Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.77 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN ANH VĂN

PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2017


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN ANH VĂN

PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VIẾT QUANG



Nghệ An, 2017


2
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài Luận văn này tơi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến PGS.TS Trần Viết Quang, người đã rất tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi kể từ
khi nhận đề tài cho đến khi Luận văn hoàn thành một cách chu đáo. Tôi xin chân
thành cám ơn quý Thầy, Cô giáo trong Khoa Chính trị học, Trường Đại học Vinh
đã tận tình dạy dỗ, giúp tơi trong q trình học tập.
Lời cuối tơi xin gửi tới mọi người những tình cảm chân thành nhất vì sự động
viên, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và hồn thành Luận văn.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thời gian vừa học vừa làm và năng lực có
hạn nên Luận văn khơng tránh khỏi nhiều khuyết điểm, kính mong q Thầy Cơ,
bạn đọc chân thành góp ý kiến để tác giả rút kinh nghiệm, hồn thành cơng trình ở
các cấp độ cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 10 tháng 06 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Anh Văn


3
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ .............................................................................................

1


Lời cảm ơn .................................................................................................. 2
Mục lục........................................................................................................

3

A. MỞ ĐẦU ............................................................................................... 4
B. NỘI DUNG ............................................................................................ 13
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC.......................................................................................................... 12
1.1. Tham nhũng và những hình thức tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nước............................................................................................. 12
1.2. Tính tất yếu phịng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà
nước.............................................................................................................. 21
1.3. Nguyên tắc, phương thức và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cơng
tác phịng chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước.................. 33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH
Ở TỈNH LONG AN................................................................................... 45
2.1. Khái quát về tỉnh Long An và các cơ quan hành chính cấp tỉnh ở tỉnh
Long An....................................................................................................... 45
2.2. Tình hình tham nhũng qua các vụ việc điển hình tại các cơ quan
hành chính cấp tỉnh ở tỉnh Long An............................................................

49

2.3. Cơng tác phịng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính
nhà nước cấp tỉnh tại tỉnh Long An thời gian qua.......................................


52


4
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH Ở TỈNH LONG AN………. 76
3.1. Quan điểm nâng cao cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong
các cơ quan hành chính cấp tỉnh ở Long An……………………………..
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong 76
cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Long An…………………………... 82
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 97
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................

99


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và
sự điều hành của nhà nước, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên
nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị và ngoại giao,… được nhân dân tin tưởng,
hưởng ứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và
thách thức, một trong những nguy cơ cản trở cơng cuộc đổi mới đất nước ta chính
là tệ nạn tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí đã gây thiệt hại lớn về tài sản
của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm hại
trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm xói mịn lịng tin của nhân dân, là nguy
cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham

nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm
ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã đạt được kết quả bước
đầu. Tuy nhiên nạn tham nhũng vẫn diễn ra hết sức phổ biến, ngày càng tinh vi, xảo
quyệt ở nhiều cấp, nhiều ngành. Thậm chí, tham nhũng đã ăn sâu vào tư duy và tác
phong làm việc hàng ngày của một số cán bộ, công chức, làm giảm hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước, gây bất bình trong nhân dân làm cho nhân dân hồi nghi,
giảm lịng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Tính
nghiêm trọng và sự nguy hại của tham nhũng đã được Đảng ta đề cập một cách sâu
sắc và toàn diện trong các văn kiện như: Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9-12-2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khố IX) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của cán bộ, nhân dân”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng
chống tham nhũng, lãng phí” (Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21 tháng 8 năm
2006)... Các Nghị quyết của Đảng đều đánh giá thực trạng tham nhũng hiện nay


6
đang diễn biến phức tạp với tính chất nghiêm trọng, xác định phòng, chống tham
nhũng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải kiên quyết, kiên trì, liên tục mới
có thể loại trừ vấn nạn này. Vì vậy, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã tiến
hành cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng quyết liệt như: Tại kỳ họp thứ 8
ngày 29/11/2005, Quốc hội khoá XI đã thơng qua Luật Phịng chống tham nhũng
(được sửa đổi, bổ sung một số điều của luật số 01/2007/QH12 và Luật số
27/2012/QH13) trong đó quy định cụ thể các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi tham nhũng. Ngay sau khi có luật này, Chính phủ đã chỉ đạo các
cấp, các ngành quán triệt nội dung của luật, đồng thời chỉ đạo các cơ quan chức
năng phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tập trung tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thủ tướng Chính phủ cũng yêu
cầu các bộ, ngành và địa phương tiến hành kế hoạch quán triệt, tuyên truyền Luật

