Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.72 KB, 73 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ TỚI HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ TRONG CƠ
CHẾ THỊ TRƯỜNG
Thương mại thực chất là quá trình trao đổi hàng hoá thông qua mua bán trên
thị trường. Theo nghĩa rộng thương mại là quá trình kinh doanh, là khâu tất yếu
của quá trình tái sản xuất và được coi là mạch máu của quá trình vận động nền
kinh tế. Thương mại chính là khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu
dùng.Hoạt động kinh doanh thương mại thực hiện chức năng chủ yếu là mua, bán,
trao đổi và dự trữ hàng hoá.
Mỗi doanh nghiệp là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, tự tổ chức,
quản lý hoạt động kinh doanh của mình. Đối với doanh nghiệp kinh doanh thương
mại phải tổ chức rất nhiều hoạt động khác nhau như tạo nguồn mua hàng, nghiên
cứu thị trường, quản lý dự trữ…trong đó bán hàng là khâu quan trọng nhất. Chỉ có
bán được hàng hoá doanh nghiệp mới thu hỏi được vốn kinh doanh, thực hiện được
lợi nhuận và tái mở rộng kinh doanh.
Đối tượng kinh doanh thương mại là các loại hàng hoá, vật tư, sản phẩm có
hình thái vật chất hay không có hình thái vật chất mà doanh nghiệp mua về với
mục đích để bán. Lưu chuyển hàng hoá trong kinh doanh thương mại có thể theo 1
trong 2 hình thứclà bán buôn hoặc bán lẻ.
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những đặc thù riêng, từ những đặc điểm
hoạt động kinh doanh thương mại khác với các doanh nghiệp khác, cụ thể:
- Nội dung chủ yếu của hạch toán trong doanh nghiệp thương mại là hạch toán
khâu mua vào và bán ra.
- Chi phí kinh doanh là toàn bộ những chi phí để thực hiện nhiệm vụ mua bán,
dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định
- Tổng doanh thu của doanh nghiệp thương mại gồm doanh thu từ tiêu thụ
hàng hoá, doanh thu từ dịch vụ thương mại và các nguồn thu khác.
- Thu nhập của doanh nghiệp thương mại là chênh lệch giữa doanh thu bán


hàng với giá vốn hàng tiêu thụ (gồm giá mua và chi phí thu mua)
Để có nét khái quát về hạch toán quá trình tiêu thụ trước hết cần tìm hiểu lý
luận chung về tiêu thụ hàng hoá.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ
1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ HẠCH TOÁN TIÊU
THỤ HÀNG HOÁ.
1.1. Khái niệm chung về tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thông
quan tiêu thụ thì giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiệ, hàng hoá
chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ (T - H - T’),doanh nghiệp thu hồi
được vốn bỏ ra, vòng luân chuyển vốn được hoàn thành, đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển vốn nói riêng và hiệu quả sử dụng vố nói chung, đồng thời góp phần
thoảmãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Tình hình tiêu thụ hàng hoá và thu lợi nhận
phản ánh năng lực kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp.
Tiêu thụ nói chung bao gồm;
 Tiêu thụ ra ngoài đơn vị: Là việc bán hàng cho các đơn vị khác hoặc cá nhân
ngoài doanh nghiệp.
 Tiêu thụ nội bộ: Là việc bán hàng cho các đơn vị trực thuộc trong cùng một
công ty, tổng công ty …hạch toán toàn ngành.
Quá trình tiêu thụ là chuyển giao hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Hàng hoá
được coi là tiêu thụ khi được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán
tiền. Như vậy, hạch toán tiêu thụ hàng hoá đồng thời là quá trình ghi nhận doanh
thu bán hàng và thực hiện hạch toán kết quả tiêu thụ.
- Doanh thu bán hàng: là tổng giá trị thực hiện do việc bán hàng hoá, sản
phẩm, dịch vụ cho khách hàng. Tổng doanh thu bán hàng là số tiền ghi trên hoá
đơn hay trên hợp đồng. Thời điểm ghi nhận doanh thu sẽ tuỳ theo từng phương
thứcbán hàng nhưng đều được xác định khi có bằng chứng xác nhận hàng hoá đã
được tiêu thụ hay doanh nghiệp đã chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho khách
hàng hoặc hoàn thành công việc theo hợp đồng và được người mua chấp nhận
thanh toán.

- Doanh thu bán hàng nội bộ : là số tiền thu được do bán hàng hoá, cung cấp
lao vụ, dịch vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty,
tổng công ty …
- Chi phí bán hàng: là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt
động tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ như: chi phí lương nhân viên bán hàng, chi phí bao
bì, quảng cáo…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là những khoản chi phí có kiên quan đến toàn
bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không thể tách riêng ra cho bất kỳ một hoạt
động nào. chi phí quản ký doanh nghiệp bao gồm: Chi phí kinh doanh, quản lý
hành chính và chi phí chung khác có liên quan đến cả doanh nghiệp.
- Doanh thu thuần: là số chênh lệch giữa tổng doanh thu bán hàng với các khoản
giảm giá, doanh thu của số hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ, thuế xuất khẩu.
- Lợi nhuận gộp: là số chênh lệch giữa tổng doanh thu thuần với giá vốn hàng
bán.
- Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:là số chênh lêch giữa doanh
thu thuần với giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
1.2.Ý nghĩa
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng trong quá trình luân chuyển hàng hoá của
doanh nghiệp thương mại để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Thông qua
tiêu thụ tính hữu ích của hàng hoá mới được xác định hoàn toàn về số lượng, chủng
loại, thời gian, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Sản xuất ngày càng phát triển, ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá
thì mức độ cạnh tranh càng lớn. Vì vậy, tiêu thụ là vấn đề mấu chốt và sống còn
đối với doanh nghiệp, nó có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ có được thực hiện tốt, đạt hiệu
quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển, quy mô kinh doanh được mở
rộng, thị phần tiêu thụ tăng. Ngược lại nếu khâu tiêu thụ không tổ chức tốt sẽ dẫn
đến doanh nghiệp không có thu nhập để bù đắp những khoản chi phí đã bỏ ra,
không có điều kiện tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng dẫn đến hoạt động kinh
doanh không có hiệu quả.

