Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.96 KB, 24 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ
BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN
HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm hàng hoá và hoạt động kinh doanh thương mại
Trong bối cảnh nền kinh tế đa phương hoá, toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế thế giới
như hiện nay, ngành thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở rộng buôn
bán, trao đổi với các nước phát triển, phục vụ nhu cầu tiêu dùng và thúc đẩy nền kinh tế
trong nước phát triển. Một trong các đối tượng quan trọng của hoạt động kinh doanh
thương mại đó là hàng hoá.
Tuỳ mỗi doanh nghiệp có đặc điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và quy mô hoạt
động khác nhau mà kinh doanh các mặt hàng khác nhau. Hàng hoá trong doanh nghiệp
thương mại rất phong phú và đa dạng. Nó là những vật phẩm có hình thái vật chất hoặc
không có hình thái vật chất mà doanh nghiệp mua về để bán phục vụ cho nhu cầu sản xuất
và nhu cầu tiêu dùng để nhằm mục đích thu lợi nhuận
Xét theo từng ngành hàng thì hàng hoá bao gồm: hàng hoá vật tư, thiết bị; hàng hoá công nghệ
thực phẩm tiêu dùng; hàng hoá lương thực thực phẩm chế biến…
Hàng hoá này được mua từ nơi sản xuất, các đơn vị xuất nhập khẩu, được chuyển đến
tay người tiêu dùng thông qua hoạt động kinh doanh thương mại. Hoạt động kinh doanh
thương mại là hoạt động lưu thông, phân phối hàng hoá trên thị trường bán buôn trong
từng quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau nhằm thực hiện quá trình lưu chuyển hàng
hoá từ nơi sản xuất, xuất nhập khẩu đến nơi tiêu dùng.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh thương mại ảnh hưởng đến kế toán bán
hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
Xuất phát từ vai trò, đặc điểm của hàng hoá trong hoạt động kinh doanh thương mại
đòi hỏi phải tổ chức quản lí chặt chẽ hàng hoá cả về mặt số lượng và giá trị; tổ chức hoạt
động kinh doanh thương mại sao cho phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh và tình
hình thực tế của đơn vị mình. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh thương mại bao gồm các đặc
điểm cơ bản như sau:
Đặc điểm về lưu chuyển hàng hoá: Lưu chuyển hàng hoá là quá trình vận động khép kín
một vòng lưu chuyển hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại. Quá trình lưu chuyển hàng hoá


bao gồm có ba khâu: mua hàng, dự trữ và bán hàng.
Hàng hoá mua về cho quá trình luân chuyển với số lượng nhiều hay ít là tuỳ thuộc
vào đặc điểm kinh doanh, thị trường tiêu thụ, đặc tính của sản phẩm và khả năng kinh
doanh của doanh nghiệp sao cho đảm bảo mức dự trữ hợp lí, tránh số lượng hàng hoá tồn
kho nhiều gây tốn kém chi phí lưu trữ bảo quản, ứ đọng vốn, kéo dài vòng luân chuyển của
hàng hoá.
Lưu chuyển hàng hoá gồm hai giai đoạn: mua hàng và bán hàng. Hai giai đoạn này có
thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau theo từng đặc điểm cụ thể của mỗi
doanh nghiệp.
Đặc điểm về tổ chức đơn vị kinh doanh: Các đơn vị kinh doanh có thể tổ chức theo
nhiều mô hình khác nhau như tổ chức bán buôn, bán lẻ, kinh doanh tổng hợp, chuyên môi
giới, xúc tiến thương mại, đại lí theo các quy mô như quầy hàng, cửa hàng, công ty, tổng công
ty, đại lí…sao cho phù hợp với đặc điểm thực tế của doanh nghiệp và thúc đẩy hoạt động
kinh doanh phát triển mạnh.
