MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: Ánh sáng sân khấu Sự hình thành và phát triển của
Nghệ thuật biểu diễn cùng với sự ra đời của Âm thanh trang 4
I. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật
II. Sự ra đời và phát triển của âm thanh và ánh sáng
PHẦN II: Tổng quát về âm thanh trang 7
PHẦN III. Phân tích tác phẩm và ý đồ thu thanh trang 21
Tác phẩm 1: Nhớ về Hà Nội.
Tác phẩm 2 : Hoạ mi hót trong mưa.
PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG trang 44
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO trang46
Bản nhạc Nhớ về Hà Nội & Hoạ mi hót trong mưa.
Đĩa CD ca khúc Nhớ về Hà Nội & Hoạ mi hót trong mưa.
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngay từ buổi bình minh cuộc sống loài người mới ở chế độ xã hội
bầy đàn nguyên thuỷ, mỗi khi săn bắn hay hái lượm trở về người ta đã tụ họp
xung quanh đống lửa, nhảy múa hát hò để biểu lộ tình cảm trước thành quả
lao động của mình.
Trải qua thời gian cùng sự phát triển của xã hội loài người, cũng
như sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu hưởng thụ về đời sống
tinh thần của con người ( như ca, múa, nhạc, sân khấu, điện ảnh. ..) cũng
ngày càng gia tăng
Sẽ rất tẻ nhạt, nếu như những bộ phim , những tác phẩm sân khấu,
hay những lời ca, tiếng nhạc mà thiếu đi sự hỗ trợ của âm thanh và ánh sáng.
Chính vì lẽ đó nghành đạo diễn âm thanh, ánh sáng ra đời, nó thể hiện nội
dung tư tưởng những tác phẩm sân khấu và âm nhạc, những ca khúc, nó có
vai trò quan trọng để phục vụ xã hội và nhu cầu nhu cầu đời sống tinh thần
con người chúng ta.
Trường Đại học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội trước kia và hiện nay
luôn là con chim đầu đàn trong sự nghệp trồng người. Trường đã đào tạo và
bồi dưỡng nên những con người đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà nói
chung và Quân đội nói riêng, đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển chung
của nghệ thuật Ca , Múa , Nhạc và sân khấu.....
Đặc biệt gánh vác nhiệm vụ chủ yếu trong sáng tạo biểu diễn và truyền
bá các tác phẩm Ca, Múa, Nhạc và sân khấu về đề tài bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng đất nước.
Do yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước và Quân đội trong giai đoạn mới
về đội ngũ những người làm âm thanh, ánh sáng tại các đoàn nghệ thuật của
cả nước trong và ngoài Quân đội. Năm 2004, trường đã bắt đầu đào tạo đội
ngũ những người làm âm thanh - ánh sáng mang tính chính quy, để củng cố
và hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ cho hoạt động Văn Hoá Nghệ
Thuật của nước nhà. Phía trước còn dài, chúng tôi tin tưởng rằng, bằng sự
2
phát triển và không ngừng tự hoàn thiện của nghành đạo diễn âm thanh, ánh
sáng sẽ đem đến cho khán giả, chiến sỹ những nét đẹp về nghệ thuật nước
nhà.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình học tập và viết luận án này . Đặc biệt, là sự chỉ báo giúp đỡ tận
tình sâu sắc của thày giáo chuyên môn Phạm Hoàng Dũng, thày giáo Nguyễn
Hồng Quân. Bài đồ án của em không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất
mong được sự thông cảm, chỉ bảo của hội đồng và các thầy bộ môn, cùng sự
chia sẻ của các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ để đồ án của em được hoàn thiện
hơn.
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
3
PHẦN I
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
CÙNG VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ÂM THANH, ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
I. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu biểu diễn.
Con người sáng tạo ra nghệ thuật qua công việc lao động và sinh hoạt đời
sống hằng ngày. Nghệ thuật giống như "tấm gương phản chiếu cuộc đời". Để
qua đó tự chiêm ngưỡng mình, xem xét lại bản thân và tự đánh giá lại bản thân
mình, còn là "cuốn sách giáo khoa vĩ đại" giảng giải, hướng dẫn cho con người
về cái đẹp, cái thiện, ác, cái mới cũ, cái tiên tiến, lạc hậu tình yêu thương và
lòng thù hận.
Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật tổng hợp, nó bao gồm cả: ca, múa,
nhạc, họa, kịch, thơ, triết học, mỹ học... đồng hành cùng với sự thể hiện khát
vọng của con người. Với những đề tài khác nhau như ca ngợi quê hương đất
nước, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi, ca ngợi lý tưởng yêu nước thương dân, trọn
nghĩa tình, phê phán cái ác, cái xấu. Nghệ thuật biểu diễn được thể hiện trong
sự giải thích tác phẩm nghệ thuật, dẫn dắt của tác phẩm nghệ thuật nhờ nội
dung của nó, biểu diễn bằng các hình tượng nghệ thuật. Là lôi cuốn sự chú ý
động viên khả năng sáng tạo, thức tỉnh và thúc đẩy thị hiếu âm nhạc và tài
năng biểu diễn của người nghệ sỹ để tác động tới công chúng. Nó chính là sức
mạnh lớn lao làm thay đổi nhận thức và hành động của con người, mang một
chuỗi sáng tạo liên tục từ người viết tác phẩm, đến đạo diễn, diễn viên, đến
những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật... những người chuẩn
bị đạo cụ phục vụ cho biểu diễn. Có như vậy mới diễn đạt được một cách hiệu
quả về cái đẹp, nội dung tác phẩm mà họ muốn trình bày mang lại cho khán
thính giả những ý tưởng đúng đắn và có đầy đủ giá trị.
Ở tại châu Âu, đặc biệt là thời kỳ Văn minh Hy Lạp cổ đại cách đây hàng
ngàn năm, người ta xây dựng lên sân khấu khổng lồ mà người ta gọi là diễn
trường để biểu diễn. Thời kỳ đó loại hình biểu diễn chính là kịch. Các vở hài
kịch do các tác giả thời bấy giờ sáng tác như: Ecxin, Xophoc, Arich... đồng thời
4
nơi đây cũng là nơi để tổ chức các cuộc lễ hội tế thần, và các sinh hoạt cộng
đồng khác.
Thời La Mã cách nay 2000 năm đã xây dựng nên một diễn trườn mang tên
Colido vĩ đại, có cấu trúc ba mặt gần giống như sân vận động ngày nay, có thể
chứa được 87.000 người xem, bức tường vây xung quanh cao tới 50m và được
trạm trổ hết sức công phu. Cho đến ngày nay vẫn còn lưu giữ được một phần
nhỏ nguyên vẹn của diễn trường này.
II. Sự ra đời và phát triển của âm thanh và ánh sáng
Từ xưa khi chưa có điện, tất cả các loại hình biểu diễn đều là diễn với ánh
sáng tự nhiên "ban ngày" và tất nhiên là không có âm thanh, phải đến thế kỷ 18 -
19 cùng với sự phát minh ra điện và ánh sáng điện xuất hiện, đã tạo ra một bước
chuyển biến vô cùng to lớn cho nghệ thuật sân khấu biểu diễn.
Cho đến nay, nhờ vào khoa học kỹ thuật, sân khấu biểu diễn được trang
hoàng lộng lẫy hơn nhờ ánh sáng đèn rực rỡ cộng với âm thanh được khuyếch
đại lớn lên phục vụ cho người nghe được rõ hơn ở mọi vị trí, nên cảm thụ và
cảm xúc cho khán giả được nâng lên mạnh mẽ hơn trước rất nhiều.
Âm thanh là một lĩnh vực bao gồm cả khoa học và công nghệ. Công nghệ
âm thanh đòi hỏi một nghiệp vụ có sự kết hợp chặt chẽ những yếu tố nghệ thuật
và kỹ thuật, trong đó việc lựa chọn giải pháp cho vấn đề nghệ thuật phải dựa
trên những kiến thức sâu rộng về kỹ thuật, nó còn dựa trên quy luật tâm sinh học
những đặc điểm mang tính chủ quan của con người trong quá trình cảm thụ âm
thanh.
Các nhà hát cận đại như "Grosses chau Spie" ở Bec Ling, nhà hát "Thia
trem yes hot" ở Matscơva, Nhà hát "phea trepi galle" ở pari được trang bị những
trang thiết bị âm thanh, ánh sáng và sân khấu được cho là tối tân nhất thời kỳ
bấy giờ. Với hệ thống âm thanh và loa công suất lớn phục vụ cho rất đông khán
giả, làm cho khán giả choáng ngợp trong hiệu quả mà âm thanh mang lại.
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
5
Hệ thống ánh sáng thì đã có nhiều đèn để có thể chia được nhiều vị trí
khác nhau để có thể cắt cảnh, cắt tầng làm thay đổi về không gian và tạo cảm
giác rất ấn tượng với người xem. Còn sân khấu thì có thể di chuyển theo chiều
ngang, dọc hoặc xoay tròn, làm cho việc thay đổi cảnh trí và không gian được dễ
dàng hơn.