Phòng chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và mọi tầng lớp nhân
dân, đồng thời ban hành nhiều chỉ thị nhằm tăng cường cơng tác phịng chống tham
nhũng; Xây dựng “Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020”.
Những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đã mang lại những kết quả nhất
định trong đấu tranh phòng chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Nhiều vụ
tham nhũng lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng đã bị phát hiện, xử lý kịp thời.
Nhà nước thu hồi lại được hàng ngàn tỉ đồng tiền vốn thất thoát. Nhân dân, các cơ
quan truyền thông, các Bộ, Ban, Ngành cùng vào cuộc để vạch trần các hành vi
tham nhũng, lãng phí của cán bộ, cơng chức. Lịng tin của Nhân dân vào chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và sự nghiêm minh của pháp luật đã được
cải thiện...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tình hình tham nhũng ở
một số nơi vẫn diễn ra phức tạp, với tính chất tinh vi, gây hậu quả vơ cùng nghiêm
trọng tại Báo cáo số 80-BC/BCĐTW ngày 15/5/2014 của Ban Chỉ đạo Trung ương
về phịng chống tham nhũng “Tình hình, kết quả cơng tác phịng chống tham nhũng


7
năm 2013 đến nay; phương hướng, nhiệm vụ công tác thời gian tới”; Văn bản số:
116-TB/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ban
hành ngày 14-5-2015; thơng báo Kết luận của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng
Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương... đã nghiêm khắc, thẳng thắn thừa nhận
những hạn chế, tồn tại trong cơng tác này như: Cơng tác phịng chống tham nhũng,
lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, gây bức xúc
trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Tình hình tội phạm tham nhũng tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Phạm vi tham
nhũng ngày càng rộng, tính chất nghiêm trọng, xảy ra ở nhiều ngành, nhiều cấp,
trong hầu hết các lĩnh vực; quy mô các vụ tham nhũng ngày càng lớn; tính chất
tham nhũng ngày càng phức tạp, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo quyệt...Đã đến lúc

chúng ta phải nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ, những tác hại và biến quyết tâm
chính trị thành những biện pháp cụ thể để ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn tham nhũng.
Long An cũng chung tình trạng như cả nước. Hơn nữa, Long An là tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Do vị thế thuận lợi và chính sách hợp lý
nên có nhiều cơ hội thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế -xã hội. Trong xu thế hội
nhập chung của cả nước, Long An cũng đẩy mạnh phát triển các khu, cụm công
nghiệp, làm cho nền kinh tế của tỉnh phát triển mạnh. Cơ sở hạ tầng ngày càng
được củng cố và mở rộng; nhiều dự án, cơng trình xây dựng được thực hiện; việc
sang nhượng chuyển đổi quyền sử dụng đất, tranh chấp đất cũng phát sinh; công tác
kê biên, thu hồi đất cũng còn nhiều bất cập đã làm phát sinh khiếu nại, tố cáo...;
những vấn đề trên đã làm tiềm ẩn điều kiện thuận lợi phát sinh tham nhũng, nhất là
tham nhũng trong các cơ quan hành chính của Nhà nước. Vì thế, nghiên cứu đề tài
"Phịng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên
địa bàn tỉnh Long An" mang tính cấp bách.


8
Ở việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về tham nhũng của nhiều học giả như: Đề tài khoa học cấp Bộ: “Tham
nhũng và phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư ở Việt Nam” do Tiến sĩ Đinh
Văn Minh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra Chính Phủ làm chủ nhiệm đề
tài, nhiệm thu ngày 23/9/2015 nghiên cứu: Phòng, chống tham nhũng trong khu vực
tư ở Việt Nam như: chống hối lộ đối với cả 3 hành vi: đưa hối lộ, môi giới hối lộ và
nhận hối lộ; nâng cao nhận thức, phát huy vai trò của doanh nghiệp, các hiệp hội
ngành nghề và của toàn xã hội trong phòng, chống tham nhũng; gắn phòng, chống
tham nhũng trong khu vực tư với phòng, chống tham nhũng trong khu vực công;
tạo cơ chế phát huy mạnh mẽ tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân gắn với
tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp; hoàn thiện thể chế kinh doanh minh bạch, cạnh tranh lành mạnh; xây dựng
văn hóa kinh doanh, văn hóa ứng xử trong nội bộ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần

khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện quy tắc kinh doanh không
tham nhũng, không hối lộ, chống xung đột lợi ích...
Trong các cơ sở đào tạo cũng đã có một số luận văn nghiên cứu về tham
nhũng, lãng phí như luận văn: "Một số giải pháp chống thất thốt, lãng phí trong
đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
ĐakLak", của Trần Tuấn Anh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2015 và
luận văn: “Giải pháp phịng, chống thất thốt, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hóa", của Nguyễn Thị Ngân Hà, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2015.
- “Tham nhũng cũng có sứ mệnh” Ban nội chính Trung ương Thứ Năm,
13/10/2011 cập nhật lúc 10:37 viết: Chức quyền càng cao đặc quyền tham nhũng
càng lớn. Do đó mới có tham quyền cố vị - mới có sâu dân mọt nước. Ở đây, xin
giới thiệu quá trình đại phẫu Kẻ Tham Nhũng, với mục đích tìm hiểu làm sao để có
thể lần đầu tiên chúng ta chứng minh cho nhân loại biết.


9
Tham nhũng, chẳng những không thể chống hay tiêu diệt (bởi vì chống
tham nhũng thì cũng là quan chức) mà cịn là một loại vũ khí “Mơi trường” (nên
đăng ký sở hữu trí tuệ!), dành cho mục đích ích nước lợi nhà. Kết quả đại phẫu Kẻ
Tham Nhũng cho thấy những khả năng, tinh thần và phẩm chất vô giá của nó.
“Tham nhũng quyền lực”, Báo điện tử kinh tế Sài Gịn ngày 25/6/2016, cập
nhật lúc 11:56 viết: Nói đến tham nhũng phần đông mọi người nghĩ ngay đến tiền vàng - đơ la, những món có thể trao tay nhanh chóng dễ dàng. Chính vì thế mới có
người đề nghị từ nay chỉ in tiền có mệnh giá nhỏ, dưới 20.000 đồng như một biện
pháp chống tham nhũng.
Tuy nhiên, chính tham nhũng quyền lực mới là một dạng tham nhũng phổ
biến nhất, ở nhiều tầng nấc nhất và cũng khó chống nhất.
Trong các vụ việc cha bổ nhiệm con hay nói cho đúng cha tạo điều kiện để
con được bổ nhiệm vào những vị trí rồi cũng có quyền lực thì dù cho có đúng quy
trình, dù luật pháp chưa lường hết để ngăn chặn thì các vụ việc như thế chính là

biểu hiện của sự tham nhũng quyền lực...
Trên thế giới cũng có các cơng trình nghiên cứu của tổ chức minh bạch
quốc tế (Transparency International), Ngân hàng thế giới (World Bank). Ở Việt
Nam đã nhiều học giả, nhà chính trị quan tâm đến vấn đề nhạy cảm này và đã có
nhiều bài viết trên các phương tiện thơng tin đại chúng như:
- "Kinh nghiệm phịng chống tham nhũng của Singapo", của Trần Anh Tuấn,
Ban Nội chính Trung ương, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2007; cho
thấy một bộ máy hành chính kém hiệu quả sẽ là một bộ máy đậm mầu sắc quan
liêu, thủ tục rườm rà, phiền nhiễu, có nhiều kẽ hở cho Cán bộ, cơng chức lợi dụng
nhận hối lộ và bịn rút cơng quỹ khi đồng lương ít ỏi. Vì vậy, đi đơi với việc cải
cách hành chính cần phải đảm bảo mức lương tốt cho quan chức thì sẽ giảm rất


10
nhiều cơ hội tham nhũng bởi nếu quan chức có lương cao thì họ sẽ khơng dại gì
nhận một khoản tiền hối lộ nào đó để rồi mất đi tất cả.
Có thể nói, cuộc chiến chống tham nhũng ở Singapore chưa phải là kết thúc
hoàn hảo, nhưng trên thực tế tham nhũng đã nằm trong sự kiểm sốt của chính phủ
nước này; và chính điều đó là một trong những yếu tố tạo dựng niềm tin của xã hội
và các thành phần doanh nghiệp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế bền vững của
Singapore.
- “Tham nhũng ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm về cải cách chế độ
cán bộ”, Tạp chí tổ chức chính trị điện tử ngày 18/06/2015 cập nhật lúc 02:00 viết:
Tham nhũng là một trong những chủ đề đáng chú ý nhất của quá trình phát triển
kinh tế - chính trị thời cận đại.
Những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, có ý nghĩa thực tiễn đối với
nước ta trong q trình đấu tranh phịng, chống tham nhũng. Chúng ta có thể
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tế trong nước. Đảng, Nhà nước
và cả hệ thống chính trị Việt Nam kiên quyết chặn đứng, đẩy lùi và từng bước loại
trừ tệ nạn tham nhũng, làm cho Đảng trong sạch, Nhà nước vững mạnh, giữ vững