Để kinh doanh có hiệu quả, đạt được kết quả mong muốn thì công tác hạch
toán kế toán là thực sự cần thiết. Đặc biệt với doanh nghiệp kinh doanh thương mại
việc hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá là hết sức quan trọng trong công tác kế
toán, quản lý của doanh nghiệp. Từ việc hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định
kết quả tiêu thụ có thể đưa ra các chỉ tiêu giúp doanh nghiệp thấy đưọc thực trạng
của mình, từ đó đưa ra những biện pháp điều chỉnh thích hợp, xây dựng kế hoạch
cho các kỳ kinh doanh tiếp theo để đạt được kết quả cao hơn. Chính vì tầm quan
trọng của việc hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh nên đặt
ra những yêu cầu cụ thể.
1.3. Yêu cầu của việc hạch toán tiêu thụ hàng hoá
Tiêu thụ là ghiai đoạn cuối cùng, kết thúc một chu kỳ kinh doanh và mở ra một
chu kỳ tiếp theo của doanh nghiệp thương mại. Trong quá trình tiêu thụ, doanh
nghiệp chuyển quyền sở hữu hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã thực hiện cho khách
hàng, đồng thời thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền bán hàng. Thời điểm
xác định doanh thu tuỳ thuộc vào từng phương thức bán hàng.Điều đó sẽ ảnh
hưởng tới việc hạch toán doanh thu và tiền bán hàng cũng như việc thanh toán với
khách hàng. Do vậy nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tiêu thụ nói riêng và
kết quả kinh doanh nói chung, các doanh nghiệp phải thực hiện tốt các nghiệp vụ
tiêu thụ đảm bảo những yêu cầu đặt ra là:
- Tổ chức hệ thống chứng từ ghi chép ban đầu và trình tự luân chuyển chứng
từ hợp lý. các chứng từ ban đầu phải đầy đủ, hợp pháp, luân chuyển khoa học, tránh
bỏ sót, ghi chép trùng lắp, không quá phức tạp mà vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý,
nâng cao hiệu quả công tác kế toán. Doanh nghiệp lựa chọn hình thức sổ kế toán để
phát huy được ưu điểm của chùng và phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu quản lý đơn giản và tiết kiệm.
- Xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ để kịp thời ghi nhận
doanh thu và lập báo cáo bán hàng. Báo cáo thường xuyên kịp thời tình hình bán
hàng và thanh toán với khách hàng chi tiết theo từng loại hàng, từng hợp đồng kinh
tế.
- Xác định đúng và tập hợp đầy đủ chi phí bán hàng phát sinh trong quá trình

tiêu thụ hàng hoá cũng như chi phí quản lý doanh nghiệp, phân bổ chi phí còn lại
cuối kỳ và kết chuyển chi phí cho hàng tiêu thụ trong kỳ để xác định kết quả kinh
doanh.
1.4. Nhiệm vụ của hạch toán tiêu thụ hàng hoá
Để tạo điều kiện cung cấp thông tin kịp thời, chình xác cho nhà quản lý có
những quyết định hữu hiệu và đánh giá dược chất lượng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hạch toán tiêu thụ hàng hoá có những nhiệm vụ sau:
- Ghi chép, phản ánh đầy đủ kịp thời và chi tiết sự biến động hàng bán ở
trạng thái: hàng đi đường, hàng trong kho, trong quầy, hàng gửi bán…
- Phản ánh chính xác, kịp thời khối lượng hàng tiêu thụ và ghi nhận doanh thu
bán hàng và các chỉ tiêu liên quan khác của khối lượng hàng bán (giá vốn, doanh
thu thuần…).
- Phân bổ chi phí mua hàng hợp lý cho số lượng hàng đã bán và tồn cuối kỳ.
- Lựa chọn phương pháp và xác định đúng giá vố hàng xuất bán để đảm bảo
độ chính xác của chỉ tiêu lãi gộp.
- Xác định kết quả bán hàng, thực hiện chế độ báo cáo hàng hoá và báo cáo
bán hàng, cung cấp kịp thời tình hình tiêu thụ để phục vụ cho doanh nghiệp điều
hành hoạt động kinh doanh.
- Theo dõi và phán ánh kịp thời công nợ với khách hàng.
2. CÁC PHƯƠNG THỨC TIÊU THỤ HÀNG HOÁ.
Đặc điểm khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp thương mại với doanh nghiệp
sản xuất là doanh nghiệp thương mại không trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá, nó
đóng vai trò trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đặc biệt nền kinh tế
thị trường hiện nay tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc liệt, buộc các doanh
nghiệp thương mại phải vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương thức tiêu thụ hàng
hoá để đạt mục đích bán được nhiều hàng hoá nhất. Hoạt động tiêu thụ trong kinh
doanh thương mại gồm 4 phương thức chính: phương thức tiêu thụ trực tiếp,
phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận, phương thức bán hàng đại lý và phương
thức bán hàng trả góp.
2.1. Phương thức tiêu thụ trực tiếp

Tiêu thụ trực tiếp và phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho
của doanh nghiệp hoặc chuyển trực tiếp cho khách hàng ngay sau khi mua hàng về
(không qua kho) của doanh nghiệp thương mại. Hàng hoá khi giao cho khách hàng
được chính thức coi là tiêu thụ và đơn vị mất quyền sở hữu số hàng này khi người
mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán số hàng mà doanh nghiệp đã giao. Có
các trường hợp tiêu thụ trực tiếp sau:
2.1.1. Bán buôn hàng hoá
Bán buôn hàng hoá là bán cho mạng lưới bán lẻ, cho sản xuất, tiêu dùng, xuất
khẩu.
Đặc điểm của bán buôn hàng hoá là:
- Đối tượng bán hàng hoá là doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp sản xuất
và các tổ chức kinh tế khác.
- Hàng hoá có thể là vật phẩm tiêu dùng hoặc tư liệu sản xuất.
- Khối lượng hàng bán ra mỗi lần thường là lớn.
- Thanh toán tiền hàng chủ yếu không dùng tiền mặt mà thông qua ngân hàng
và các hình thức thanh toán khác.
∗ Các hình thức bán buôn hàng hoá:
- Bán buôn qua kho: Là hình thức bán hàng mà hàng hoá được đưa về kho
doanh nghiệp rồi mới trực tiếp chuyển đi bán.
+ Bán buôn qua kho theo hình thức bên mua lấy hàng trực tiếp tại kho
Căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa bên bán và bên mua thì bên mua
phải cử cán bộ nghiệp vụ (người được uỷ quyền) đến nhận hàng tại kho của bên
bán. Bên bán giao chứng từ cho bên mua gồm hoá đơn giá trị gia tăng,hoá đơn
kiêm phiếu xuất kho. Khi người nhận hàng đã nhận đủ số hàng và ký xác nhận trên
chứng từ bán hàng thì số hàng đó không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và
được coi là hàng tiêu thụ.
+ Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng
Căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký giữa đơn vị bán buôn và đơn vị mua hàng
thì bên bán phải chuyển hàng cho bên mua theo địa điểm đã ghi trong hợp đồng
bằng phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài. Bên bán gửi hoá đơn GTGT, hoá