Bắt đầu từ thời kỳ này cùng với sự phát triển các loại máy móc điện tử
phục vụ cho sân khấu biểu diễn là các kỹ sư, những người thợ chuyên nghiệp
phục vụ cho âm thanh và ánh sáng biểu diễn "Sound man" người làm âm thanh
và “lighting man" người làm ánh sáng, vai trò của những người này là rất quan
trọng, luôn gắn bó chặt chẽ đối với nghệ thuật biểu diễn và là một phần không
thể thiếu được của mọi loại hình biểu diễn nghệ thuật.
Cùng với thời gian và kinh nghiệm với sự lớn mạnh và phát triển không
ngừng của nghệ thuật sân khấu biểu diễn thì âm thanh ánh sáng cũng song song
và cùng đồng hành phát triển, đi từ không đến có, từ nghiệp dư đến chuyên
nghiệp. Đội ngũ những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, với bao khó
khăn thiếu thốn đã đúc kết thành những kinh nghiệm thành những bài học xương
máu. Để đến hôm nay chúng ta có thể tự hào đó nói đó là một "nghề" và một bộ
phận không thể thiếu được của nghệ thuật sân khấu biểu diễn.
Ta có thể tạm lấy mốc của âm thanh, ánh sáng phát triển từ năm 1955 đến
nay một khoảng thời gian khá dài đối với một đời người, nhưng với một ngành
nghề thì chưa là bao. Vậy mà chỉ mới hơn 50 năm hoạt động và sáng tạo đó, đội
ngũ những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng biểu diễn của nghệ thuật biểu
diễn nói chung. Đã đi từ không đến có đạt được những thành công lớn phục vụ
cho nghệ thuật biểu diễn, với một đội ngũ những người làm kỹ thuật đông đảo,
giàu kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, tạo nên nhiều diện mạo cho nghệ thuật
sân khấu biểu diễn, góp thêm một bông hoa tươi đẹp cho rừng hoa nghệ thuật
nước nhà thêm tươi đẹp hơn, rực rỡ hơn.
Thiên niên kỷ trước đã khép lại, bước sang thế kỷ mới, với sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế, chính trị của đất nước.
6
Cùng với sự lớn mạnh của ngành nghệ thuật biểu diễn nói chung và sự
bùng nổ của công nghệ điện tử, viễn thông, công nghệ số... Nhất định những
người làm kỹ âm thanh, ánh sáng của Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi
để hoạt động và sáng tạo hơn nữa, tìm ra nhiều hoa tươi cỏ lạ đẹp đẽ hơn nữa
cho vườn hoa nghệ thuật.
PHẦN II: TỔNG QUÁT VỀ ÂM THANH
Âm - áp lực sóng:
Âm thanh tới tai theo dạng biến đổi tuần hoàn của áp suất không khí -
giống như áp suất không khí được đo bằng dụng cụ đo khí áp. Sự thay đổi áp
suất tương ứng với âm thanh, tuy nhiên sự thay đổi về cường độ quá nhỏ và quá
nhanh khi quan sát bằng của dụng cụ đo. Những sự biến đổi áp suất đó gọi là
sống âm. Ta có thể quan sát những sóng đó qua hình ảnh bề mặt nước khi ta nén
hòn đá xuống. Chỉ có sự khác nhau giữa chúng là sóng âm tỏa theo không gian 3
chiều, dạng hình cầu.
Sóng âm được tạo bởi vật thể rung trong không khí. Nó có thể là loa, dây
thanh quản hoặc dây đàn rung trong không khí, áp suất không khí tỷ lệ với số
phân tử không khí trong vùng được đo. Sự rung động lớn sẽ nén các phân tử
không khí vào một khoảng làm nó chuyển động tạo nên một vùng có áp suất
không khí lớn hơn gọi là sự nén khi vùng được nén tiếp tục chuyển động từ một
nguồn âm thanh sẽ tạo nên một vùng rộng có áp suất không khí nhỏ hơn gọi là
vùng loãng. Thật là thú vị khi biết rằng các phân tử tự nó không chuyển động
trong không khí với tốc độ âm thanh, nhưng sóng âm lại chuyển động từ không
khí bằng dạng sóng được nén từ vòng có áp suất cao sang vùng có áp suất nhỏ
hơn. Quá trình này gọi là sự truyền sóng.