niềm tin của quần chúng nhân dân, xây dựng thành cơng chủ nghĩa
Các cơng trình này đã phân tích, làm rõ bản chất của tệ tham nhũng và
những biểu hiện phức tạp của nó; phân tích thực trạng, lí giải nguyên nhân và đề
xuất một số giải pháp phịng chống tham nhũng. Khơng những thế, các tác giả đều
nhấn mạnh việc cần thiết, tất yếu phải đẩy mạnh cơng tác giáo dục ý thức phịng
chống tham nhũng trong tồn xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có cơng trình
nào đi sâu nghiên cứu về cơng tác phịng, chống tham nhũng trong cơ quan hành
chính nhà nước.
Chính vì những lý do như vậy, lựa chọn đề tài phòng, chống tham nhũng
trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Long An” tôi mong


11
muốn đề xuất được những giải pháp phù hợp để góp phần nâng cao hiệu quả cơng
tác phịng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên địa
bàn tỉnh Long An nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và phân tích thực trạng tham những, phòng
chống tham nhũng hiện nay, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác phịng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh
trên địa bàn tỉnh Long An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận của cơng tác phịng, chống tham nhũng trong cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng cơng tác phịng, chống tham nhũng trong cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Long An.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống
tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Long
An.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơng tác phịng, chống tham nhũng các cơ quan hành chính nhà
nước cấp tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề về phòng, chống tham nhũng
qua khảo sát ở một số cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Long An.
- Về thời gian: Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng cơng tác phịng chống
tham nhũng từ năm 2014 đến nay và đề xuất giải pháp phòng, chống tham nhũng


12
trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới (tài liệu chủ yếu từ khi Luật Phịng, chống
tham nhũng có hiệu lực thi hành 01/6/2006),
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết
học Mác - Lênin và các quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về
phịng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các phương pháp khoa học chủ yếu được vận
dụng trong Luận văn gồm: Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu; phương pháp
phân tích, tổng hợp; Phương pháp lịch sử - lơgic; phương pháp khảo sát thực tế.
6. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lí luận về cơng tác phịng,
chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh.
- Về thực tiễn:
+ Nghiên cứu cụ thể thực trạng và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh
nghiệm về cơng tác phịng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp tỉnh trong thời gian qua; đề xuất những giải pháp cụ thể, sát thực và khả thi
nhằm nâng cao cơng tác phịng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà
nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Long An trong thời gian tới.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong chỉ đạo và tổ chức

thực hiện cơng tác phịng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà
nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng trong phạm vi cả nước nói
chung.
7. Kết cấu của luận văn


13
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


14
B. NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Tham nhũng và những hình thức tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nước
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Theo Từ điển tiếng Việt: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để lấy tiền của
và nhũng nhiễu dân” [55, tr.714].
Liên Hiệp Quốc định nghĩa về tham nhũng như sau: “Tham nhũng đó là sự
lạm dụng quyền hạn nhà nước để trục lợi cho mục đích cá nhân” [32, tr.8].
Ngày 29/11/2005, Luật Phịng, chống tham nhũng được Quốc hội nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua. Trong đó,
tại Khoản 2, Điều 1 của luật này quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [47, tr.8]. Như
vậy, theo pháp luật nước ta thì tham nhũng có những đặc trưng cơ bản sau:
Chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng phải là người có chức vụ, quyền
hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, cơng chức, viên chức; sĩ

quan, quân nhân Chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
Chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là
người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao
thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ
đó [47, tr.8].


15
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ,
quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia
đình mình hoặc cho người khác. Đây chính là yếu tố cơ bản để xác định hành vi
tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
vì động cơ vụ lợi nhưng hành vi đó khơng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thì khơng
thể coi là hành vi tham nhũng.
Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi
ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được
hoặc có thể đạt được thơng qua hành vi tham nhũng. Lợi ích đó có thể là cho mình,
cho gia đình mình hoặc người thân của mình.
Trên thực tế, hành vi tham nhũng được biểu hiện rất đa dạng dưới nhiều
hình thức khác nhau, theo quy định của Bộ Luật Hình sự và Luật Phịng chống
tham nhũng thì những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
1. Tham ô tài sản.
2. Nhận hối lộ.
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi.
5. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.

7. Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi.
8. Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết cơng việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi.


16
10. Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
11. Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
12. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi [47, tr.9-10].
Tóm lại, theo quy định của pháp luật thì tham nhũng là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, tính nguy hiểm của hành vi này thể hiện ở chỗ nó phương hại đến lợi
ích xã hội, là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mịn lịng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được mối hiểm họa từ loại hành vi nguy hiểm này,
Bộ Luật Hình sự năm 1999 đã dành riêng 01 chương quy định về các tội phạm về
chức vụ trong đó 01 mục (mục A) với 07 điều luật quy định về các tội phạm tham
nhũng và 01 mục (mục B) với 07 điều luật quy định về các tội phạm khác về chức
vụ, với chế tài hết sức nghiêm khắc.
Ngoài ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc mơi giới hối lộ cho cơng chức
nước ngồi, cơng chức của tổ chức quốc tế cơng, người có chức vụ trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngồi Nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội môi giới
hối lộ theo quy định của Bộ Luật Hình sự. Quy định này nhằm góp phần tăng
cường đấu tranh phịng, chống tham nhũng, đồng thời, cũng để thực thi Công ước
về chống tham nhũng mà nước ta là thành viên.
Quá trình tiến hành các nghiên cứu về tham nhũng ở các nước trên thế giới
và Việt Nam cho thấy, tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ

tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền
lực nhà nước và các quyền lực công cộng khác. Tham nhũng hiện hữu ở tất cả các
quốc gia, ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Ở nước ta, tại Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tháng 6 năm 1992 đã đánh giá:


17
“Tệ tham nhũng, hối lộ, ăn chơi phung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và
kéo dài. Những hiện tượng đó gây tác hại rất lớn, làm tổn hại thanh danh của Đảng”
[16, tr.26]. Tháng 01 năm 1994, Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố
VII vẫn đánh giá tham nhũng và suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận
cán bộ, đảng viên đang ở mức độ nghiêm trọng có thể phương hại cho bộ máy của
Đảng và Nhà nước. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị suy yếu,
xói mịn. Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định rằng
tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân
dân. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân và
là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Nghị quyết số 04/NQ-TW
ngày 21 tháng 8 năm 2006 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phịng, chống
tham nhũng, lãng phí tiếp tục nhấn mạnh: “Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra
nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất
phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một
trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” [17, tr.50-67].
Có rất nhiều nguyên nhân lý giải về tình trạng đó, trong đó có ngun nhân chủ
quan lẫn nguyên nhân khách quan:
- Nguyên nhân khách quan:
Quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn tại và đen xen giữa cái mới và cái cũ, các
chuẩn mực giá trị khơng rõ ràng tạo điều kiện cho khơng ít đối tượng lợi dụng danh

nghĩa đổi mới, năng động, sáng tạo để chiếm đoạt tài sản nhà nước, lợi dụng chủ
trương xã hội hóa một số lĩnh vực để "thương mại hóa", thu lợi ích tối đa cho cá
nhân hoặc một nhóm người, thậm chí một cơ quan, đơn vị hay một địa phương.


18
Ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá
mức giá trị đồng tiền làm cho người sản xuất kinh doanh có xu hướng tối đa hóa lợi
nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh
doanh. Trong kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các giá
trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều bị sức ép của việc kiếm thật nhiều tiền, xuất
hiện tâm lí mọi việc đều có thể mua bán.
Do ảnh hưởng của tập quán văn hóa, một số nét văn hóa như "miếng trầu là
đầu câu chuyện", đạo lí "ăn quả nhớ người trồng cây"… đã và đang bị lợi dụng để
thực hiện hành vi tham nhũng.
- Nguyên nhân chủ quan
Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động của bộ máy nhà nước kém
hiệu quả. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém và bất cập của
quá trình đổi mới đất nước dẫn đến phát sinh tham nhũng.
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thối, cơng tác
quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém. Điều này đã được đánh giá trong
nhiều văn kiện của Đảng.
Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán,
việc phân cấp quản lí giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lí nhà nước
và quản lí sản xuất kinh doanh có phần chưa rõ. Q trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm sốt chặt chẽ. Cơ chế quản lí
tài sản cơng, quản lí vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước cịn lỏng lẻo.
Cải cách hành chính vẫn cịn chậm và lúng túng, cơ chế "xin - cho" trong
hoạt động cơng vụ vẫn cịn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp
lí. Cơ chế "xin - cho" là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ chưa

có cách khắc phục. Bên cạnh đó, chế độ cơng vụ của cán bộ, cơng chức mới bắt đầu
được quan tâm xây dựng, hiện tại còn thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả.


