HÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY XNK SÚC SẢN VÀ GIA CẦM HẢI
PHÒNG
I - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY XNK SÚC
SẢN VÀ GIA CẦM HẢI PHÒNG.
Công ty XNK súc sản và gia cầm Hải Phòng là loại hình doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh và là một đơn vị thành viên trực thuộc Tổng Công ty Chăn nuôi
Việt Nam.
Cụng ty được thành lập dựa trên cơ sở hợp nhất giữa Công ty XNK súc sản
và gia cầm Hà Nội và Chi nhánh Tổng Công Ty XNK súc sản gia cầm Hải Phòng
theo Quyết định số 486/NN -TCCB/QĐ ngày 01 tháng 04 năm 1997 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn và được lấy tên là Công ty XNK súc sản và gia
cầm Hải Phòng. Công ty là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có con
dấu riêng.
Tên Công ty viết bằng tiếng Việt:
CÔNG TY XNK SÚC SẢN VÀ GIA CẦM HẢI PHÒNG
Tên Công ty giao dịch bằng tiếng Anh:
HAIPHONG ANIMAL AND POULTRY PRODUCTS
IMPORT - EXPORT CORPORATION
Tên Công ty viết tắt: ANIMEX HAIPHONG
Trụ sở chính: Số 16 Cù Chính Lan, Quận Hồng Bàng, Hải Phòng
Điện thoại: 031.823.737 Fax: 031.842.181
Vốn điều lệ: 7.618.000.000 VNĐ
Giấy phép kinh doanh số 111075 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng cấp
ngày 19 tháng 5 năm 1997.
Ban đầu, Công ty XNK súc sản và gia cầm Hải Phòng chỉ có 97 cán bộ
công nhân viên, tổng diện tích hoạt động là 1.728 m
2
với 2 địa điểm chính là:
Cơ sở I: Số 16 Cù Chính Lan - Hồng Bàng - Hải Phòng: dùng làm văn
phòng giao dịch.
Cơ sở II: Số 20 Trần Phú - Hồng Bàng - Hải Phòng: gồm các phân xưởng
chế biến thuỷ hải sản và các kho chứa đông lạnh.
Những ngày đầu thành lập, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ sản xuất còn
yếu kém, hơn nữa Công ty lại được thành lập năm 1997 - thời kỳ kinh tế trong và
ngoài nước có nhiều biến động, do đó Công ty đã gặp không ít khó khăn về thị
trường tiêu thụ cũng như nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tháng 8 năm
2000, Công ty đã mạnh dạn vay Ngân hàng ngoại thương Hải Phòng số vốn là
6.782.500.000 đồng, đồng thời Công ty cũng xin UBND TP Hải Phòng cấp thêm
2.500 m
2
đất tại khu vực Đồng Thiện và 172 m
2
đất tại khu vực Lê Lợi (Hải
Phòng) để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho đến nay, tổng diện tích hoạt động của Công ty là 4.400 m
2
với 5 cơ sở
trên địa bàn TP Hải Phòng bao gồm:
- Cơ sở I: Trụ sở chính tại số 16 Cù Chính Lan.
- Cơ sở II: Nhà kho lạnh số 20 Trần Phú.
- Cơ sở III: Nhà kho lạnh khu vực Đồng thiện.
- Cơ sở IV: Xưởng lắp ráp điện lạnh Đồng thiện.
- Cơ sở V: Nhà kho khu vực Lê Lợi.
Với sự nỗ lực không ngừng của bản thân cũng như sự hỗ trợ của Tổng Công
ty Chăn Nuôi Việt Nam, qua gần 10 năm hoạt động, Công ty XNK súc sản và gia
cầm Hải Phòng đã phát huy được những thế mạnh của mình, và từng bước đi lên
trở thành một doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi, xây dựng được cơ sở vật chất
tốt và tạo được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, đóng góp không nhỏ vào
Ngân sách Nhà nước, đồng thời góp phần tích cực trong việc tạo ra công ăn việc
làm cho hàng trăm lao động rôi dư trên địa bàn TP Hải Phòng và một số tỉnh lân
cận. Tuy nhiên, hiện nay Công ty vẫn là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng
Công ty Chăn Nuôi Việt Nam và chưa được cổ phần hoá, chính điều này cũng làm
giảm sự năng động của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do
vậy, Công ty cần sớm chuẩn bị tốt cho mình về mọi mặt để sớm có thể cổ phần hoá
theo như chủ trương của Nhà Nước hiện nay.
II - ĐẶC ĐIỂM KINH DOANH
1. Quy trình công nghệ
Hiện nay Công ty đang sản xuất, chế biến nhiều chủng loại sản phẩm khác
nhau như: các sản phẩm thịt, cá hộp đông lạnh; thịt cá tươi sống chỉ qua sơ chế;
thịt, cá cấp đông; thịt, cá chế biến thành đồ ăn sẵn; và các loại thức ăn gia súc, gia
cầm. Mỗi loại sản phẩm có quy trình chế biến riêng.