Đặc tính của dạng sóng (waveforn characteristics)
Dạng sóng là một hình biểu diễn mức độ áp suất âm thanh của tín hiệu
hoặc mức điện áp theo thời gian. Tóm lại một dạng sóng có thể cho ta xem
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
7
nghiên cứu và giải thích hiện tượng sự truyền âm trong môi trường vật lý. Một
dạng sóng bao gồm những đặc tính sau:
- Biên độ - Pha
- Tần số - Đường bao
- Bước sóng - Hài âm
- Vận tốc
Những đặc tính đó giúp ta phân biệt các dạng sóng khác nhau. Cơ
bản nhất là biên độ và tần số.
Biên độ (Amplisude)
Khoảng cách giữa đường tâm dưới của một dạng sóng, ví dụ như sóng
hình sin biểu diễn biên độ của tín hiệu đó. Độ lớn của khoảng cách hoặc sự dịch
chuyển từ đường tâm, mạnh hơn sự biến đổi áp suất, tín hiệu diện, hoặc sự biến
đổi vật lý trong một môi trường. Có nhiều tiêu chuẩn đo biên độ sóng khác
nhau. Đo giữa mức tín hiệu dương và âm cực đại của sóng gọi là giá trị biên độ
đỉnh, sự khác nhau giữa mức tín hiệu đỉnh dương và âm gọi là giá trị đỉnh tới
đỉnh (peak to peak). Giá trị RMS (root - mean - Square) trình bày tới mức có
nghĩa của các giá trị đó và gân đúng hơn với mức tín hiệu nhận được bởi tai
người. Với sóng hình sin giá trị RMS đạt được bằng bình phương biên độ sóng
tại mỗi điểm dọc theo dạng sóng và khi đó lấy kế quả toán học và bình phương
tại mỗi điểm dọc theo dạng sóng và khi đó lấy kết quả, toán học và bình phương
của kết quả. Pháp tính đó tương đương với 0,707 lần mức biên độ đỉnh tức thời.
Bởi vì bình phương của gí dương hoặc âm luôn luôn dương nên giá trị RMS
luôn dương công thức toán học sau diễn đạt sự quan hệ đó giữa giá trị đỉnh và
giá trị RMS của một dạng sóng:
Peak = V
2
x RMS = 1,414 x RMS
RMS = peak ÷V
2
= 0,707 x peak
Tần số (frequency).
Giá trị mà nguồn âm phát ra sau một vòng từ dương đến âm của biên độ
gọi là tần số của tín hiệu đó. Độ lệch của một sóng được biểu diễn trên trực đồ
8
thị 360
0
được gọi là một chu kỳ. Số chu kỳ xảy ra trong một giây (tần số) được
tính bằng Hertz.
Vận tốc (velocity)
Vận tốc của sóng âm là tốc độ khi nó đi qua một trường và được tính bằng
công thức:
V = d: (t
2
- t
1
)
(t
2
sau t
1
)
Với V: tốc độ truyền sóng
d: khoảng cách
t: thời gian (s)
Với sóng âm (môi trường là không khí với điện, môi trường là điện tử.
Vận tốc của sóng quyết định chu kỳ riêng của một dạng sóng truyền qua một
khoảng cách được chỉ định. Tại 70
0
F, tốc độ của sóng âm trong không khí vào
khoảng 1130 feet/s hoặc 344m/s. Tốc độ này phụ thuộc vào nhiệt độ và tăng
khoảng 1,17t/s cho mỗi độ F.
Bước sóng (wavelength)
Bước sóng (λ) là khoảng cách giữa điểm đầu và điểm đầu và điểm cuối
một chu kỳ trong môi trường, hoặc giữa các điểm tương ứng trên các chu kỳ
liền kề và được tính bằng:
λ = v/f
Với λ là bước sóng
v: là vận tốc
f: là tần số
Thời gian để hoàn thành một chu trình gọi là chu kỳ ví dụ một sóng âm 30
Hz hoàn tất 30 chu kỳ một chu kỳ bằng 1/30s. Ký hiệu chu kỳ là T và được tính
bằng:
T = 1/f
(T là số giây của một chu kỳ)
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
9
Với vận tốc truyền âm 1130 ft/s, một dạng sóng 30Hz sẽ truyền một vòng
hết 0,0333s, đạt một khoảng cách là 1130 x 0,0333 (37,6ft). Ta có thể nói bước
sóng của âm 30 Hz trong không khí dài là 37,6 ft. Khi tần số tăng, thời gian của
một chu kỳ giảm. Bước sóng giảm khi tần số tăng.