19
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với cơng tác phịng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên, việc xử lí tham nhũng
chưa nghiêm.
Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống
tham nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể,
hữu hiệu.
Thiếu các công cụ phát hiện và xử lí tham nhũng hữu hiệu. Những năm qua
hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết
quả tích cực, nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực
lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa được quan tâm đúng mức.
Báo chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia
phát hiện và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ địi xử lí tham nhũng. Vì những lý do
khác nhau mà một số cơ quan cịn e ngại trước sự tham gia của báo chí, hoặc là vì bản
thân sự thơng tin đơi khi khơng chính xác hoặc khơng đúng thời điểm đã gây khó khăn
cho việc phát hiện và xử lí triệt để các vụ việc tham nhũng. Bên cạnh đó, cơng tác
tun truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham
nhũng mặc dù đã nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhưng chưa tạo ra
một sự chuyển biến tích cực trong ý thức xã hội trong việc phản ứng với tệ nạn tham
nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc tham gia vào
cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, gây phương hại đến lợi ích quốc gia và đến sự thụ
hưởng các quyền và lợi ích của nhân dân, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gia

tăng sự bất cơng trong xã hội, làm xói mịn niềm tin của người dân đối với Nhà
nước. Về đối ngoại, sự gia tăng tội phạm tham nhũng làm giảm niềm tin của các


20
đối tác nước ngồi, uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, cản trở hoạt động
đối ngoại và hạn chế các nguồn đầu tư. Có thể nói, tham nhũng là trở lực lớn đối
với quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.2. Những hình thức tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước
1.1.2.1. Tham nhũng trực tiếp
Tham nhũng trực tiếp là loại tham nhũng thể hiện dưới hình thức cơng chức
nhà nước đẩy nhanh việc thực hiện một quyền cụ thể nhất định hoặc để giúp cơng
dân hoặc tổ chức nào đó đạt được một quyền xác định mà vốn dĩ họ có quyền được
hưởng nhằm thu lợi từ những người thụ hưởng quyền đó. Hình thức tham nhũng
này thể hiện dưới nhiều hình thái có sự biến tấu khác nhau.
- Cơng chức nhà nước nhận tiền để giúp cơng dân nào đó có được các loại
giấy tờ chứng nhận của Nhà nước mà anh ta có quyền được cấp, nghĩa là cơng dân
đó có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận, nhanh hơn thay vì để cơng dân đó
chờ đợi, xếp hàng theo đúng quy định. Đây là loại tham nhũng trực tiếp phổ biến và
ít nguy hiểm nhất trong các cơ quan hành chính nhà nước.
- Cơng chức phụ trách thụ lý giải quyết thủ tục cấp các loại giấy phép (xây
dựng, hồn cơng, đăng ký kinh doanh, nhất là các ngành nghề nhạy cảm, v.v...) cố ý
gây khó dễ, tạo ra các khó khăn giả tạo như bắt "khổ chủ" đi lại xác nhận và chỉnh
sửa hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian trả hồ sơ với lý do khơng chính đáng, đưa qua
nhiều bộ phận, các bộ phận xử lý tắc trách chồng chéo kéo dài thời gian gây phiền
hà cho "khổ chủ". Tất cả những hành vi đó là nhằm buộc "khổ chủ" phải "biết
điều", tức phải kèm theo một bao thư (có tiền) để "lót tay" cán bộ cơng chức khi
nộp hồ sơ. Khi đó hồ sơ sẽ được giải quyết nhanh chóng tùy theo số tiền trong bao
thư nhiều hay ít. Đây là loại tham nhũng điển hình và khá lộ liễu trong các cơ quan
hành chính ở Việt Nam hiện nay. Khi xếp vào loại tham nhũng trực tiếp người ta

thường gọi loại tham nhũng này là nhũng nhiễu, gây phiền hà để vòi tiền. Cách
thức thực hiện tham nhũng là tạo ra các tiền lệ, các loại lệ thỏa thuận ngầm, không


