được tăng cường. Qui chế dân chủ
được triển khai đến các loại hình cơ sở; thực hiện cơ chế "một cửa" trong các
dịch vụ bước đầu đạt kết quả tốt. Việc tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu
nại, tố cáo được tổ chức tốt (không có tồn đọng). Vai trò, chất lượng và
hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp được nâng cao.
Những thành tựu đổi mới của Đà Nẵng trong gần 6 năm qua là kết
quả của quá trình nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân thành phố, đã và đang tạo ra thế và lực mới để Đà Nẵng tiếp tục phát
triển. Tuy nhiên, sự phát triển đó chỉ mới bước đầu, chưa tương xứng với
tiềm năng và thế mạnh của Đà Nẵng. Muốn trở thành trung tâm công nghiệp,
thương mại dịch vụ, du lịch, văn hóa, khoa học kỹ thuật của miền Trung,
các Đảng bộ phường Đà Nẵng phải giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
1.2.1.2. Nhiệm vụ chính trị của các Đảng bộ phường
Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII (tháng 2 năm 2001)
đề ra phương hướng chung là:
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương
châm "phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt", tăng
cường khối đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác
mọi nguồn lực bên ngoài, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển
nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển
về văn hóa và khoa học công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ
thống chính trị vững mạnh, dân trí ngày càng được nâng cao, cảnh quan
thiên nhiên, môi trường đô thị lành mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là
một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của
miền Trung và cả nước [3, tr. 41].
21
Từ phương hướng chung và mục tiêu cụ thể từ năm 2001 đến năm
2005, 33 Đảng bộ có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, xác định chủ trương, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng...và lãnh đạo thực hiện các chủ trương đó ở phường trên

cơ sở quán triệt, chấp hành nghiêm chỉnh các nghị quyết, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
Hai là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng trong các tầng lớp nhân
dân, phát huy truyền thống yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội;
xây dựng tinh thần làm chủ, đoàn kết, gắn bó yêu thương giúp đỡ nhau
trong cộng đồng dân cư. Làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các chủ
trương, nhiệm vụ của thành phố, quận và phường.
Ba là, lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền, đoàn thể nhân dân,
đơn vị kinh tế sự nghiệp ở phường; xây dựng và thực hiện qui hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tổ chức đó. Cấp ủy phường quyết
định các vấn đề về tổ chức Đảng và quản lý cán bộ theo phân cấp.
Bốn là, Đảng bộ phường lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ của mỗi đoàn thể, phát huy
quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham
gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, trước hết là những chủ trương, chính sách về xây dựng
và quản lý đô thị, giải quyết việc làm và các chính sách xã hội khác.
Năm là, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, thực hiện
đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Thường xuyên làm tốt công tác
tạo nguồn và phát triển đảng viên mới đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc, thủ tục,
coi trọng chất lượng, bảo đảm số lượng. Chú trọng phát triển đảng trong
22
đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nhất là những đoàn viên
ưu tú đang công tác, sinh hoạt tại cụm dân cư, tổ dân phố.
1.2.2. Đặc điểm các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
Một là, Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là sự đa dạng về loại hình các
chi bộ, trong đó chiếm số đông là chi bộ tổ dân phố. Các Đảng bộ phường
ở Đà Nẵng phân bố không đều giữa 5 quận nội thành.

Biểu 1.1: Phân bố Đảng bộ, chi bộ và số đảng viên
ở các quận trong thành phố
Quận
Tổng số Đảng bộ
cơ sở (phường)
Tổng số
Chi bộ
Tổng số
đảng viên
1. Hải Châu
2. Sơn Trà.
3. Thanh Khê.
4. Liên Chiểu.
5. Ngũ Hành Sơn
12
7
8
3
3
211
98
121
49
54
4.498
1.574
2.373
882
898
Tổng cộng 33 533 10.222