Pha (Phase)
Một chu kì có thể được bắt đầu tại bất cứ điểm nào trên dạng sóng, vì vậy
nó có thể có hai bộ phát sóng tạo ra các sóng hình sin có cùng tần số và biên độ
đỉnh mà có các biên độ khác nhau tại bất cứ điểm nào cùng lúc. Những sóng đó
gọi là (out-of-phase). Pha được đo bằng độ và một chu kì được chia thành 360°.
Sóng hình sin thường được bắt đầu tại 0° với biên độ bằng 0, tăng lên dương
cực đại tại 90°, giảm về 0 tại 180°, lại tăng tới âm cực đại ở 270° và lại trở về 0
ở 360°.
Ta có thể cộng các dạng sóng bằng cách tổng hợp các biên độ của chúng
tại mỗi thời điểm. Khi hai dạng sóng cùng pha (với pha khác 0) với cùng tần số,
hình dạng thì biên độ đỉnh được cộng với nhau, dạng sóng mới sẽ cùng tần số,
pha, hình dạng nhưng lại có biên độ đỉnh gấp đôi. Nếu hai sóng giống nhau
nhưng ngược nhau 180° thì khi được cộng với nhau chúng sẽ triệt tiêu nhau và
có biên độ bằng 0. Nếu sóng thứ hai chỉ khác pha một phần (không chính
xác180° hoặc (2n-1)x180° lệch pha, với n=1,2,3...) thì chúng sẽ cộng hưởng với
nhau theo phép cộng đại số.
Thay đổi pha diễn tả tổng của đầu hoặc cuối trong một sóng với sóng
khác, nó là kết quả do thời gian trễ của một sóng khi truyền nhiều sóng. Ví dụ
một sóng 500Hz hoàn tất một chu kì mất 0.002s. Nếu ta bắt đầu với hai sóng
cùng pha 500Hz và trễ một sóng 0.001s (1/2 chu kì), sóng bị trễ chậm 1/2 chu
10
kì hoặc 180°. Số độ của pha thay đổi được tính bằng thời gian trễ được tính theo
công thức:
∅ = ∆t x f x 360°
Với ∅ : độ thay đổi pha.
∆t : thời gian trễ tính bằng giây (s).
f : tần số tính bằng Hz.
Hài âm (Harmonic Content)
Về vấn đề này được thảo luận tập trung xung quanh sóng hình sin bao
gồm tần số đơn và tạo ra một âm thanh trung thực tại một tần số nào đó. Các
nhạc cụ hiếm khi tạo ra những sóng hình sin nguyên chất, tuy nhiên đó lại là
điểm tốt. Nếu chúng tạo ra, tất cả các nhạc cụ đang chơi cùng một bài nhạc sẽ
phát ra giống nhau và âm thanh sẽ không đẹp. Điều làm chúng ta có thể nhận
biết sự khác nhau giữa các nhạc cụ là sự có mặt của các tần số khác nhau trong
sóng âm, đó là nốt gốc (âm cơ bản). Các tần số có mặt trong một âm, khác với
âm cơ bản gọi là các âm thành phần. Các âm thành phần cao hơn tần số các âm
gốc gọi là bội âm. Với hầu hết các nhạc cụ, các tần số của bội âm là bội số của
tần số gốc và được gọi là các âm hài. Ví dụ, tần số tương ứng với nốt A là
440Hz. Một sóng 880Hz là hài của sóng 440Hz bởi vì nó gấp 2 lần. Trong
trường hợp này sóng 440Hz được gọi là âm gốc hoặc âm hài thứ nhất bởi vì nó
bằng một lần tần số gốc, và sóng 880Hz được gọi là âm hài thứ hai bởi vì nó
bằng 2 lần âm gốc. Âm hài thứ 3 sẽ bằng 3 lần 440Hz tức là 1320Hz. Với một
vài nhạc cụ ví dụ như chuông, xylophones, và các nhạc cụ khác thì các âm thành
phần không có hài so với âm gốc.
