Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.17 KB, 22 trang )

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 5
3.1. NHẬN XÉT:
Trong điều kiện kinh tế thị trường đầy thử thách như hiện nay, tìm được hướng
đi đúng đắn, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, có lãi, tự chủ về tài chính là điều
kiện cần để tồn tại một doanh nghiệp. Nhận thức được điều đó nên ngay từ những
ngày đầu bước vào sản xuất kinh doanh với sự nỗ lực phấn đấu của ban lãnh đạo
và cán bộ công nhân viên của toàn Công ty đã và đang khẳng định mình trong điều
kiện nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần xây dựng số 5 đã không ngừng mở
rộng quy mô sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu để từng bước chiếm lĩnh thị
trường và nâng cao uy tín của mình. Đó là cả một quá trình phấn đấu liên tục của
ban lãnh đạo và tập thể công nhân viên toàn công ty. Nó trở thành đòn bẩy mạnh
mẽ thúc đẩy công ty trong quá trình hình thành và phát triển. Việc vận dụng sáng
tạo các quy luật kinh tế thị trường đồng thời thực hiện chủ trương cải tiến quản lý
kinh tế của Nhà nước, của Tổng công ty nên Công ty cổ phần xây dựng số 5 đã đạt
được những thành tựu đáng kể, hoàn thành nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước, Tổng
công ty, bảo toàn và phát triển hiệu quả vốn được giao, không ngừng nâng cao đời
sống của cán bộ công nhân viên.
Qua quá trình tìm hiểu về công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán
chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng tại Công ty cổ phần xây
dựng số 5 em xin đưa ra một vài nhận xét như sau:
3.1.1. Nhận xét chung về tổ chức nhân sự và bộ máy kế toán
Về bộ máy kế toán: Bộ máy kế toán được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, chặt
chẽ tạo nên một hệ thống thống nhất liên kết chặt chẽ với nhau đã góp phần đắc lực
vào công tác quản lý, giám đốc tài chính của Công ty. Với đội ngũ nhân viên có
trình độ kế toán cao, nhiệt tình trong công việc lại được bố trí phù hợp với trình độ
khả năng của mỗi người, tạo điều kiện nâng cao trách nhiệm công việc được giao.
Về việc áp dụng chế độ kế toán: Công ty đang áp dụng theo quyết định 15 của
Bộ tài chính là hoàn toàn hợp lý. Công tác kế toán tuân thủ theo nguyên tắc chế độ
và chuẩn mực kế toán và không có sai phạm trọng yếu xảy ra. Việc ghi chép phản
ánh vào sổ sách kế toán là hợp lý, các nghiệp vụ phát sinh đều có chứng từ gốc đầy


đủ và hợp lệ. Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật kí chung và sử dụng Phần
mềm kế toán máy rất phù hợp, giúp cho việc hạch toán, theo dõi và quản lý các
thông tin kế toán nói chung và các thông tin kế toán về chi phí giá thành nói riêng
một cách thuận lợi hơn.
Về tổ chức công tác kế toán: Công ty đã ứng dụng máy vi tính vào công tác
hạch toán kế toán, các nhân viên sử dụng nghiệp vụ chuyên môn và kỹ thuật sử
dụng máy vi tính để điều khiển máy. Khi đó máy vi tính sẽ được tự động làm việc
theo chương trình đã dược xây dựng trên cơ sở hạch toán và trình tự các phương
pháp kế toán cơ bản để thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin. Với những ưu điểm
của kỹ thuật tin học, thực hiện kế toán trên máy vi tính đã giúp Công ty giảm được
khối lượng công việc ghi chép số liệu của nhân viên kế toán, đẩy nhanh được quá
trình tính toán, xử lý thông tin và lập các báo cáo. Đồng thời việc lưu giữ, bảo quản
số liệu, tài liệu kế toán an toàn, nâng cao được năng suất, chất lượng công tác kế
toán, giảm được chi phí hạch toán.
Về công tác hạch toán ban đầu: Từ công việc hạch toán ban đầu đến việc kiểm
tra tính hợp lý, hợp lệ của các chứng từ được Công ty tiến hành một cách khá cẩn
thận, đảm bảo cho số liệu hạch toán có căn cứ pháp lý, đầy đủ, chính xác theo đúng
yêu cầu của Bộ xây dựng.
3.1.2. Nhận xét về thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty cổ phần xây dựng số 5.
ƯU ĐIỂM
- Công ty tổ chức sản xuất một cách rất hợp lý và khoa học tuỳ vào từng loại
công trình, tuỳ vào tính chất và giá trị của công trình, tuỳ thuộc vào năng lực của
từng đội xây lắp mà Công ty có thể khoán gọn cho các đội xây lắp thực hiện hoặc
trực tiếp thực hiện không gây ra sự lãng phí do thừa nguồn lực và gắn được tránh
nhiệm của người lao động với công việc.
- Công ty thực hiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
theo phương pháp kê khai thường xuyên, phương pháp này cho phép Công ty có
thể kiểm soát được từng lần nhập, xuất vật tư, hàng hoá, hạn chế tình trạng thất
thoát, sử dụng lãng phí. Sản phẩm xây lắp thường có kết cấu phức tạp, giá trị lớn,