21
cơng khai về "phí dịch vụ nhanh" mà cá nhân và pháp nhân khi đến cơ quan hành
chính để giao dịch phải tự hiểu, hoặc có "chân gỗ" hướng dẫn, chỉ bảo.
- Một loại tham nhũng phổ biến nữa trong cơ quan hành chính là thơng qua
thỏa thuận giữa cá nhân hoặc pháp nhân với người trung gian thường gọi là "cị
hành chính". Cá nhân, pháp nhân phải chi một số tiền tùy theo thỏa thuận với "cò"
để thực hiện các giao dịch hành chính một cách thuận lợi. Đây là loại tham nhũng
trực tiếp nhưng có sự tham gia của người trung gian. Cũng có trường hợp cán bộ
cơng chức trực tiếp thỏa thuận ngoài giờ làm việc để kiếm thêm thu nhập mà lẽ ra
trách nhiệm này anh ta phải thực hiện trong giờ hành chính.
- Đáng báo động trong cơ quan hành chính hiện nay và có thể đưa vào tham
nhũng trực tiếp đó là tham nhũng trong việc "mua quan, bán chức", là mối quan hệ
giữa cấp trên với cấp dưới trong công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo cấp trên
sẽ thông tin lấp lửng cho một vài cấp dưới biết, rằng hiện nay đang có nhu cầu bổ
nhiệm một chức danh lãnh đạo trong cơ quan, họ gợi ý cho một vài cơng chức biết
và nói "tơi thấy cậu có thể đảm đương được chức danh đó... hãy cố gắng lên nhé...".
Thế là các công chức hám danh được gợi ý đua nhau "chạy chọt" biếu "sếp" tiền,
quà, "sếp" chỉ việc thu bổng lộc, ai nhiều hơn sẽ là người chiến thắng. Đây cũng là
loại tham nhũng trực tiếp nguy hiểm, là ngun nhân gây nên tình trạng thối hóa
cán bộ.
- Nhưng loại tham nhũng trực tiếp nguy hiểm nhất là vi phạm các quy định
của pháp luật, hoặc việc thực thi pháp luật mang nặng tính thiên vị một cách có tổ
chức. Đây là loại tham nhũng được nói nhiều nhất trong cơ quan hành chính. Loại
tham nhũng này địi hỏi có sự hợp tác giữa cấp trên và cấp dưới vì hành vi tham
nhũng phải do nhiều cơng chức tham gia mới thực hiện được (đòi hối lộ để vi phạm
các quy định). Hậu quả trực tiếp nghiêm trọng nhất của loại tham nhũng này là các

luật, pháp lệnh, nghị định và chính sách của nhà nước khơng được thực hiện một
cách nghiêm túc.


22
Một cách tiếp cận mang tính biếm họa khác đối với vấn đề này là ở góc độ
luật pháp, chế độ sai chậm được sửa chữa nên đối với người dân và xã hội, tốt hơn
là những chính sách đó khơng nên thực hiện, vì thế tham nhũng để thực hiện sai lại
được chấp nhận khiến tệ nạn tham nhũng tràn lan mà không bị phê phán. Thừa
nhận loại tham nhũng này sẽ làm đảo lộn trật tự kỷ cương, pháp luật bị xem thường
hoặc mất tác dụng.
Nói tóm lại, tham nhũng trực tiếp là hành vi công chức nhận tiền của người
khác để hồn thành cơng việc thuộc trách nhiệm phải làm của họ, bất kể đó là việc
làm sai quy định hay làm cơng việc đó nhanh hơn thường lệ. Mức độ thường xuyên
và phổ biến của loại tham nhũng này là một bằng chứng chứng tỏ năng lực và mức
độ hiệu quả trong cơ quan hành chính của nhà nước thấp. Tham nhũng trực tiếp chỉ
ra năng lực yếu kém hoặc chất lượng phục vụ tồi trong cơ quan hành chính. Tệ hại
hơn, cơng chức có thể tạo ra sự khan hiếm dịch vụ hành chính giả tạo nhằm tăng
"giá" dịch vụ thu lời và phân phối lại bổng lộc thơng qua đường dây của họ. Nói
một cách khác, tham nhũng trực tiếp là loại tham nhũng thơng qua thỏa thuận (có
thể bằng lời nói và gợi ý ngầm bằng hành động) để trục lợi trong các giao dịch giữa
công dân, pháp nhân với cơ quan công quyền.
1.1.2.2. Tham nhũng gián tiếp
Tham nhũng gián tiếp là loại tham nhũng không phổ biến như tham nhũng
trực tiếp nhưng gây thiệt hại rất lớn về công sản, tài nguyên, giá trị tinh thần, niềm
tin của công chúng vào Nhà nước, thậm chí có thể làm lung lay cả thể chế và chế
độ chính trị. Tham nhũng gián tiếp thường biểu hiện dưới các hình thức sau:
- "Bẻ cong pháp luật". Đây là hành vi cố tình thay đổi các quy định của
pháp luật có lợi của những kẻ tham nhũng. Ví dụ, một số cơng chức cấp cao có thể
bằng các quy định của pháp luật để ưu tiên phân cấp, xây dựng quy chế và quy

hoạch cho một hịn đảo hoang vu, một vùng đất khơ cằn thành một quần thể du
lịch, một nhà máy, hay một khu công nghiệp sầm uất nhằm nâng giá trị đất đai lên