Nguồn: Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng.
Theo số liệu thống kê đến tháng 12/2002 cho thấy, số lượng đảng bộ
cơ sở và chi bộ giữa các quận chênh nhau đáng kể, chủ yếu tập trung ở trung
tâm thành phố, còn những địa bàn mới thành lập thì tổ chức Đảng còn ít,
nhất là hai quận Liên Chiểu và Ngũ Hành Sơn. Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
bao gồm nhiều loại chi bộ, nhưng có thể phân ra thành hai loại. Loại thứ
nhất là những chi bộ được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn như:
công an, khối Ủy ban nhân dân và văn phòng, trường học (mẫu giáo, tiểu
học và trung học cơ sở), hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ... Đây là những chi bộ quan trọng nhất, đa số đảng viên còn trẻ, đang
tham gia công tác trên các lĩnh vực của phường và thường giữ các cương vị
chủ chốt. Loại thứ hai là những chi bộ gồm đa số đảng viên đã về hưu hoặc
23
mất sức lao động. Toàn thành phố Đà Nẵng hiện có 261 khối phố, 2275 tổ
dân phố, tất cả các phường đều thành lập theo khối phố. Trong đó:
+ Khối phố có 1 chi bộ: 226 khối phố.
+ Khối phố có 2 chi bộ: 17 khối phố.
+ Khối phố có 3 chi bộ: 11 khối phố.
+ Khối phố có 4 chi bộ: 3 khối phố.
+ Khối phố có 5 chi bộ: 2 khối phố.
+ Khối phố có 6 chi bộ: 1khối phố.
+ Khối phố có 7 chi bộ: 1 khối phố.
Hai là, các Đảng bộ phường có số lượng đảng viên đông, trình độ
mọi mặt của đảng viên tương đối cao nhưng không đều, phần lớn là đảng
viên hưu trí. Những chức vụ đảng chủ chốt hầu hết do đảng viên là cán bộ
hưu trí đảm trách.
Hiện nay đảng viên đang sinh hoạt tại 33 phường ở Đà Nẵng rất đa
dạng và không đồng đều. Ngoài số đảng viên trẻ "đương chức" - nòng cốt
của các đảng bộ đang giữ trọng trách tại các cấp ủy, Ủy ban nhân dân
phường, trường học, trạm xá, đồn công an, hợp tác xã thủ công nghiệp,

thương mại, dịch vụ... còn lại là đảng viên hưu trí, mất sức lao động.
Trên địa bàn phường ở Đà Nẵng, hiện tại có ba lực lượng cán bộ: cán
bộ đương chức ở phường, cán bộ hưu trí và cán bộ thuộc các cơ quan đơn vị
do cấp trên quản lý cư trú ở phường. Đội ngũ cán bộ công tác tại phường hiện
nay gồm các đối tượng như: cán bộ theo qui định tại Nghị định 09/1998/NĐ-
CP; cán bộ cấp phó Mặt trận và cấp phó các đoàn thể; cán bộ chuyên trách
về: xóa đói giảm nghèo, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm
sóc trẻ em, văn hóa thông tin; cán bộ hợp đồng (hiện có 206, trong đó 188
do quận, huyện, phường, xã hợp đồng và trả lương từ ngân sách của quận,
24
huyện, xã, phường). Tổng số cán bộ phường, xã theo Qui định
09/1998/NĐ-CP có mặt đến cuối năm 2002 là 983 người. So với trước đây,
đội ngũ này đều được trẻ hóa, chất lượng ngày càng được nâng cao, số
đông được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý nhà nước, lý luận
chính trị. Cụ thể:
- Học vấn: Trung học cơ sở: 3%; Trung học phổ thông: 79,8%.
- Chuyên môn: Đại học 9,8%; cao đẳng, trung cấp: 18,4%; sơ cấp: 0,8%.
- Lý luận chính trị: cao cấp: 4,15%; trung cấp: 41,1%; sơ cấp: 10,9%.
- Quản lý nhà nước: trung cấp 27,2%; bồi dưỡng: 17,7%.
Riêng đối với cán bộ thuộc 4 chức danh chuyên môn ở phường (Tư
pháp - Hộ tịch, Văn phòng - Thống kê tổng hợp, Địa chính, Tài chính - Kế
toán) được thành phố tạo điều kiện bồi dưỡng kiến thức luật, quản lý nhà
nước, tin học... nhằm đáp ứng tiêu chuẩn theo qui định. Đến nay đã có
106/186 cán bộ đủ tiêu chuẩn về chuyên môn (tỷ lệ 57%). Tuy vậy, ĐNĐV
là cán bộ ở phường có tuổi đời bình quân cao, phần lớn là cán bộ, bộ đội
nghỉ hưu, trình độ mọi mặt còn bất cập so với yêu cầu thực tiễn. Nhiều cán
bộ ngại học tập, không muốn tham gia công tác Đảng, đoàn thể xảy ra khá
phổ biến ở phường, cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp. Một số đảng
viên thiếu tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh những công việc phức
tạp, không kiên quyết đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải. Đặc biệt nghiệm

trọng là tình trạng đảng viên ở phường có chức, có quyền, nắm tiền, nắm
luật pháp, được giao xử lý các công việc liên quan đến sản xuất và đời sống
của dân đã cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, đòi hối lộ, đút lót... khiến
nhân dân oán thán, ngại và xa lánh cơ quan nhà nước.
1.2.3. Đặc điểm thanh niên trên địa bàn dân cư
Tính đến tháng 9/2002, tổng số thanh niên của thành phố Đà Nẵng
là 219175 người, tăng 21.841 người so với năm 1997, chiếm 31% dân số và
25

×