thời gian thi công kéo dài, vật tư sử dụng để sản xuất gồm nhiều chủng loại khác
nhau. Hơn nữa trong một kỳ kế toán Công ty thực hiện nhiều công trình, mỗi công
trình lại gồm nhiều hạng mục công trình. Do đó tình hình nhập xuất vật liệu được
phản ánh thường xuyên kịp thời cho từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cho phép
tính đúng tính đủ chi phí sản xuất cho các đối tượng sử dụng, giúp nhà quản trị
doanh nghiệp nắm bắt được tình hình sử dụng các loại nguyên vật liệu một cách
chính xác, từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, các sổ sách kế toán được mở chi tiết cho
từng công trình, hạng mục công trình theo dõi một cách sát sao biến động chi phí
của đối tượng hạch toán.
-Đối tượng tập hợp chi phí được xác định là từng công trình, hạng mục công
trình phù hợp với đối tượng tính giá thành, chi phí được tập hợp theo từng khoản
mục do đó dễ dàng đối chiếu , kiểm tra.
Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Đơn vị đã đề ra định mức tiêu hao nguyên vật liệu hợp lý cho từng công
trình chứng tỏ công tác quản lý chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ở đơn vị là rất tốt.
Bên cạnh đó việc theo dõi và hạch toán chi phí này cho từng công trình cũng là
một điều thể hiện được công tác quản lý chi phí, thể hiện trách nhiệm trong công
việc của đội ngũ kế toán cũng như ban giám đốc. Vì chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp chiếm tỉ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp. Việc quản lý
tốt chi phí này sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những hao hụt không đáng có về
nguyên vật liệu vì giá vật liệu xây dựng trên thị trường hiện nay thay đổi liên tục sẽ
làm cho chi phí mua vào thay đổi ảnh hưởng đến chi phí vật liệu xuất dùng và giá
thành công trình.
Với những vật liệu mua về không qua nhập kho mà tập hợp đến chân công
trình ngay xí nghiệp tiến hành lập bảng kê những vật liệu không qua kho này, kiểm
kê và theo dõi rất chặt chẽ tránh tình trạng thu mua ồ ạt tập hợp bừa bãi ngoài công
trường làm giảm chất lượng vật liệu và do đó làm giảm chất lượng công trình.
Công ty cũng giao quyền chủ động cho các Đội trưởng chịu trách nhiệm mua sắm
những vật tư còn thiếu khi cần thiết phải sử dụng ngay. Vật tư phải đảm bảo đúng