Sau đây em xin trình bày quy trình chế biến thịt lợn choai đông lạnh - một
trong những mặt hàng chủ đạo của Công ty.
Quy trình chế biến này được khái quát như sau:
Lợn choai nhốt sau 24 giờ kể từ khi nhập chuồng, chỉ cho uống nước, không
cho ăn và được tắm rửa thật sạch sẽ trước khi đưa vào giết mổ.
• Châm tê: Lợn được châm tê (làm choáng), cẩu lên dây chuyền giết mổ
và chọc lấy tiết.
• Cạo lông, làm sạch: Lợn được nhúng nước nóng, đưa lên máy cạo
lông, sau đó đưa lên dây chuyền làm sạch.
• Mổ: Lợn được cạo lại sạch lông và rửa nước sạch sẽ, mổ bỏ hết nội
tạng kể cả mỡ lá, rửa sạch; bác sỹ thú y của Công ty khám thân thịt,
nội tạng, nếu không phát hiện bệnh, lợn được đóng dấu thú y, xẻ đôi
xương sống, xương đầu, bỏ hết óc và tuỷ sống.
• Chế biến: Đưa lợn vào phòng làm mát nhiệt độ từ 5
0
C đến 7
0
C, sau
đưa ra phòng chế biến, lọc bỏ sườn vai, xương cổ, xương bay, xương
chậu; sửa và loại bỏ mỡ dắt, để nguyên xương ống và định
hình móng túi PE và xếp vào khay.
• Đóng gói: Lợn được đưa vào tủ cấp đông nhiệt độ từ -35
0
C đến -45
0
C,
khi nhiệt độ tâm thịt đạt -12
0
C tiến hành đóng gói vào bao PP và đưa
vào phòng bảo quản nhiệt độ từ -18
0
C đến -22
0
C.
• Kiểm tra chất lượng: Lô hàng đủ 20 tấn đến 24 tấn, KCS xí nghiệp và
trung tâm thú y lấy mẫu kiểm tra các chỉ tiêu cảm quan, lý, hoá, vi
sinh, nếu không có vi trùng gây bệnh và đạt các chỉ số do Bộ Y tế quy
định thì lô hàng được trung tâm thú y cấp giấy chứng nhận kiểm dịch
cho phép tiêu thụ.
Lợn choai
Châm tê
Cạo lông,
l m sà ạch
Mổ
Chế biến
Đóng gói
SƠ ĐỒ 01: QUY TRÌNH CHẾ BIẾN THỊT LỢN
2. Thị trường.
2.1. Nguồn nguyên liệu đầu vào.
Thị trường cung cấp nguyên liệu đầu vào cho quá trình chế biến của Công ty
chủ yếu là các tỉnh khu vực Miền Bắc. Đây là các tỉnh đồng bằng, có nhiều điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển các đàn gia cầm, các loại động vật chăn nuôi lấy
thịt như: lợn, trâu, bò… và có khả năng cung cấp số lượng lớn các mặt hàng thuỷ,
hải sản. Đây là thị trường cung cấp khá ổn định, giá cả hợp lý; hơn nữa, nguồn
cung cấp lại rất gần khu vực hoạt động của Công ty tạo nên một lợi thế rất lớn cho
doanh nghiệp hoạt động tốt.
Hiện nay, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Tây, Hưng Yên, Hải
Dương, Thanh Hoá, Nghệ An, Sơn La được coi là những thị trường cung cấp
nguyên liệu chính của Công ty. Công ty đã và đang có những biện pháp tích cực
nhằm tạo ra cho mình một thị trường cung cấp ổn định, chất lượng đảm bảo, tránh
tình trạng thiếu nguyên liệu cho sản xuất. Cụ thể là, năm 2002, Công ty đã chủ
động đầu tư vốn nhằm xây dựng một trang trại chuyên chăn nuôi lợn quy mô lớn
tại huyện Thuỷ Nguyên - TP Hải Phòng với tổng đàn lợn khoảng 72.692 con/năm.
Trong đó: Đàn lợn nái sinh sản: 3.048 con; đàn lợn nái cụ kỵ, ông bà: 1.218 con;
nái giống bố, mẹ: 1.250 con; lợn sữa: 48.739 con; lợn lấy thịt: 19.527 con. Bên
cạnh đó, Công ty còn đầu tư vốn, thức ăn chăn nuôi, hỗ trợ kỹ thuật cho bà con
nông dân ở Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định… nhằm đẩy mạnh chăn
nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho
Kiểm tra chất
lượng
quá trình sản xuất chế biến của Công ty. Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2005,
Công ty đã hỗ trợ cho bà con nông dân 2.456.780.000 đồng và 15.438 tấn thức ăn
gia súc các loại.