đơn kiêm phiếu xuất kho trong đó ghi rõ số lượng và giá trị thanh toán của hàng dã
chuyển đi. Hàng hoá gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào
nhận được tiền hàng hoặc bên mua xác nhận là đã nhận được hàng và chấp nhận
thanh toán thì mới được coi là tiêu thụ. Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp chịu
hoặc do bên mua phải trả tuỳ theo quy định trong hợp đồng ký giữa hai bên.
- Bán buôn không qua kho (bán buôn vận chuyển thẳng): Đây là trường hợp
tiêu thụ hàng hoá bán cho khách hàng không qua kho của doanh nghiệp mà giao
thẳng từ bến cảng nhà ga hoặc từ nơi mua hàng. Bán buôn vận chuyển thẳng là
phương pháp bán hàng tiết kiệm được chi phí lưu thông và tăng nhanh sự vận động
của hàng hoá. Tuy nhiên phương thức này chỉ được thựchiện trong điều kiện cung
ứng hàng hoá có kế hoạch, hàng hoá không cần có sự phân loại, chọn lọc hay bao
gói của đơn vị bán. Bán buôn không qua kho có hai hình thức:
+ Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: Theo hình thức này bên
bán buôn căn cứ vào hợp đồng mua hàng để nhận hàng của nhà cung cấp bán thẳng
cho khách hàng theo hợp đồng bán hàng không qua kho của doanh nghiệp. Nghiệp
vụ mua và bán xẩy ra đồng thời. Bên bán buôn vừa tiến hành thanh toán với bên
cung cấp về hàng mua vừa tiến hành thanh toán với bên mua về hàng bán. Nếu
hàng hoá giao thẳng do doanh nghiệp chuyển đến bên mua theo hợp đồng thì số
hàng đó vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và chỉ được coi là tiêu thụ khi
bên mua trả tiền hoặc thông báo đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán. Còn
nếu bên mua cử người đến nhận hàng trực tiếp thì khi giao xong, hàng hoá được
coi là tiêu thụ theo hình thức này bên bán giao cho bên mua là hoá đơn GTGT hoặc
hoá đơn bán hàng và chi phí vận chuyển bên bán buôn phải chịu.
+ Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: Doanh nghiệp bán
buôn là đơn vị trung gian trong quan hệ giữa bên cung cấp và bên mua. Công ty uỷ
nhiệm cho bên mua nhận hàng và thanh toán tiền hàng với bên cung cấp về số
hàng trong hợp đồng mà công ty đã ký kết với bên cung cấp. Trong nghiệp vụ này,
công ty không phát sinh nghiệp vụ mua hàng, bán hàng. Tuy nhiên, tuỳ theo điều
kiện đã ký kết trong hợp đồng mà bên bán buôn được hưởng một khoản hoa hồng
do bên cung cấp hoặc bên mua trả. Sau đó, bên cung cấp gửi cho doanh nghiệp bán

buôn hoá đơn bán hàng để theo dõi việc thực hiện hợp đồng đã ký. Theo hình thức
này, doanh nghiệp không ghi nhận nghiệp vụ mua hàng cũng như bán hàng.
2.1.2 Bán lẻ hàng hoá
Bán lẻ hàng hoá là giai đoạn cuối cùng của sự vận động hàng hoá từ nơi sản
xuất đến nơi tiêu thụ, hàng hoá được bán trực tiếp cho người tiêu dùng, kết thúc
nghiệp vụ này hàng hoá được chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực tiêu
dùng. Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện. Bán lẻ hàng hoá là
bán trực tiếp cho người tiêu dùng, cho cơ quan xí nghiệp phục vụ nhu cầu sinh hoạt
không mang tính chất sản xuất kinh doanh. Đặc điểm của phương thức bán hàng
này là hàng hoá bán ra với khối lượng ít, thanh toán ngay và hình thức thanh toán
thường là tiền mặt nên không lập chứng từ cho từng lần bán.
∗ Các hình thức bán lẻ hàng hoá
- Bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này nhân viên bán hàng chịu trách
nhiệm vật chất về số hàng nhận bán tại quầy, trực tiếp thu tiền và giao cho khách
hàng đồng thời ghi chép vào thể quầy hàng. Thẻ quầy hàng có thể mở cho từng mặt
hàng, phản ánh cả số lượng và giá trị. Cuối ca, cuối ngày nhân viên bán hàng kiểm
kê tiền bán hàng và kiểm kê hàng tồn quầy để xác định lượng hàng đã bán ra trong
ca, trong ngày rồi sau đó lập báo cáo bán hàng. Tiền hàng được nhân viên bán hàn
kê vào giấy nộp tiền nộp cho thủ quỹ của doanh nghiệp hoặc ngân hàng. Báo cáo
bán hàng là căn cứ để ghi nhận doanh thu và đối chiếu với số tiền đã nộp theo giấy
nộp tiền.
Hình thức này giúp cho việc bán hàng được nhanh hơn. tuy nhiên, nó lại bộc lộ
nhược điểm:
+ Nếu quản lý không chặt chẽ thì sẽ xẩy ra hiện tượng lạm dụng tiền bán hàng.
+ Do người bán hàng vừa thu tiền vừa bán hàng nên trong những giờ cao điểm
dễ gây nhầm lẫn, mất mát.
- Bán lẻ thu tiền tập trung
Đối với thu tiền tập trung thì thì việc thu tiền và bán hàng tách rời nhau. Mỗi
quầy hàng, cửa hàng có một nhân viên thu ngân viết hoá đơn và thu tiền của khách
hàng, sau đó giao cho khách hàng để khách hàng đến nhận hàng tại quầy hàng.