1.1.3. Ý nghĩa và nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
1.1.3.1. Ý nghĩa
Bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình hoạt động kinh doanh thương mại, là qúa
trình chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá từ tay người bán sang tay người mua để nhận lấy
quyền sở hữu về tiền tệ hoặc quyền được đòi tiền người mua hàng hoá đó.
Về mặt kinh tế, bán hàng chính là sự thay đổi hình thái giá trị của hàng hoá từ hình
thái hiện vật sang hình thái tiền tệ. Lúc đó doanh nghiệp kết thúc chu kỳ kinh doanh, vòng
chu chuyển của vốn đã được hoàn thành.
Về mặt kĩ thuật, bán hàng là một quá trình bao gồm từ việc tổ chức đến thực hiện trao
đổi, mua bán hàng hoá thông qua các khâu nghiệp vụ kinh tế, kĩ thuật, hành vi mua bán nhằm
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bán hàng có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà
còn có ý nghĩa đối với sự phát triển chung của toàn xã hội.
Với doanh nghiệp: Bán hàng là điều kiện tiên quyết giúp cho doanh nghiệp tồn tại và
phát triển. Thông qua bán hàng doanh nghiệp sẽ thu được doanh thu, nhanh chóng thu hồi
vốn và quay vòng vốn tạo ra lợi nhuận. Từ đó doanh nghiệp có điều kiện phân phối một

cách hợp lí, hài hoà giữa ba lợi ích: lợi ích của Nhà nước thông qua nộp thuế và các khoản
phí; lợi ích của người lao động thông qua việc trả lương, thưởng, các khoản phụ cấp và các
khoản trích theo lương và lợi ích của doanh nghiệp thông qua lợi nhuận thu được.
Với nền kinh tế quốc dân: Bán hàng chính là điều kiện gắn kết giữa lưu thông hàng
hoá và lưu thông tiền tệ, thực hiện chu chuyển tiền tệ, ổn định giá trị của đồng tiền, tạo ra
việc làm và góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động và góp phần thúc đẩy đất
nước phát triển.
Về mặt kế toán, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng là một công cụ quản
lí đắc lực, giúp cho doanh nghiệp có thể quản lí, theo dõi tình hình tiêu thụ hàng hoá và tính
ra lãi, lỗ của hoạt động kinh doanh. Từ đó, lập các báo cáo kế toán cung cấp thông tin cần
thiết cho ban lãnh đạo của doanh nghiệp cũng như các cơ quan chủ quản và các nhà quan
tâm để căn cứ vào đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn.
Bên cạnh với bán hàng, xác định kết quả bán hàng cũng có vai trò quan trọng. Kết
quả bán hàng là kết quả cuối cùng của hoạt động kinh tế được thực hiện trong một thời kỳ
nhất định. Kết quả bán hàng chính là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Thông qua xác định kết quả bán hàng, doanh nghiệp sẽ có được các thông tin về
lợi nhuận - đây là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
hiện nay. Nó là yếu tố quan trọng nhất trong việc quyết định sự sống còn của doanh
nghiệp. Giúp cho doanh nghiệp có thể tái mở rộng sản xuất kinh doanh, góp vốn liên doanh
liên kết, tạo công ăn việc làm cho người lao động, và là nguồn để doanh nghiệp thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Cũng thông qua việc xác định kết quả sẽ giúp cho các nhà
ra quyết định có được các thông tin về quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mình để từ đó phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn, đem lại
hiệu quả hoạt động kinh doanh cao nhất.
1.1.3.2. Nhiệm vụ
Bán hàng và xác định kết quả bán hàng có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức quản lí tốt
các nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá.
Muốn các nghiệp vụ bán hàng và xác định kết quả bán hàng hoá được quản lí tốt, kế
toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Ghi chép và phản ánh kịp thời, chính xác tình hình xuất bán hàng hoá của doanh nghiệp
về cả mặt số lượng và giá trị; doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu.