chất lượng, đúng thủ tục hiện hành.
Đối với chi phí nhân công trực tiếp
Công ty sử dụng kết hợp hình thức trả lương theo thời gian và hình thức
lương khoán. Tạo điều kiên đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, tăng năng xuất
lao động, tiết kiệm vật tư, tiền vốn, có tác động tích cực đến việc tiết kiệm chi phí
và hạ giá thành sản phẩm.
Phương thức khoán của Công ty không phải là “khoán trắng” mà là “
khoán quản” tức là hình thức khoán có sự quản lý chặt chẽ của các phòng ban từ
trên xuống: Phòng đấu thầu và quản lý dự án chịu trách nhiệm quản lý về tiến
độ thi công, khối lượng và chất lương công trình. Phòng kế toán tài vụ giám sát
về mặt tài chính phối hợp với Phòng đấu thầu và quản lý dự án lập thủ tục thanh
toán với bên chủ đầu tư. Các đội, tổ thi công nhận khoán gọn chịu trách nhiệm
ràng buộc trước các cấp quản lý về chất lượng và tiến độ công trình, đảm bảo
quản lý chế độ, chính sách, thủ tục hoàn tất hồ sơ, dự toán thi công, quyết toán
công trình với Công ty và bên chủ đầu tư.
Về công tác hạch toán tiền lương, kế toán lập Bảng thanh toán tiền lương
cho từng tổ căn cứ vào Bảng khối lượng công việc và Bảng chấm công hay hợp
đồng làm khoán sau đó đến cuối tháng lên Bảng tổng hợp lương cho từng Đội.
Điều này đã thể hiện tính khoa học và hợp lý trong công tác hạch toán chi phí nhân
công của Công ty, đảm bảo tính chính xác trong việc tính giá thành sản phẩm
Sự phối hợp trên đây giữa các phòng ban Công ty với đội thi công luôn đảm
bảo cho việc tính giá thành đầy đủ, chính xác, đảm bảo lợi ích cho Doanh nghiệp,
chủ đầu tư, Nhà nước và người lao động.
Đối với máy thi công:
Công ty cũng cho phép các đội xây dựng chủ động trong việc thuê máy thi
công . Điều này góp phần đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà
Công ty giao cho các đội xây dựng. Các loại xe, máy thi công dược lập sổ theo dõi
một cách cụ thể, có nhật trình xe. Hàng tháng kế toán tiến hành trích khấu hao và
phân bổ hợp lí cho từng công trình, hạng mục công trình.
Đối với chi phí sản xuất chung

Mặc dù có rất nhiều loại chi phí nhưng đơn vị vẫn theo dõi và tập hợp đầy
đủ, không bỏ sót chi phí nào. Qua đó có thể nói tinh thần trách nhiệm của đội ngũ
nhân viên ở đây rất cao và đáng biểu dương.
Đáng giá sản phẩm dở dang:
Việc đánh giá sản phẩm dở dang được tiến hành đều đặn vào cuối quý có sụ
tham gia của các phòng ban liên quan và đại diên bên chủ đầu tư, đảm bảo tính
khách quan và kịp thời.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Phương pháp được xác định phù hợp với đặc điểm xây lắp của Công ty. Ở
một chừng mực nhất định, nhìn chung công tác tập hợp chi phí và tính giá thành
sản phẩm ở Công ty đáp ứng được yêu cầu quản lý mà Công ty đã đặt ra, đảm
bảo được sự thống nhất về phạm vi và phương pháp tính toán và các bộ phận có
liên quan.
NHỮNG MẶT CÒN TỒN TẠI
Bên cạnh những ưu điểm trong công tác quản lý và hạch toán chi phí, tính
giá thành sản phẩm, ở Công ty vẫn còn một số mặt hạn chế gây ảnh hưởng không
nhỏ đến giá thành sản phẩm của Doanh nghiệp nói riêng và công tác kiểm toán của
các cơ quan Nhà nước nói chung.
Về công tác quản lý: Công ty đã tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình trực
tuyến, tất cả mọi đầu mối đều tập trung tại Công ty. Nghĩa là tất cả các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh ở trong toàn công ty sẽ được tập hợp lên Phòng kế toán trên Công
ty để hạch toán. Điều này gây nên mất thời gian, làm tăng khối lượng công việc
trên phòng kế toán Công ty, ảnh hưởng đến tiến độ thi công và đôi khi làm mất khả
năng chủ động của các đơn vị trực thuộc.
Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp:
Công ty Cổ phần xây dựng số 5 đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới và hoàn
thiện công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành nói riêng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một số mặt tồn tại nhất định. Cụ
thể là:
 Về công tác hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:

Trong kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán tính trị giá vật liệu
xuất kho theo giá thực tế đích danh. Nhưng riêng đối với vật liệu mua về không
nhập kho mà chuyển thẳng đến công trình thì trị giá vật liệu tính vào chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp chỉ là giá ghi trên hoá đơn GTGT, còn chi phí thu mua
vận chuyển bốc dỡ lại tính vào chi phí sản xuất chung (TK6277). Mặc dù chi phí
này chiếm tỉ trọng không lớn lắm trong tổng chi phí nhưng dù chỉ một sự chênh
lệch nhỏ thôi cũng làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, gây khó khăn cho
Doanh nghiệp khi cạnh tranh trên thương trường.
Hơn nữa, vật liệu sử dụng cho thi công các công trình được thu mua từ nhiều
nguồn khác nhau và bao gồm nhiều chủng loại nhưng Công ty lại không mở các Sổ
danh điểm vật tư do đó rất khó cho việc theo dõi và quản lý vật tư.
 Về công tác hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Công ty không thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp
sản xuất mà chỉ khi nào chi phí này phát sinh thì mới hạch toán thẳng vào chi phí
nhân công trực tiếp. Tuy nhiên, trong thực tế số lượng công nhân nghỉ phép trong
các thời kỳ là khác nhau. Hơn nữa, số lượng công nhân trực tiếp xây lắp là khá lớn
nên chi phí tiền lương nghỉ phép chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
 Về công tác hạch toán chi phí sử dụng máy thi công:
Một số loại máy thi công của Công ty giao cho các tổ, đội có gí trị khá lớn tuy
nhiên các công trình chưa sử dụng hết công suất nên không làm tăng được hiệu quả
sản xuất, tăng chi phí khấu hao khiếp cho giá thành sản phẩm xây lắp tăng. Công ty
phải có các giải pháp để quả lý việc sử dụng máy thi công một cách hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Công ty không tiến hành trích trước chi phí sửa chữa máy thi công,
điều đó khiến cho mỗi khi có máy móc bị hỏng hóc, chi phí sửa chữa rất lớn kéo
theo chi phí trực tiếp của công trình trong kì hạch toán tăng cao.
 Về công tác hạch toán chi phí sản xuất chung:
- Chi phí sản xuất chung liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí nên
không thể tập hợp trực tiếp được mà phải phân bổ cho từng đối tượng theo một tiêu
thức nhất định. Trong kế toán xây dựng, thường sử dụng tiêu thức phân bổ là chi
phí nhân công trực tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Việc xác định đúng

tiêu thức phân bổ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tính đúng, tính đủ giá
thành sản phẩm. Hiện nay, Công ty cổ phần xây dựng số 5 tiến hành phân bổ chi
phí sản suất chung theo tiêu thức chi phí nhân công trực tiếp. Việc phân bổ theo
tiêu thức này sẽ gây ra tình trạng chi phí chung phân bổ cho từng công trình không
được phản ánh chính xác dẫn đến sự sai lệch trong giá thành sản phẩm. Vì có
những công trình mặc dù khối lượng nhỏ nhưng đòi hỏi tiến độ thi công nhanh nên
Công ty phải huy động lực lượng nhân công lớn. Do đó, chi phí chung phân bổ cho
công trình này sẽ nhiều hơn chi phí thực tế nó phải chịu. Nếu so sánh chi phí sản
xuất chung của sản phẩm này được phân bổ theo hai tiêu thức khác nhau ta sẽ thấy
sự chênh lệch đó rất lớn.
Trong khoản mục chi phí TK 6277 (chi phí dịch vụ mua ngoài) bao gồm cả
chi phí vân chuyển NVL, CCDC trực tiếp và chi phí vân chuyển NVL, CCDC,
máy móc, chi phí thuê ngoài sửa chữa…phục vụ máy thi công. Việc tập hợp các
khoản mục chi phí này vào TK 6277 là chưa hợp lí, làm tăng chi phí sản xuất
chung so với thực tế.
3.2. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP Ở CÔNG TY
CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 5
Xuất phát từ những tồn tại về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm ở
Công ty với sự cấp thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện kế toán, vấn đề đặt
ra đối với Công ty là phải khắc phục những tồn tại từng bước hoàn thiện công tác
kế toán để phù hợp với chế độ kế toán hiện hành và tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác kế toán, thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm.

×