Nhân viên bán hàng chỉ có nhiệm vụ căn cứ vào hoá đơn hoặc tích kê để giao hàng
cho khách và chịu trách nhiệm về số hàng đã xuất ra. Báo cáo bán hàng do nhân
viên bán hàng lập, còn giấy nộp tiền do nhân viên thu ngân lập rồi nộp lên phòng
kế toán. Báo cáo bán hàng được lập căn cứ vào hoá đơn hoặc tích kê giao hàng
hoặc kiểm kê hàng tồn cuối ca, cuối ngày để xác định lượng hàng bán ra. Báo cáo
bán hàng được coi là căn cứ để hạch toán doanh thu và đối chiếu với số tiền đã
nộp.
Phương pháp này tách giữa người bán hàng và người giữ tiền, do đó tránh
được những nhầm lẫn, sai sót,mất mát và phân định rõ trách nhiệm.
Tuy nhiên hình thức này cũng còn có nhược điểm gây phiền hà cho khách hàng.
Do vậy hiện này phương pháp này ít áp dụng, chủ yếu là áp dụng với những mặt
hàng có giá trị lớn.
2.2. Phương thức gửi bán
Theo phương thức này căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, đến ngày giao hàng bên
bán chuyển hàng cho bên mua theo địa chỉ đã ghi trong hợp đồng bằng phương tiện
vận tải tự có hoặc thuê ngoài. Số hàng gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp. Khi người mua thông báo đã nhận được hàng, thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán về số hàng chuyển giao thì số hàng gửi bán được coi là tiêu thụ. Chi phí
vận chuyển tuỳ theo hợp đồng quy định mà bên mua hoặc bên bán chịu.
2.3. Phương thức bán hàng đại lý (ký gửi)
Đây lầ hình thức doanh nghiệp thương mại xuất hàn nhờ bán hộ thông qua đại
lý (ký gửi) hoặc nhận hàng đại lý của doanh nghiệp khác để bán hộ.
2.3.1. Đối với bên giao đại lý.
Theo phương thức này, doanh nghiệp thương mại giao hàng cho bên nhận đại
lý, bên nhận đại lý sẽ trực tiếp bán hàng, thanh toán cho doanh nghiệp thương mại
và được hưởng hoa hồng do bên giao đại lý trả. Hàng giao cho đại lý vẫn thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp và chưa xác định là hàng tiêu thụ. Doanh nghiệp
chỉ hạch toán vào doanh thu khi nhận được tiền thanh toán hoặc chấp nhận thanh
toán của bên giao đại lý.
Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có)

trên tổng giá trị hàng gửi bán đã tiêu thụ mà không được trừ đi phần hoa hồng phải
trả cho bên nhận đại lý. khoản hoa hồng doanh nghiệp đã trả coi như một khoản chi
phí và được hạch toán vào TK 641.
II.3.2. Đối với bên nhận đại lý
Số hàng bán đại lý không thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp
có trách nhiệm phải bảo quản, giữ gìn, bán hộ và được hưởng hoa hồng theo hợp
đồng đã ký. Số hoa hồng đó chính là doanh thu trong hợp đồng bán hàng hộ của
doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp mua đứt bán gọn để hưởng chênh lệch giá,
thì doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT trên phần chênh lệch giá đó. Ngược
lại nếu doanh nghiệp bán đúng giá do bên giao đại lý quy định và phần hoa hồng
theo tỷ lệ thoả thuận thì toàn bộ số thuế GTGT do bên đại lý chịu, doanh nghiệp
không phải chịu thuế GTGT trên phần hoa hồng được hưởng.
2.4. Phương thức bán hàng trả góp
Theo phương thức này, người mua sẽ trả tiền hàng làm nhiều lần. Khách hàng
sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua, số tiền còn lại khách hàng sẽ trả dần
ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thực chất của phương
thức này là bán hàng trực tiếp kết hợp cho khách hàng vay vốn. Thông thường số
tiền phải trả ở các kỳ tiếp theo bằng nhau, trong đó bao gồm một phần doanh thu
gốc (tính theo giá bán thu tiền một lần) và một phần lãi trả chậm tính vào thu nhập
của hoạt động tài chính (TK 711). Vì vậy, gián bán theo phương thức trả góp bao
giờ cũng cao hơn giá bán thông thường. Theo phương thức này, khi giao hàng cho
người mua thì hàng chuyển giao đã coi là hàng tiêu thụ nhưng về thực chất thì chỉ
khi nào người mua trả hết tiền hàng thì doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu.
2.5. Phương thức hàng đổi hàng
Trường hợp này khác với các hình thức tiêu thụ khác là người mua không trả
bằng tiền mà trả bằng hiện vật ( hàng hoá, vật tư…). việc trao đổi hàng hoá thường
có lợi cho cả hai bên vì nó tránh được việc thanh toán bằng tiền, tiết kiệm được
vốn lưu động đồng thời tiêu thụ được hàng hoá.
Theo hình thức này căn cứ vào hợp đồng kinh té mà hai bên đã ký kết với
nhau, hai bên tiến hành trao đổi hàng hoá của mình cho nhau trên cơ sở ngang giá