2.2. Thị trường tiêu thụ
2.2.1. Thị trường nội địa
Trong những năm đầu mới thành lập, thị trường tiêu thụ của Công ty
XNK súc sản và gia cầm Hải Phòng chủ yếu là Hải Phòng và các tỉnh lân cận TP
Hải Phòng như: Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Hà Tây
với sản lượng tiêu thụ rất thấp, chỉ khoảng 5.000 tấn sản phẩm/năm. Sản phẩm của
Công ty hầu như không được thị trường miền Trung và Miền Nam biết đến và việc
xuất khẩu sản phẩm của mình sang thị trường nước ngoài là rất ít.
Năm 2001, việc Công ty đã mạnh giạn mở các đại lý giới thiệu sản phẩm và
gửi hàng đến các siêu thị trên khắp cả nước đã tạo ra một bước ngoặt lớn đối với
Công ty. Kể từ đó, sản phẩm của Công ty đã tiếp cận được với thị trường Miền
Trung và Miền Nam và từng bước có được chỗ đứng vững chắc tại các thị trường
này.
Đến nay, sản phẩm của Công ty mới chiếm khoảng 2,57% thị phần cả nước.
Đây là một con số còn khá khiêm tốn nhưng đó là cả sự nỗ lực rất lớn của toàn thể
cán bộ, công nhân viên trong Công ty. Vì Công ty mới chính thức đi vào hoạt động
được 9 năm, máy móc thiết bị, công nghệ đã được cải tiến nhưng còn kém so với
nhiều nước đặc biệt là các nước có nền công nghiệp phát triển, đội ngũ cán bộ công
nhân viên còn ít (498 người), tay nghề của người lao động tuy đã được cải thiện
nhiều so với trước nhưng vẫn còn hạn chế đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt của thị
trường.
Ngày nay, nhu cầu sử dụng thực phẩm của người dân ngày càng tăng cao do
đời sống ngày càng được cải thiện, đó là một điều kiện hết sức thuận lợi cho các
doanh nghiệp sản xuất chế biến thực phẩm, và tất nhiên Công ty XNK súc sản và
gia cầm Hải Phòng cũng có được thuận lợi đó. Tuy nhiên, Công ty phải đối mặt với
sự cạnh tranh rất gay gắt của các doanh nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm
cùng loại. Hiện nay, trên cả nước có khoảng hơn 150 doanh nghiệp sản xuất, chế
biến các mặt hàng thực phẩm nông, thuỷ, hải sản các loại; trong Tổng Công Ty
Chăn Nuôi Việt Nam cũng đã có đến 40 doanh nghiệp; và ngay tại địa bàn TP Hải
Phòng đã có đến 8 doanh nghiệp. Ở các tỉnh lân cận, tỉnh nào cũng có các doanh
nghiệp sản xuất chế biến sản phẩm cùng loại, đặc biệt là tại Quảng Ninh có nhà
máy chế biến đồ hộp Hạ Long - một doanh nghiệp có bề dày lịch sử, sản phẩm có
uy tín lớn trên thị trường.
2.2.2. Thị trường nước ngoài.
Trong những năm đầu mới thành lập, sản phẩm của Công ty hầu như chỉ
tiêu thụ ở thị trường nội địa, Công ty chỉ xuất khẩu sang Trung Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông và các nước trong khu vực Đông Nam Á với số lượng rất hạn chế. Kể
từ năm 2000, Công ty đã tiếp cận và thâm nhập vào thị trường nhiều nước trên thế
giới, mà thành tựu đáng kể là năm 2001 Công ty đã bước đầu đưa sản phẩm của
mình vào thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU - những thị trường tiêu thụ lớn nhưng được
coi là "khó tính" nhất thế giới. Tuy nhiên, hiện nay hầu như sản phẩm của Công ty
mới chỉ được tiêu thụ ở thị trường các nước láng giềng, ở Châu Phi và một vài
nước Đông Âu; nhìn chung những thị trường lớn như: Nhật Bản, Mỹ, EU mới chỉ
tiêu thụ ở mức rất hạn chế. Bởi vì, cũng giống như rất nhiều các doanh nghiệp khác
ở Việt Nam, Công ty XNK súc sản và gia cầm Hải Phòng gặp phải khó khăn khi
xuất khẩu sản phẩm của mình sang thị trường nước ngoài, đặc biệt là những thị
trường khó tính đó là vấn đề về chất lượng và an toàn thực phẩm. Mặc dù hiện nay,
Công ty đã đầu tư trang thiết bị, máy móc tiên tiến theo quy trình công nghệ của
Thuỵ Điển nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về tiờu chuẩn chất lượng