Tai người nhận được những âm thanh đó theo tỉ lệ những tần số 2:1 là sự
liên quan đặc biệt, sự liên quan này là cơ sở quãng tám trong âm nhạc (musical
octave). Ví dụ, vì nốt la (A) là 440Hz tai người nghe 880Hz vì có sự quan hệ tới
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
11
nốt la (A), đó là do âm thứ nhất cao hơn nốt A mà âm giống nốt A nhất. Nốt sau
880Hz có âm giống 440Hz nhất là 1760Hz do vậy 880Hz được gọi là octave 1
trên 440Hz và 1760Hz là octave 2. Hai nốt đó có cùng tần số gốc và được phát
đồng thời gọi là sự kết hợp, ngay cả khi chúng có hài khác nhau. Tai người
không thể đáp ứng với tất cả các tần số, nó được giới hạn tới 10 1/2 octave tức là
từ 15Hz tới 20kHz. Vài người trẻ tuổi có thể nghe tới 23kHz, nhưng độ nghe
càng giảm theo tuổi tác. Ví dụ người trên 60 tuổi chỉ nghe tới 8kHz.
Vì sóng âm được phát ra từ nhạc cụ có chứa hài với các biên độ và sự so
pha khác nhau, các dạng sóng âm ít giống với dạng sóng hình sin tần số đơn.
Các dạng sóng âm có thể được chia thành hai loại rõ ràng đơn giản và phức hợp.
Các sóng hình vuông, tam giác, răng cưa là sóng đơn có chứa hài những sóng đó
gọi là sóng đơn bởi vì chúng tiếp tục và lặp lại. Một chu kì của sóng vuông
giống chu kì tiếp theo, chúng đối xứng qua trục hoành. Bẩy đặc tính sóng được
lưu ý tới những sóng đơn chứa đựng các hài giống như sóng hình sin.
Sóng phức hợp là các sóng không lặp lại và không đối xứng qua trục. Các
sóng phức hợp chia chúng thành các chu kì và phân biệt rõ ràng theo tần số khi
nhìn vào dạng sóng .
Độ lớn của âm (Loudness level): dB
Tai người làm việc với một mức năng lượng 10¹³ :1 – một mức rộng. Bởi
vì một dải rộng như vậy làm người nghe khó cảm nhận, một đồ thị logarit trình
bày sự nén ... hệ thống dùng để đo mức áp suất âm thanh, mức tín hiệu và sự
thay đổi mức tín hiệu gọi là dB (decibel).
Để hiểu về dB trước tiên ta phải kiểm tra loga và thước chia độ loga. Loga
(log) là công thức toán học biến giá trị bằng số lớn thành nhỏ hơn dễ quản lí
hơn. Bởi vì nó tăng theo hàm mũ, nó nhanh chóng làm chúng ta dễ cảm nhận
hơn một đường tuyến tính.
Giá trị loga của một số khi thêm 10 như một số mũ ... Loga của giá trị 2
được nhớ lại trong bảng loga, nhưng khi giá trị là một số nguyên của 10 thì giá
trị loga dễ dàng tìm thấy. Cách viết số dơn giản theo hàm mũ là log.
12
Thanh áp (Sound- Pressure Level)
Thanh áp là áp suất âm thanh phát ra được đo tại một điểm. Nó thường
được đo với mức âm trên 1m và tính bằng dB. Mức cao hơn thanh áp. Âm thanh
nhỏ nhất mà ta có thể nghe được gọi là ngưỡng nghe thấy ở 0dB SPL. Sự thay
đổi trung bình cách một bước chân là 70dB SPL. Mức nghe trung bình ở gia
đình vào khoảng 85dB SPL. Ngưỡng có hại là từ 125dB đến 130dB.
Thanh áp tính bằng dB thì bằng 20 lần log tỉ lệ của 2 thanh áp:
dB SPL = 20logP/Pref
với
P là thanh áp được đo bằng dynes/cm²
Pref là thanh áp tham khảo – 0.0002 dyne/cm² (ngưỡng nghe)
Tai người (The Ear)
Nguồn phát âm thanh tạo ra các bước sóng bằng cách lần lượt tạo sức ép
và làm loãng không khí giữa nguồn phát và người nghe. Những sức ép này làm
thay đổi áp suất cao và thấp hơn bình thường. Tai là một biến thế nhạy sẽ phản
ứng tới những sự thay đổi áp suất này bằng những loạt quá trình liên quan với
nhau xảy ra trong những cơ quan thính giác.
Khi sóng áp suất âm thanh phát đến người nghe, chúng được gom lại vào
trong cửa tai (aural canal) bởi phần bên tai ngoài gọi là vành tai (pinna) và rồi
thì được dẫn trực tiếp đến màng tai (ear - drum), giống như cái trống được căng
với màng mỏng. Các sóng âm rồi sẽ được biến thành những sự dao động cơ và
chuyển tới phần tai trong bằng ba xương được gọi là , hammer, anvil và stirrup.