(có thể theo giá thị trường hoặc giá thoả thuận). Trong trường hợp này hàng gửi đi
coi như bán và hàng nhận về coi như mua.
2.6. Tiêu thụ nội bộ
Tiêu thụ nội bộ là phương thức tiêu thụ mà việc mua bán hàng hoá, dịch vụ
diễn ra giữa các đơn vị trực thuộc hạch toán độc lập với nhau hay giữa các đơn vị
trực thuộc hạch toán độc lập với đơn vị cấp trên (trong công ty, Tổng công ty …),
hay trường hợp đơn vị cấp trên xuất bán tại các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ
thuộc. Tiêu thụ nội bộ còn bao gồm các khoản hàng hoá, dịch vụ xuất biếu tặng,
quảng cáo, tiếp thị , trả lương, thưởng, phục vụ sản xuất kinh doanh …
Để phản ánh chính xác kết quả tiêu thụ hàng hoá, yêu cầu đặt ra là phải xác
định đúng giá vốn hàng bán. Có nhiều phương pháp xác định giá vốn hàng bán,
doanh nghiệp nên lựa chọn phương pháp giá vốn cho phù hợp với đặc điểm kinh
doanh của doanh nghiệp mình.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ VỐN.
Để xác định kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp, cần phải xác định phương pháp
tính trị giá mua của hàng hoá đã tiêu thụ trong kỳ của doanh nghiệp. Khi hàng hoá
đã tiêu thụ và xác định doanh thu thì đồng thời giá trị hàng hoá xuất kho hoặc gửi
bán cũng được phản ánh theo giá vốn hàng bán để xác định kết quả. Việc xác định
giá vốn hàng bán căn cứ vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và phương pháp
tính giá hàng xuất kho mà doanh nghiệp áp dụng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc
nhất quán trong kế toán tức là sử dụng phương pháp thống nhất trong niên độ kế
toán.
Trị giá mua hàng tồn kho được phản ánh vào tài khoản hàng tồn kho theo giá
thành thực tế của hàng mua nhập kho bao gồm: trị giá mua thực tế phải trả cho
người bán, chi phí vận chuyển, bốc dỡ… trong quá trình mua hàng và thuế nhập
khẩu (nếu có). Doanh nghiệp có thể kế toán hàng tồn kho theo giá thực tế hoặc giá
kế hoạch. Trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại, hàng hoá xuất kho phải
được thể hiện theo giá vốn thực tế. Trị giá vốn của hàng xuất bán bao gồm: trị giá
mua của hàng tiêu thụ thực tế và chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.
Để tính giá thực tế của hàng xuất kho, kế toán phải tách riêng hai bộ phận như

mô hình trên. Hơn nữa hàng mua về nhập kho có thể theo những giá khách nhau
mỗi thời điểm khác nhau trong kỳ hạch toán nên để tính chính xác giá vốn của khối
lượng hàng tiêu thụ là rất phức tạp. Có thể khái quát trình tự tính giá vốn theo 3
bước:
B1: Xác định số lượng hàng hoá tiêu thụ theo từng loại và theo từng
khách hàng.
B2: Xác định giá đơn vị của từng loại hàng xuất ra (theo đối tượng mua).
B3: Phân bổ chi phí thu mua cho hàng tiêu thụ theo các tiêu thức phù hợp (số
lượng, doanh thu, trị giá mua…).
3.1. Chi phí thu mua và phân bổ chi phí thu mua
3.1.1. Chi phí thu mua.
Chi phi thu mua (chi phí mua hàng) là những chi phí phát sinh trong quá trình
doanh nghiệp mua hàng hoá để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh của mình. Chi phí
này bao gồm những khoản sau:
- Chi phí bảo quản
- Chi phí thuê kho bãi để chứa hàng
- Chi phí bảo hiểm hàng hoá trong khâu mua hàng
- Hao hụt định mức trong khâu mua hàng
- Công tác phí người đi đường
- Hoa hồng trả cho đơn vị nhận uỷ thác mua hoặc uỷ thác nhập khẩu
3.1.2. Phân bổ chi phí thu mua cho hàng tiêu thụ
Do chi phí thu mua hàng hoá có liên quan đến cả lượng hàng hoá tiêu thụ
trong kỳ và tồn kho cuối kỳ nên phân bổ cho cả hàng tiêu thụ và hàng tồn kho cuối
kỳ theo tiêu thức phù hợp. Việc lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí thu mua cho
hàng tiêu thụ sẽ tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp cụ thể, nhưng phải thực
hiện nhất quán trong một niên độ kế toán.
Phân bổ chi phí thu mua cho hàng còn lại cuối kỳ gồm:
- Hàng mua đang đi đường
- Hàng đang tồn kho
- Giá trị hàng gửi bán


x
Trị giá
mua h ng à
tồn cuối kỳ
Chi phí mua Chi phí mua hàng
Chi phí mua hàng hàng tồn đầu kỳ phát sinh trong kỳ
phân bổ cho hàng =
còn lại cuối kỳ Trị giá mua hàng xuất bán trong
+
kỳ và tồn cuối kỳ
Chi phí thu mua Chi phí Chi phí mua Chi phí mua hàng
phân bổ cho hàng = mua hàng tồn + hàng phát sinh - phân bổ cho hàng
tiêu thụ trong kỳ đầu kỳ trong kỳ còn lại cuối kỳ
Để xác định được giá vốn hàng bán, trong các doanh nghiệp khác nhau thì việc
sử dụng phương pháp hạch toán giá mua hàng tiêu thụ cũng khác nhau.
3.2. Phương pháp tính trị giá mua hàng xuất bán
Doanh nghiệp phải tính chính xác giá vốn hàng hoá tiêu thụ vì mỗi lần hàng
hoá được nhập với số lượng vàn đơn giá khác nhau. Khi xuất hàng hoá tiêu thụ
doanh nghiệp phải hạch toán giá trị hàng xuất theo một phương pháp nhất định để
hạch toán tiết kiệm và rút ngắn được thời gian. Xác định chính xác giá vốn sẽ giúp
doanh nghiệp tính đúng thu nhập và lãi thuần. Các doanh nghiệp có thể áp dụng
một trong số những phương pháp tính giá vốn sau đây:
3.2.1. Phương pháp giá đơn vị bình quân
Theo phương pháp này giá thực tế hàng hoá xuất kho trong kỳ được tính theo
giá bình quân: bình quân cả kỳ dự trữ (bình quân gia quyền), bình quân sau mỗi lần
nhập (bình quân liên hoàn), bình quân cuối kỳ trước (bình quân đầu kỳ trước).
Giá thực tế h ng hoá xuà ất kho
Số lượng h ng hoá xuà ất kho
Đơn giá bình quân

(Giá đơn vị bình quân)
=
+


- Phương phaựp bỡnh quân cả kỳ dự trữ
Là phương pháp tính được trị giá vốn của số hàng xuất bán ngày cuối kỳ trên cơ sở
tính giá bình quân cả kỳ kinh doanh. Trong kỳ, hàng hoá xuất kho không được ghi
sổ, cuối kỳ căn cứ vào số tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ kế toán tính giá thực tế đơn
vị bình quân.
Công thức tính như sau:
Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
+
Số lượng h ng tà ồn đầu kỳ
Số lượng h ng nhà ập trong kỳ
Giá thực tế h ng hoá tà ồn đầu kỳ
Giá thực tế h ng hoá nhà ập trong kỳ
+
=