- Ghi chép đầy đủ và chính xác các khoản chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng,
giá vốn hàng bán để làm cơ sở để xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong kỳ.
- Phân bổ chi phí thu mua hàng hoá cho hàng hoá bán ra và hàng hoá còn tồn kho để
tính giá vốn hàng bán một cách chính xác.
- Quản lí một cách chặt chẽ số lượng hàng hoá tồn kho, tình hình biến động của hàng
hoá để phát hiện và xử lí kịp thời hàng hoá ứ đọng tồn kho.
- Lựa chọn đúng đắn phương pháp tính giá vốn hàng xuất bán; theo dõi tình hình thanh
toán với khách hàng, nhà cung cấp và tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước
- Cung cấp các thông tin chính xác và cần thiết giúp cho ban giám đốc nắm được tình hình,
thực trạng tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp để từ đó đề ra những chính sách kinh doanh thích
hợp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển.
1.2. KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG
1.2.1. Các phương thức bán hàng
Trong doanh nghiệp thương mại, việc tiêu thụ hàng hoá có thể được thực hiện theo
bốn phương thức chủ yếu sau đây:
1.2.1.1. Phương thức bán buôn hàng hoá
Đây là phương thức bán hàng cho các đơn vị, tổ chức mua hàng hoá về để tiếp tục
quá trình lưu chuyển hàng hoá hoặc mua về để gia công chế biến rồi bán ra như các doanh
nghiệp thương mại khác, các doanh nghiệp sản xuất…Số lượng hàng hoá được bán nhiều
hay ít, giá bán dao động, hình thức thanh toán…như thế nào là tuỳ thuộc vào sự thoả thuận
giữa bên bán và bên mua, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của người mua…Trong
bán buôn hàng hoá bao gồm hai phương thức sau đây:
 Phương thức bán buôn hàng hoá qua kho: Là phương thức hàng hoá được bán ra từ kho
bảo quản cuả doanh nghiệp. Trong phương thức bán buôn bao gồm hai phương thức bán
hàng:
Bán buôn qua kho theo phương thức giao hàng trực tiếp: Căn cứ vào hợp đồng kinh
tế thoả thuận giữa hai bên về các phương thức thanh toán, số lượng hàng hoá, chất lượng
hàng hoá, các dịch vụ sau bán, các khoản giảm trừ cho khách hàng…và giấy uỷ nhiệm,

khách hàng sẽ đến tận kho của doanh nghiệp để nhận hàng và vận chuyển hàng về. Đến
đây, hàng hoá đã được coi là tiêu thụ và ghi nhận doanh thu. Mọi chi phí và rủi ro phát sinh
trong quá trình vận chuyển hàng hoá là do khách hàng chịu.
Bán buôn qua kho theo hình thức gửi hàng: Bên bán căn cứ vào hợp đồng kinh tế,
đơn đặt hàng của khách hàng, xuất bán hàng hoá và vận chuyển hàng đến đúng địa điểm
quy định của khách hàng bằng phương tiện vận chuyển của mình hoặc thuê ngoài. Mọi chi
phí và rủi ro phát sinh trong quá trình vận chuyển hàng hoá do khách hàng hoặc do người
bán chịu tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên ghi trong hợp đồng kinh tế. Khi khách hàng
kiểm nhận hàng hoá và chấp nhận thanh toán thì lúc này hàng hoá mới được coi là tiêu thụ.
 Phương thức bán buôn vận chuyển thẳng: Đây là phương thức doanh nghiệp mua hàng về
không nhập kho mà đem xuất bán ngay cho khách hàng. Phương thức bán hàng này cũng
bao gồm hai phương thức:
Phương thức bán buôn hàng hoá không tham gia thanh toán: Với phương thức này,
doanh nghiệp chỉ đóng vai trò là người môi giới (người thứ ba) để nhận hoa hồng môi giới
bán hàng. Doanh thu được ghi nhận là số tiền hoa hồng môi giới đó. Khách hàng sẽ thanh toán
khoản phải trả nhà nhà cung cấp.