23
gấp hàng trăm lần, qua đó nâng giá tài sản của mình bằng cách tăng giá các lơ đất
đã mua của họ trong khu vực đó.
- Tác động đến nội dung chính sách nhà nước có lợi cho một số người nào
đó. Ví dụ, các chính khách nhận tiền của nhóm đầu cơ chính trị hoặc nhóm doanh
nhân rất có thế lực để hướng đại biểu Quốc hội thông qua các điều luật có lợi cho
họ. Nói cách khác, các chính khách này nhận tiền để lèo lái cơ quan nhà nước ban
hành các chính sách phục vụ một thiểu số những kẻ có thế lực và tiền chứ khơng
phải phục vụ lợi ích của nhân dân nói chung.
Việc ráo riết vận động hành lang Quốc hội là một hoạt động được coi là hợp
pháp và chính đáng ở nhiều nước. Tuy nhiên, nếu lợi dụng sự vận động đó để có
được các chính sách gây thiệt hại cho lợi ích xã hội, nhất là người được vận động
lại nhận tiền, q từ người đi vận động thì đó là hành vi tham nhũng, hành vi xấu
cần phải phòng ngừa.
Cả hai loại tham nhũng trực tiếp và gián tiếp trong cơ quan hành chính nhà
nước ở nhiều nước rất nghiêm trọng khiến công chúng phẫn nộ. Để xây dựng một
nhà nước tốt, trong sạch, chiếm được lòng tin của nhân dân, cần phải chống tham
nhũng với quyết tâm cao.
1.2. Tính tất yếu phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính
nhà nước
1.2.1. Khái niệm phịng, chống tham nhũng
Phịng, chống tham nhũng là cơng việc khó khăn, phức tạp, là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, đảng viên tiếp tục thực hiện nghiêm túc, đồng bộ
mục tiêu, quan điểm và các giải pháp được nêu trong Nghị quyết Trung ương 3

(khoá X. Tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như: Nâng cao vai trị,
trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan,


24
tổ chức, đơn vị trong phòng chống tham nhũng, lãng phí; tiếp tục hồn thiện thể
chế về quản lý kinh tế - xã hội, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách,
tăng cường cơng tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đồng
thời tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân và đổi mới, nâng
cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan thường trực, tham mưu để
phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả nhất vì thực tiễn đã chứng minh
phịng, chống tham nhũng có mối quan hệ mật thiết với nhau nếu phịng, chống
khơng tốt sẽ dẫn đến tham nhũng, lãng phí; tham nhũng, lãng phí càng lan tràn thì
càng cần có các biện pháp phịng, chống hiệu quả hơn. Do đó, cần phải gắn kết chặt
chẽ hai biện pháp giữa phịng và chống nhằm thực hiện tốt cơng tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà
nước ta đã xây dựng nhiều chủ trương và chính sách, pháp luật. Đấu tranh chống
tham nhũng cần phải bằng hệ thống các biện pháp đồng bộ, cả trước mắt và lâu dài,
kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trên tất cả các lĩnh vực, cần xác định và tập
trung vào các lĩnh vực trọng tâm.
Yếu tố quan trọng, quyết định hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phịng,
chống tham ơ, lãng phí chính là cơng tác lãnh đạo. Sự lãnh đạo tập trung thống nhất
của Đảng, thông qua các chủ trương, chính sách mang tính chỉ đạo, sẽ quyết định
sự thành bại của cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Chính vì vậy, Nhà nước đã ban
hành Luật phịng, chống tham nhũng, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm
2006 và Chính phủ cũng đã thơng qua Chiến lược quốc gia về phịng, chống tham
nhũng ở Việt Nam đến năm 2020 và tại các Hội nghị cũng như các Nghị quyết của
Đảng cũng đã chỉ đạo quyết liệt cơng tác phịng, chống tham nhũng như: Hội nghị
Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác

phịng, chống tham nhũng, lãng phí” (Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21 tháng 8
năm 2006), Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về Tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác


×