Theo phương pháp này giá hàng hoá xuất kho tiêu thụ được tính một cách đơn
giản và phản ánh kịp thời sự biến động của giá hàng nhập trong kỳ. Tuy nhiên, độ
chính xác không cao, công việc tính toán dồn vào ngày cuối tháng, gây ảnh hưởng
đến công tác quyết toán nói chung.
- Phương pháp bình quan sau mỗi lần nhập xuất (phương pháp bình quân
liên hoàn)
Theo phương pháp này, trị giá vốn của hàng xuất tính theo giá bình quân của
lần nhập liền trước với nghiệp vụ xuất, sau mỗi lần nhập kho giá thức tế của hàng

hoá được tính lại để làm cơ sở tính giá hàng xuất cho lần nhập sau đó. Trị giá hàng
xuất kho tiêu thụ được tính trên cơ sở giá thực tế bình quân sau mỗi lần nhập tại
thời điểm tương ứng:
+
Giá đơn vị thực tế bình quân sau mỗi lần nhập
+
Số lượng h ng tà ồn trước khi nhập lần n
Số lượng h ng hoá nhà ập lần n
Trị giá mua thực tế h ng hoá tà ồn trước khi nhập lần n
=
+ +
Trị giá
h ng nhà ập lần n
=


Ưu điểm của phương pháp này là không phải chờ đến cuối tháng mới xác định
được giá vốn hàng xuất bán mà sau mỗi lần nhập xác định được ngay giá đơn vị
bình quân.Với phương pháp này thì giá vốn được tính chính xác, cập nhật.
Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là đối với những doanh nghiệp có số
lượng nhập xuất trong kỳ nhiều thì khối luơợng tính toán lớn và sau mỗi lần nhập
ta phải tính lại đơn giá hàng hoá. Do đó phương pháp này chỉ thích hợp với những
doanh nghiệp có số lượng nhập kho ít và áp dụng kế toán máy.
- Phương pháp bình quân cuối kỳ trước
Giá thực tế hàng hoá xuất kho được tính trên cơ sở số lượng hàng hoá xuất
kho và giá đơn vị bình quân của một đơn vị hàng hoá cuối kỳ trước.
Giá đơn vị bình quân
Giá thực tế h ng tà ồn cuối kỳ trước
Số lượng h ng hoá tà ồn cuối kỳ trước
=


Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, dễ làm, đảm bảo giá trị hàng hoá
xuất kho có thể xác định ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ. Nhưng phương pháp này
có nhược điểm là nếu hai kỳ có sự biến động về giá cả thì giá trị hàng xuất bán sẽ
không chính xác. Phương pháp này phù hợp với những doanh nghiệp ít có biến
động về giá cả.
3.2.2. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này, giả thiết số hàng hoá nào đó được nhập vào trước thì
xuất trước, xuất hết số hàng nhập trước thì mới đến số hàng nhập sau theo giá mua
thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá
thực tế hàng mua trước sẽ làm giá để tính giá thực tế hàng hoá xuất trước và do vậy
giá trị hàng tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của những hàng mua sau cùng.
Phương pháp này đảm bảo việc tính giá vốn hàng bán kịp thời, chính xác, sát với
thực tế vận động của hàng hoá và giá cả, công việc kế toán không bị dồn vào ngày
cuối tháng. Song phương pháp này đòi hỏi tổ chức rất chặt chẽ, hạch toán chi tiết
hàng tồng kho cả về số lượng và giá trị theo từng mặt hàng và từng lần mua hàng.
Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định và có xu hướng giảm.
3.2.3 Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)
Phương pháp này giả định những hàng nào mua sau cùng sẽ được xuất trước
tiên, sau đó mới đến hàng nhập trước đó.
Cũng như phương pháp nhập trước - xuất trước, phương pháp đảm bảo tính chính
xác của giá trị hàng xuất. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi yêu cầu quản lý cao,
tổ chức hạch toán chi tiết hàng tồn kho. Phương pháp này phù hợp với những
doanh nghiệp ít mặt hàng và giá cả có xu hướng tăng.
3.2.4. Phương pháp giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này giá thực tế hàng xuất kho tiêu thụ sẽ căn cứ vào đơn
giá thực tế của hàng hoá nhập kho theo từng lần nhập. Tức là hàng hoá nhập kho
theo giá nào thì xuất kho theo giá đó mà không quan tâm đến thời hạn nhập. Do
vậy phương pháp này còn có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương
pháp trực tiếp.

Phương pháp này phản ánh chính xác từng lô hàng xuất, nó đảm bảo cân đối
giữa mặt giá trị và mặt hiện vật. Tuy nhiên, công việc rất phức tạp nó đòi hỏi thủ
kho phải quản lý chi tiết lô hàng, vì vậy nó được áp dụng cho các loại hàng hoá có
giá trị cao, các loại hàng hoá đặc biệt. Thường thì phương pháp này được áp dụng
chủ yếu trong trường hợp hàng giao bán thẳng, trong các trường hợp hàng lưu
chuyển qua kho thì giá thực tế đích danh chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp quản
lý được kho hàng theo lượt nhập và xuất.
3.2.5. Phương pháp xác định theo trị giá hàng tồn kho cuối kỳ trên cơ sở giá
mua thực tế cuối cùng
Phương pháp này thường được áp dụng đối với doanh nghiệp hạch toán hàng
tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Cơ sở của việc tính giá trị hàng tồn
kho cuối kỳ theo giá mua thực tế lần cuối cùng, đến cuối kỳ hạch toán trước hết
phải kiểm kê số hàng tồn kho.
Giá mua thực tế của Số lượng hàng Đơn giá mua lần
hàng tồn kho cuối kỳ tồn kho cuối kỳ cuối cùng trong kỳ
Phương pháp này tính toán đơn giản, nhanh chóng nhưng độ chính xác không cao
vì nó không phản ánh được sự biến động giá cả và doanh nghiệp khó xác định một
cách chính xác giá trị hàng mất mát, hư hỏng do đó phương pháp này chỉ vận dụng
trong điều kiện không tổ chức được kế toán chi tiết theo từng mặt hàng.
3.2.6. Phương pháp giá hạch toán
Vì hàng hoá nhập kho từ nhiều nguồn với giá cả khác nhau. Trong khi đó hàng
hoá phải xuất bán để tăng nhanh vòng quay của vốn, cho nên để hạch toán kịp thời
doanh nghiệp phải sử dụng giá hạch toán để phản ánh trị giá hàng xuất bán. Toàn
bộ biến động hàng hoá trong kỳ được tính theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc
giá ổn định trong kỳ). Giá hạch toán do doanh nghiệp tự quy định, có tính chất ổn
định và nó chỉ dùng để ghi sổ kế toán hàng ngày, chứ không có ý nghĩa trong việc
thanh toán. Giá hạch toán được quy định thống nhất trong kỳ hạch toán.
- Đối với hàng hoá nhập trong kỳ thì kế toán ghi trị giá hàng hoá theo hai loại
giá: giá thực tế và giá hạch toán.
- Đối với hàng hoá xuất kho trong kỳ thì kế toán chỉ phản ánh giá trị hàng hoá