Phương thức bán buôn hàng hoá có tham gia thanh toán (bán thẳng giao nhận trực tiếp với
nhà cung cấp và khách hàng): Theo phương thức này, doanh nghiệp phải tổ chức mua hàng, bán
hàng, thanh toán tiền hàng với nhà cung cấp và thanh toán với khách hàng.
1.2.1.2. Phương thức bán hàng đại lí, kí gửi
Là phương thức bán hàng mà doanh nghiệp (bên giao đại lí) giao hàng cho cơ sở (đại
lí) nhận bán hàng đại lí, kí gửi để cơ sở này trực tiếp bán hàng. Doanh nghiệp sẽ phải trả
cho cơ sở này một khoản được gọi là chi phí hoa hồng bán hàng và khoản này hạch toán
vào chi phí bán hàng. Số hàng giao đại lí này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên giao đại lí,
cho đến khi bên đại lí thông báo bán được hàng hoặc thanh toán tiền hàng cho bên giao đại lí
thì mới được coi là hàng hoá tiêu thụ và ghi nhận doanh thu. Đối với bên đại lí hoa hồng bán
hàng nhận được chính là doanh thu và phải nộp thuế GTGT trên khoản hoa hồng nhận
được này.
1.2.1.3. Phương thức bán lẻ
Đây là phương thức bán hàng cho các tổ chức, cá nhân mua hàng hóa về để tiêu dùng.

Phương thức này có đặc điểm là hàng hoá đã đi ra khỏi lĩnh vực lưu thông, số lượng hàng
hoá bán được không nhiều và chủ yếu là thanh toán ngay bằng tiền mặt.
Trong phương thức bán lẻ bao gồm có các hình thức bán hàng sau:
 Hình thức bán lẻ thu tiền tại chỗ: Với phương thức bán hàng này thì nhân viên bán hàng
đồng thời là nhân viên thu tiền. Đến cuối mỗi ngày, nhân viên bán hàng này sẽ kiểm kê, lập
giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ.
 Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Nhân viên bán hàng và nhân viên thu tiền được tách rời
nhau. Mỗi quầy hàng đều có nhân viên thu tiền và viết hoá đơn GTGT, giao tích kê cho
khách hàng đến nhận hàng tại quầy hàng. Đến cuối mỗi ngày, nhân viên bán hàng căn cứ
vào hoá đơn, tích kê, số lượng hàng hoá tồn tại quầy để xác định số lượng hàng hoá bán ra
trong ngày và lập báo cáo bán hàng; nhân viên thu tiền lập giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ
quỹ.
Ưu điểm: Hình thức bán hàng này hạn chế được sai sót và mất mát trong quá trình bán
hàng, gắn trách nhiệm cho từng nhân viên cụ thể nên có thể thấy được hiệu quả làm việc của
từng người và đề ra các chính sách khen thưởng, kỉ luật hợp lí, công bằng.
Nhược điểm: Thủ tục bán hàng của hình thức bán hàng này cồng kềnh, phức tạp, tốn
nhiều thời gian mua hàng của khách hàng. Do vậy, hình thức bán hàng này chỉ phù hợp với
những mặt hàng có trị giá lớn.
 Hình thức bán lẻ tự phục vụ: Khách hàng sẽ được tự lựa chọn hàng hoá mình cần mua
trong quầy hàng sau đó mang tới quầy thu ngân để thanh toán tiền và viết hoá đơn GTGT.
Hình thức bán hàng này được áp dụng phổ biến trong hệ thống siêu thị, cửa hàng lớn…
1.2.1.4. Phương thức bán hàng trả góp
Khi xuất bán hàng hoá cho khách hàng, khách hàng sẽ thanh toán một khoản tiền nhất
định vào lần đầu tiên, số còn lại khách hàng sẽ được nợ và chịu một khoản lãi suất cho số
nợ đó. Với phương thức bán hàng này thì doanh thu được tính trên số tiền khách hàng trả
một lần, còn số tiền lãi suất thu được được coi là doanh thu chưa thực hiện và hàng kì phân
bổ vào doanh thu hoạt động tài chính.