Những miếng xương này hoạt động như bộ khuếch đại (bằng cách khuếch đại sự
dao động do màng tai tạo ra) và bộ bảo vệ giới hạn (giảm bớt cường độ âm
thanh lớn nhất thời, như sấm sét hoặc chất nổ của pháo hoa). Những sự dao
động rồi thì sẽ được đưa đến phần tai trong (ốc tai - cohlea) bộ phận có hình
xoắn trôn ốc mà chứa hai buồng chất lỏng. Trong những buồng chất lỏng này có
những sợi lông tiếp nhận nhỏ nằm hàng ngang dọc theo ốc tai. Những sự dao
động được chuyển đến những sợi lông mà sẽ phản ứng tới những tần số cụ thể
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
13
tuỳ thuộc vào vị trí của chúng trên bộ phận này, kết quả là sự kích động dây thần
kinh mà cho chúng tai sự cảm giác nghe nhận âm thanh. Mất thính giác thường
xảy ra khi những sợi lông này bị hư hại hoặc hỏng vì quá tuổi.
Ngưỡng giới hạn thính giác (Threshold of Hearing)
Trong trường hợp cường độ áp suất âm thanh (Sound pressure level -
SPL), một mức tham khảo về cường độ áp suất thuận tiện cho ngưỡng giới hạn
của thính giác. mà là áp suất âm thanh tối thiểu tạo ra hiện tượng nghe nhận âm
thanh trong con người. Nó bằng khoảng 0.0002 microbar. Một microbar bằng
một phần triệu áp suất không khí bình thường, điều này chứng tỏ tai người rất
nhậy bén. Thực tế, nếu tai có khả năng nhạy bén hơn nữa, nó sẽ nghe được
những di động nhiệt của các phần tử trong không khí. Khi nói đến cường độ áp
suất âm thanh ở mức 0.0002 microbar, mức ngưỡng giới hạn này thường được
biểu thị 0dB - SPL
Ngưỡng giới hạn thính giác được định nghĩa như là SPL cho một tần số cụ
thể nào đó là một người bình thường có thể chỉ nghe được 50%.
Ngưỡng giới hạn cảm giác (Threshold of Feeling)
SPL mà sẽ tạo sự mệt mỏi cho người nghe 50% trong thời gian nghe được
gọi là ngưỡng giới hạn cảm giác. Nó sảy ra ở khoảng 118-dB SPL giữa vùng tần
số 200 Hz và 10 kHz.
Ngưỡng giới hạn đau (Threshold of Pain)
SPL mà tạo sự đau đớn cho người nghe 50% trong thời gian nghe được
gọi ngưỡng giới hạn đau và tương ứng với cường độ âm thanh SPL là 140 dB
trên vùng tần số giữa 200 Hz và 10 kHz.
Các thủ pháp âm thanh:
Người làm âm thanh cho một tác phẩm nghệ thuật nào đó phải nắm được
các đặc tính, nguyên lý cơ bản của âm thanh trên cơ sở đó để áp dụng cho việc
14
đặt ảnh âm trong tác phẩm cần làm bằng các phương pháp xử lý như dùng thủ
pháp về âm sắc, thủ pháp về cường độ, thời gian... để âm thanh có chiều sâu
không gian và âm thanh sống động.
Không gian ba chiều XYZ.
Chỉ cần nghe tiếng có thể nhận biết được vị trí đứng của diễn viên trên sân
khấu mà không cần nhìn hình ảnh. Dựa trên một số nguyên lý cơ bản:
- Về cường độ âm thanh: (Phương pháp âm lượng)
Trong tai người có một màng nhĩ được cấu tạo như một màng trống, khi
các các sóng âm tác động vào màng tai sẽ dung động tùy theo mức độ nhiều hay
ít phụ thuộc vào nguồn âm thanh mạnh hay yếu, xa hay gần.
Ví dụ: Cùng một nguồn âm thanh phát ra nhưng ở khoảng cách gần hơn
thì màng tai sẽ rung động lớn hơn, nó tác động đến não bộ phân tích, và đưa ra
cảm nhận là nguồn âm thanh đó lớn hơn. Ngược lại, khi ta để nguồn âm thanh
đó chuyển dịch ra xa thì tác động sóng âm vào màng tai yếu hơn và cảm nhận
được nguồn âm thanh đó là nhỏ hơn. Vì vậy để cho người nghe cảm nhận một
nguồn âm thanh xa hơn thì ta phải điều chỉnh có cảm nhận và ngược lại muốn
người khác nghe có cảm nhận nguồn âm thanh gần thì ta phải điều chỉnh âm
thanh lớn hơn.