theo giá hạch toán. cuối kỳ khi đẫn tính được giá thực tế hàng hoá sẽ tiến hành điều
chỉnh giá hạch toán xuất kho trong kỳ về giá thực tế.
Trị giá hạch toán h ng hoá xuà ất kho trong kỳ
Số lượng h ng xuà ất kho
x
Đơn giá hạch toán
=

+
=
Trị giá thực tế của h ng hoá xuà ất kho
x
Trị giá h ng hoá xuà ất kho
Hệ số giá giữa giá thực tế v giá hà ạch toán
=
+
Hệ số giá
Giá thực tế h ng hoá tà ồn đầu kỳ
Giá hạch toán h ng tà ồn đầu kỳ
Giá hạch toán h ng nhà ập trong kỳ
+
Giá thực tế h ng hoá nhà ập trong kỳ
=
Trong đó hệ số giá giữa giá thực tế và giá hạch toán được xác định bởi công
thưc sau:
Hạch toán theo phương pháp này có ưu điểm là không mấy khó khăn, phức
tạp. Hơn nữa trong thực tế các nghiệp vụ xuất hàng hoá diễn ra liên tục, việc hạch
toán theo giá thực tế sẽ phức tạp và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, phương pháp
này có nhược điểm là thông tin kế toán sẽ giảm độ tin cậy và đến cuối kỳ phải thực
hiên bút toán đối chiếu.

4. TÀI KHOẢN, CHỨNG TỪ HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ
4.1. Tài khoản sử dụng hạch toán
4.1.1. Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên
 TK 156 – Hàng hoá. Dùng để phản ánh trị giá thực tế hàng hoá tại kho, tại
quầy, chi tiết theo từng kho, quầy, nhóm, thứ hàng hoá.
Bên nợ :
- Phản ánh các nghiệp vụ làm tăng giá thực tế hàng hoá (giá mua và chi phí
thu mua) tại kho, quầy.
Bên có:
- Trị giá mua của hàng xuất kho.
- Trị giá hàng hoá trả lại người bán.
- Phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.
Dư nợ:
- Trị giá hàng tồn kho, tồn quầy.
- Chi phí thu mua hàng tồn kho.
TK 156 chi tiết thành:
1561 - Giá mua hàng hoá. TK này được sử dụngđể phản ánh giá trị hiện có và
tình hình biến động của hàng hoá mua vào và đã nhập kho.
1562 - Chi phi thu mua hàng hoá. Phản ánh chi phí thu mua và phân bổ chi phí
thu mua cho hàng hoá tiêu thụ trong kỳ và tồn kho cuối kỳ.
 TK 157 - Hàng gửi bán. TK này được sử dụng để theo dõi giá trị hàng hoá
tiêu thụ theo phương thức chuyển hàng hoá, hàng hoá gửi bán đại lý, ký gửi.người
mua hàng chưa chấp nhận thanh toán, số hàng hoá vẫn thuộc sở hữu của doanh
nghiệp. TK này được mở chi tiết cho từng loại hàng, từng lần gửi hàng cho đến khi
được chấp nhận thanh toán.
Bên nợ:
- Giá trị hàng gửi bán (cho khách hàng hoặc nhờ bán đại lý, ký gửi)
- Giá trị hàng hoá đã thực hiện với khách hàng nhưng chưa được khách hàng
chấp nhận.
Bên có:

- Giá trị hàng hoá đã được khách hàng thanh toán.
- Giá trị hàng bán bị từ chối, trả lại.
Dư nợ: Trị giá hàng tồn cuối kỳ.
 TK 511 - Doanh thu bán hàng. TK này được dùng để phản ánh tổng số
doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp trong kỳ và các khoản làm giảm trừ
doanh thu.
Bên nợ:
- Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu tính trên doanh số bán trong kỳ.
- Số giảm giá hàng bán và hàng bị trả lại.
- Kết chuyển doanh thu thuần vào kết quả hoạt động kinh doanh.
Bên có: Doanh thu bán hàng hoá, sản phẩm trong kỳ.
TK 511 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 4 tiểu khoản sau:
+ TK 5111: Doanh thu bán hàng hoá.
+ TK 5112: Doanh thu bán thành phẩm.
+ TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ.
+ TK5114: Doanh thu trợ cấp, trợ giá.
 TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Bên nợ: Trị giá vốn cùa hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
Bên có: Kết chuyển trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ trong kỳ vào TK xác định
kết quả kinh doanh.
TK 632 cuối kỳ không có số dư.
 TK3331 - Thuế GTGT phải nộp. TK này sử dụng để phản ánh số thuế GTGT
đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT đã nộp và còn phải nộp vào ngân
sách này nước.
Bên nợ:
- Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ.
- Số thuế GTGT được giảm trừ vào số thuế GTGT phải nộp.
- Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách nhà nước.
- Số thuế GTGT của hàng bán bị rả lại.
Bên có:

- Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ.
- Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu
tặng, sử dụng nội bộ.
- Số thuế GTGT phải nộp cho hoạt đông tài chính, thu nhập bất thường.
- Số thuế GTGT phải nộp của hàng hoá nhập khẩu.
Số dư:
+ Bên có - Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ.
+ Bên nợ - Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, trong quá trình hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, kế toán còn
sử dụng một số tài khoản liên quan khác như TK111, 112, 131, 334, 512…
4.1.2.Đối với doanh nghiệp áp dụng kiểm kê định kỳ.
Các tài khoản sử dụng trong phương pháp này có kết cấu giống kê khai thường
xuyên. Tuy nhiên, có một số tài khoản có kết cấu khác:
 TK 156 - Hàng hoá. Phản ánh trị giá hàng tồn kho tồn quầy, chi tiết theo
từng thứ từng loại…
- Bên nợ: Trị giá hàng tồn kho, tồn quầy cuối kỳ
- Bên có: Kết chuyển trị giá hàng tồn kho, tồn quầy đầu kỳ.
- Dư nợ: Trị giá hàng tồn kho, tồn quầy.
 TK 611 - Mua hàng hoá. TK này phản ánh trị giá hàng mua vào theo giá
thực tế và được mở chi tiết theo từng thứ, từng kho, từng quầy hàng.
Bên nợ:
- Kết chuyển trị giá thực tế hàng tồn đầu kỳ, hàng gửi bán, hàng đang đi đường.
- Trị giá hàng mua vào trong kỳ.
Bên có:
- Giảm giá hàng mua và hàng bị trả lại.
- Trị giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ
- Kết chuyển hàng tồn kho, hàng đang đi đường, hàng gửi bán cuối kỳ.
Tài khoản này cuối kỳ không có số dư.
4.2. Thủ tục chứng từ ban đầu của hạch toán quá trình tiêu thụ
Hạch toán ban đầu là công việc đầu tiên cần thiết và quan trọng của kế toán.

Khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, để phản ánh đồng thời và chính xác cả về số
lượng và chất lượng, giá cả, thời gian, địa điểm của nghiệp vụ kinh tế phát sinh,
thông qua đó là việc sử dụng các loại chứng từ và luân chuyển chứng từ. Từ đó làm
cơ sở cho việc hạch toán chi tiết và tổng hợp. Quá trình luân chuyển chứng từ gồm
các khâu sau:
- Lập chứng từ (tiếp nhận chứng từ) là nội dung các yếu tố đã quy định như
giao cho bên mua phải có chứng từ bán hàng và là thủ tục thanh toán.
- Kiểm tra chứng từ về nội dung và hình thức.
- Sử dụng chứng từ cho việc ghi sổ kế toán.
- Bảo quản và sử dụng chứng từ trong hạch toán vì trong quá trình đối với
công tác kế toán. do vậy phải bảo quản và giữ gìn tốt chứng từ. Nếu mất chứng từ
là không có cơ sở cho nghiệp vụ kế toán phát sinh.
- Luân chuyển chứng từ vào dự trữ: Sau khi vào nhật ký, kế toán phải đóng
chứng từ thành quyển đính kèm vào sổ nhật ký, sau đó chuyển vào lưu trữ. Khâu
này có tác dụng là khi có sai sót về số liệu thì việc kiểm tra được dễ dàng, nhanh
chóng và là cơ sở cho cán bộ quản lý kiểm tra khi cần thiết. Tổ chức tốt khâu luân
chuyển chứng từ khoa học, hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong công tác kế toán nói
riêng và trong quản lý nói chung. Điều này tăng cường tính kịp thời và nâng cao
hiệu quả sử dụng thông tin. Đồng thời tăng cường việc kiểm tra hàng ngày đối với
mại hoạt động kinh doanh.
Chứng từ ban đầu là cơ sở cho việc ghi sổ kế toán, là cơ sở cho việc kiểm tra
tài chính khi càn thiết, do đó các chứng từ ban đầu phải được tổ chức hợp lý để phù
hợp với công tác quản lý của các cấp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
đơn vị. Nguyên tắc hạch toán là mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở bất cứ bộ phận
nào trong doanh nghiệp đều phải lập chứng từ gốc theo đúng mẫu của Bộ Tài
Chính quy định.
∗ Quá trình tiêu thụ hàng hoá thường sử dụng các loại chứng từ sau:
- Hoá đơn GTGT: Hoá đơn này dùng cho việc bán hàng tịa kho hoặc tại của
hàng của doanh nghiệp. Hoá đơn này do người bán lập làm 3 liên.
+ Liên 1 lưu tại quyển

+ Liên 2 giao cho khách hàng
+ Liên 3 dùng để thanh toán
- Hoá đơn bán hàng kiêm phiếu xuất kho: hoá đơn này dùng cho việc bán
hàng tại các kho của doanh nghiệp. Hoá đơn này lập làm 3 liên.
- Ngoài ra còn có bảng thanh toán tiền hàng đại lý ( ký gửi)…
Hoá đơn chứng từ của người bán xác nhận số lượng hàng hoá, đơn giá, số tiền
đã bán. Hoá đơn là căn cứ để người bán xuất hàng cho người mua, là căn cứ để ghi
sổ kho, ghi sổ kế toán, xác định doanh thu bán hàng và xác định thuế GTGT. Đối với
người mua là căn cứ để vận chuyển hàng hoá trên đường để nhập kho.
Ngoài các chứng từ bán hàng, quá trình tiêu thụ còn sử dụng loại chứng từ tiền
mặt khác như: phiếu thu, phiếu chi, biên lai thu tiền, bảng kiểm kê quỹ…Chứng từ
này dùng để xác định số tiền thực tế nhập quỹ, là căn cứ để thủ quỹ thu tiền, ghi sổ
quỹ và chuyển cho kế toán ghi sổ kế toán.
Trình tự luân chuyển chứng từ bán hàng hoá được mô tả dưới dạng sơ đồ sau:
LUÂN CHUYỂN CHỨNG TỪ BÁN HÀNG
Đơn đặt h ngà
Kế toán tiêu thụ v thanh toánà
Kế toán h ng hoáà
Kho
Bộ phận vận chuyển
Bộ phận t i và ụ
Bộ phận bán h ngà


Đầu tiên bộ phận bán hàng tiếp nhận đơn đặt hàng của khách hàng. Sau đó
chuyển đơn đặt hàng cho phòng thường vụ để xác định phương thức tiêu thụ. Khi
chấp nhận bán hàng, bộ phận bán hàng sẽ lập hoá đơn bán hàng (hoặc hoá đơn
kiêm phiếu xuất kho) giao cho kho, cho khách hàng hoặc bộ phận vận chuyển. Thủ
kho căn cứ vào hoá đơn kiêm phiếu xuất kho tiến hành xuất kho, ghi thẻ kho và
chuyển hoá đơn này cho kế toán tiêu thụ và thanh toán. Căn cứ vào giấy chấp nhận

thanh toán hoặc phiếu thu kế toán tiêu thụ ghi sổ bán hàng và theo dõi thnah toán
với người mua.
Căn cứ vào những chứng từ ban đầu gắn với các phương thức tiêu thụ kế toán
tiến hành tính toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá.

×