1.2.2. Các phương thức xác định giá mua hàng xuất bán
Mỗi doanh nghiệp tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động kinh doanh, yêu cầu quản lí,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kế toán viên mà xác định phương pháp tính giá vốn

hàng bán khác nhau. Phương pháp tính giá vốn hàng bán này được đăng kí với cơ quan
thuế và được áp dụng nhất quán trong một kỳ kế toán. Các phương pháp xác định giá vốn
hàng bán bao gồm:
1.2.2.1. Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
Theo phương pháp này, giá vốn hàng xuất bán được tính theo giá đơn vị bình quân cả
kỳ dự trữ và được tính theo công thức sau đây:
Giá đơn vị
bình quân cả
kỳ dự trữ
=
Giá thực tế hàng tồn đầu kỳ + Giá thực tế hàng nhập trong kỳ
Số lượng hàng tồn đầu kỳ + Số lượng hàng hoá nhập trong kỳ
Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính toán, không phụ thuộc vào số lần xuất, nhập hàng hoá
trong kì nhiều. Do vậy, phù hợp với những doanh nghiệp kinh doanh với quy mô lớn, các
nghiệp vụ kinh tế xuất, nhập hàng hoá diễn ra liên tục.
Nhược điểm: Với phương pháp này công việc tính giá vốn hàng xuất bán được dồn
hết vào cuối kì kế toán nên nhiều khi gây nên sự chồng chéo trong công việc và việc tính
giá theo phương pháp này có độ chính xác không cao.
1.2.2.2. Phương pháp giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này khi xuất lô hàng nào thì được tính theo giá thực tế nhập kho
đích danh của lô hàng đó. Với những doanh nghiệp có điều kiện bảo quản từng lô hàng
nhập kho riêng biệt thì việc tính giá vốn hàng xuất bán theo phương thức này là rất hợp lí.
Do vậy, để áp dụng được phương pháp này một cách có hiệu quả trong việc tính giá vốn
hàng xuất bán thì doanh nghiệp phải xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc bảo quản hàng hoá nhập kho theo từng lô hàng riêng biệt.
Ưu điểm: Công việc tính giá được tiến hành kịp thời, thông qua việc tính giá hàng hoá
xuất kho, kế toán có thể theo dõi được hạn bảo quản của từng lô hàng hoá. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt đối với những hàng hoá lương thực thực phẩm.
Nhược điểm: Yêu cầu về cơ sở vật chất kho tàng bảo quản của doanh nghiệp phải tốt,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo quản riêng biệt từng lô hàng hoá khác nhau.

1.2.2.3. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)
Giá vốn hàng xuất bán được tính trên cơ sở giả định hàng hoá nào nhập kho trước thì
sẽ xuất trước. Như vậy, hàng hoá xuất kho của lần nhập nào thì sẽ được tính giá theo giá
thực tế nhập kho của lần nhập đó.
Ưu điểm: Với phương pháp này giúp kế toán tính giá hàng xuất bán một cách kịp thời.
Nhược điểm: Hàng hoá tồn kho cuối kỳ có thể của nhiều lần nhập kho khác nhau, do
vậy trị giá hàng tồn kho được tính theo nhiều giá khác nhau nên việc xác định trị giá hàng
tồn kho sẽ phức tạp hơn và dễ gây ra sự nhầm lẫn, đồng thời phương pháp tính giá này gây
nên tình trạng phản ánh chi phí không theo kịp với sự biến động giá cả của thị trường.
Do vậy, phương pháp này chỉ thích hợp với những doanh nghiệp kinh doanh ít chủng
loại hàng hoá và số lần xuất nhập hàng hoá không nhiều.