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
15
Cảm nhận tần số theo trục Z ( xa – gần )
Về thời gian: (phương pháp thời gian)
Trong môi trường không khí bình thường ở khoảng 20
0
C thì vận tốc của
âm thanh là 340m/s, do đó tiếng âm thanh ở càng xa bao giờ cũng nghe chậm
hơn ở gần.
Ví dụ: khi ta nghe tiếng sét thì tiếng nổ ra cùng với tia chớp. Nếu tiếng
sét đó ở gần ta còn nếu tiếng sét đó ở xa thì bao giờ cũng nhìn thấy, tia chớp
trước sau đó vài giây ta mới nghe thấy tiếng sấm.
Vậy nguồn âm thanh ở gần thì đến tai nghe nhanh hơn. Do đó, ta có thể áp
dụng nguyên lý đó để xử lý ảnh âm cho công việc làm âm thanh. Ngày nay có
thể sử dụng bộ trễ thời gian bằng một thiết bị điện tử đó là dùng bộ FX để tạo
thời gian trễ cho âm thanh.
16
Cảm nhận tần số theo trục Z ( xa- gần )
Về phương pháp dùng âm sắc:
Do tai người có thể cảm nhận được các khoảng cách âm khác nhau trong
khoảng 20 Hz đến 20 KHz nhưng rõ nhất là khoảng từ 500 Hz đến 2 KHz.
Trong mỗi khoảng tần số nhất định sẽ tạo ra hiệu quả cảm nhận âm khác nhau.
Dựa trên nguyên lý này để xử lý âm thanh về mặt âm sắc và tránh được sự
chồng đè về âm thanh để có thể tạo được các lớn, các tầng.
Dàn trải tần số từ thấp đến cao.
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn duy Hải
17
Tai người nghe được trong khoảng tần số từ 50 Hz đến 20 KHz. Nhưng
trong dải tần số này, cảm nhận của tai không giống nhau trong từng khoảng tần
số.
Trong dải tần nghe của tai, người ta chia làm 10 Octave, 10 octave này
được chia thành 5 khoảng.
(1) tần số Trầm (Low): 20 Hz ∼ 40 Hz - 80 Hz ∼ 160 Hz (3 Octave)
- Hai Octave đầu 20 Hz ∼ 80 Hz. Trong dải tần số này sự cảm nhận của tai
người không rõ rệt. Nó có tác dụng như sự hỗ trợ cho Octave thứ 3 được lấp đầy
đặn hơn khi ta nâng thêm lên + 6 dB. Tuy nhiên, trong một hệ thống có loa sub
boss thì khoảng tần số này sẽ giúp cho người nghe cảm nhận được tốt hơn
nhưng bằng giác quan khác, khoảng tần số này dễ bị tạp âm ù nên.
- Octave thứ 3 từ 80 Hz - 160 Hz. Đây là khoảng dải tần quan trọng nhất
của tần số trầm. Nó là nền móng chính cho toàn dải âm thanh. Octave này tạo ra
cảm giác dầy, đầy đặn, trầm ấm, nó kết hợp với tần số cao tạo ra chiều sâu và
không gian cho ảnh âm
Nếu octave này bị thiếu sẽ gây cảm giác hẫng hụt, bị mất chân do thiếu
phần nền móng.
(2) Tần số trung trầm ( Low mid) 160 Hz ∼320 Hz ∼ 640 Hz (2 octave)
- Octave đầu 160 Hz ∼ 320 Hz. Octave này tạo ra hiệu quả tăng cường sự
đầy của tần số trầm, âm thanh sẽ bị tôi và đục. Khoảng tần số này thường hay bị
bồi, tiếp trở lại tạo ra tiếng ù (do cộng hưởng với sàn và các khoảng cách ghế).
- Octave thứ hai 320 Hz ∼ 640 Hz octave này tạo âm trầm, chắc tiếng
nhưng khô, cứng. Nếu lạm dụng khoảng tần số này âm thanh sẽ bị thô. Khoảng
tần số này hỗ trợ cho trung âm tạo vị trí ảnh âm (rõ về phần trầm).
(3) Tần số trung (Mid): 640 Hz ∼ 1280 Hz.
Đây là octave quan trọng trong dải âm thanh. Nó là khoảng tần số người
dễ cảm nhận nhất. Dải âm này tạo cho người nghe sẽ cảm thấy âm thanh gần với
mình hơn. Nó là khoảng tần số quyết định vị trí ảnh âm.
18