1.2.2.4. Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)
Với phương pháp này thì hàng hoá nào được nhập vào sau sẽ được xuất bán trước.
Về cơ bản ưu, nhược điểm của phương pháp này giống với phương pháp nhập trước xuất
trước. Nhưng với phương pháp nhập sau xuất trước đã khắc phục được nhược điểm của
phương pháp nhập trước xuất trước là phản ánh chi phí kịp thời với sự biến động của giá
cả thị trường.
1.2.2.5. Phương pháp giá hạch toán
Giá hạch toán là giá ổn định có thể là giá kế hoạch, giá mua hàng hoá vào một thời
điểm nhất định, giá bình quân tháng trước…mà doanh nghiệp dùng để hạch toán khi doanh
nghiệp có nhiều nghiệp vụ xuất bán hàng hoá, tình hình giá cả thị trường biến động liên
tục, kinh doanh nhiều loại hàng hoá khác nhau, doanh nghiệp không thể hoặc chưa thể tính
được giá thực tế hàng hoá xuất bán. Đến cuối mỗi tháng, kế toán phải tính chuyển giá hạch
toán sang giá thực tế theo công thức như sau:
Giá thực tế hàng xuất bán = Hệ số giá x Giá hạch toán hàng hoá xuất bán
Hệ
số
giá
=
Giá thực tế hàng tồn đầu kỳ + Giá thực tế hàng nhập trong kỳ

Giá hạch toán hàng hoá tồn đầu kỳ + Giá hạch toán hàng hoá nhập trong kỳ
Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản, dễ làm, việc tính giá được tiến hành nhanh
chóng và không phụ thuộc vào số lần xuất nhập hàng hoá trong kỳ. Phương pháp này thích
hợp cho những doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng và có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ về kế toán cao.
1.2.3. Kế toán giá vốn hàng bán
Để thuận lợi cho việc so sánh giữa cơ sở lí luận với thực trạng kế toán bán hàng và
xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHH Thương mại dịch vụ công nghệ thông tin –
TSI nên trong phần lí luận này em xin đề cập đến kế bán hàng và xác định kết quả bán hàng
trong doanh nghiệp áp dụng phương pháp hạch toán hàng tồn kho KKTX.
 Chứng từ kế toán sử dụng trong nghiệp vụ bán hàng bao gồm:
Hoá đơn GTGT (đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ)
Hoá đơn bán hàng thông thường (với doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp
hoặc doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không chịu thuế GTGT)
Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ
Bảng kê bán lẻ hàng hoá
Hoá đơn cước phí vận chuyển hàng hoá
Hợp đồng kinh tế
Các chứng từ phản ánh nghiệp vụ thanh toán với khách hàng
Phiếu thu, chi, giấy báo nợ, giấy báo có của ngân hàng, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu…
 Tài khoản sử dụng
Căn cứ vào chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định 15/2006/QĐ/BTC
ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì kế toán nghiệp vụ bán hàng và xác định
kết quả bán hàng nói chung và kế toán giá vốn hàng bán nói riêng sử dụng tài khoản sau
đây:
Tài khoản 632: Giá vốn hàng bán
Tài khoản này được sử dụng để phản ánh trị giá vốn thực tế hàng hoá xuất bán trong kỳ.
Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên nợ:
+ Giá trị hàng tồn kho thiếu, mất sau khi đã trừ đi các khoản bồi thường

+ Chi phí thu mua hàng hoá phân bổ cho hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
+ Phản ánh giá vốn hàng hoá tiêu thụ trong kỳ
+ Trích lập dự phòng khoản giảm giá hàng tồn kho trong kỳ
Bên có:
+ Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho
+ Giá vốn hàng bán bị trả lại
+ Kết chuyển giá vốn hàng hoá tiêu thụ trong kỳ vào tài khoản xác định kết quả tiêu thụ

×