Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân thành phố tân an, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BỘI CHÂU

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN,
TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BỘI CHÂU

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN,
TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng

Nghệ An, 2017


Nghệ An, 2017


2
LỜI CẢM ƠN

Kính thưa Ban Giám hiệu và quý Thầy Cô trường Đại học Vinh và Đại học
kinh tế công nghiệp Long An.
Trong q trình học tập tại trường, Tơi cảm thấy mình đã được sự tận tâm
hướng dẫn của quý Thầy Cô giảng dạy và được trang bị vốn kiến thức về chun
ngành chính trị học vơ cùng bổ ích để vận dụng vào thực tiễn cơng tác, đó là
những giá trị vô cùng quý báu. Nhân đây, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng đã trực tiếp hướng dẫn Tôi làm luận văn chuyên
ngành chính trị học. Xin chân thành cảm ơn trường Đại học Vinh và Đại học
kinh tế công nghiệp Long An đã tạo môi trường và điều kiện học tập để học viên
hồn thành khóa học một cách tốt nhất.
Do vốn kiến thức bản thân có hạn và khả năng nghiên cứu cịn hạn chế,
Luận văn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong tiếp tục nhận được sự
giúp đỡ của quý Thầy Cô, Hội đồng bảo vệ luận văn để bản thân bổ cứu, hoàn
chỉnh đề tài được tốt hơn nhằm vận dụng vào thực tiễn công tác.
Xin trân trọng cảm ơn!
Long An, ngày 02 tháng 7 năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Bội Châu


3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................. 1

Lời cảm ơn................................................................................................... 2
Mục lục ........................................................................................................ 3
Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................... 4
Danh mục các bảng ..................................................................................... 5
A. MỞ ĐẦU................................................................................................ 6
B. NỘI DUNG ............................................................................................ 14
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ................................. 14
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh .............................................................................................. 18
1.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh ............................................................................................................... 21
Kết luận Chương 1 ...................................................................................... 46
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN, TỈNH LONG AN
2.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội thành phố Tân An .... 48
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An
…51
Kết luận Chương 2 ...................................................................................... 78
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
TÂN AN, TỈNH LONG AN
3.1. Quan điểm để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân Hội đồng nhân dân thành phố Tân An ................................................. 80
3.2. Những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân thành phố Tân An ............................................................... 85
Kết luận Chương 3 ...................................................................................... 104
C. KẾT LUẬN ..................................................................................... 106
D. DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ......................... 108

E. TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 109
F. PHỤ LỤC............................................................................................... 115


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

UBMTTQ

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


5

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 2.1. Số lượng và cơ cấu đại biểu HĐND thành phố Tân An
nhiệm kỳ 2011-2016........................................................................................ 52
Bảng 2.2. Chủ tịch, phó Chủ tịch HĐND thành phố Tân An nhiệm kỳ
2016-2021........................................................................................................ 54
Bảng 2.3. Thành viên Ban pháp chế HĐND thành phố Tân An nhiệm kỳ
2016-2021........................................................................................................ 55
Bảng 2.4. Thành viên Ban kinh tế - xã hội HĐND thành phố Tân An nhiệm
kỳ 2016-2021 .................................................................................................. 55


6
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Vì vậy, tiếp tục cải
cách, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Bộ
máy nhà nước nói chung và hệ thống chính quyền địa phương nói riêng, trong
đó có Hội đồng nhân dân các cấp là yêu cầu khách quan và tất yếu. Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do đó xây dựng Hội đồng nhân
dân các cấp có thực quyền để đảm đương tốt vai trị, trách nhiệm của mình là
một vấn đề cần thiết hiện nay.
Hội đồng nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng ở địa
phương, đồng thời thực hiện chức năng giám sát. Việc thực hiện chức năng giám
sát của Hội đồng nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện vai trò của cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện tốt chức năng giám sát là một
trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước
ở địa phương, đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân địa phương.
Hiến pháp năm 2013; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật hoạt động giám sát Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 kế thừa các văn bản quy phạm pháp luật
trước đây, bổ sung nhiều điểm mới và nội dung cơ bản như: tiếp tục khẳng định
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống


7
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[51.tr.8-9], và “Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”[51.tr.10], “Cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước; Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của công dân”[51.tr.16-17]. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà
nước, quyền lực nhà nước do Nhân dân trao cho cơ quan nhà nước đại diện để
thực thi quyền lực, quản lý và phát triển xã hội vì mục tiêu chung, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của Nhân dân. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là
một quyền chính trị cực kì quan trọng của công dân, đảm bảo cho công dân thực
hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thực hiện phương châm mọi công
việc của nhà nước, của xã hội “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của cơng dân được thể hiện bằng
nhiều hình thức khác nhau: cơng dân có quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan

quyền lực nhà nước; đóng góp ý kiến xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, giáo dục; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội,..
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng nhiều hình thức, song hình
thức cơ bản nhất là Nhân dân thơng qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện
quyền lực của mình. Theo điều 27 Hiến pháp năm 2013, cơng dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Cụ thể hóa Điều 27 Hiến pháp năm
2013, Nhà nước ta đã ban hành Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân năm 2015, ngoại diên của Luật bầu cử đã được mở rộng thêm
“cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa


8
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh
sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi
người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc”[56.tr.35-36]. Nhờ quyền bầu cử
mà cơng dân có thể lựa chọn những người ưu tú nhất, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng, và quyền lợi của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, giải quyết
những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Quyền bầu cử của công dân được
thực hiện với ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, thể
hiện chế độ dân chủ rộng rãi của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội. Thể hiện
quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân quyết định những
vấn đề quan trọng nhất của địa phương. Hội đồng nhân dân được Hiến pháp năm
2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 giao cho nhiều nhiệm
vụ và quyền hạn nhằm thực hiện công cuộc xây dựng địa phương về mọi mặt và
góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, thực hiện thắng lợi cơng
cuộc đổi mới. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương,nhiệm vụ quyền hạn

của Hội đồng nhân dân được quy định rõ cho từng cấp.
Với quy định đó, mọi tổ chức và hoạt động của nhà nước phải tuân theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy
phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền [51.tr.10]. Bởi vì, giám sát là một
trong những chức năng cơ bản của Hội đồng nhân dân các cấp, thể hiện trách
nhiệm của cơ quan quyền lực nhà nước trước cử tri. Thông qua hoạt động giám
sát giúp Hội đồng nhân dân theo dõi, kiểm tra đánh giá công tác tổ chức thực
hiện pháp luật, Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Đồng thời, để đại biểu nắm


9
thông tin đưa ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế địa
phương, đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực
thi cơng vụ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp
nói chung, Hội đồng nhân dân thành phố Tân An nói riêng có nhiều chuyển biến
rõ rệt. Hàng năm Hội đồng nhân dân thành phố Tân An đều xây dựng chương
trình kế hoạch giám sát; tổ chức các đồn giám sát; đối tượng giám sát cũng như
lĩnh vực giám sát đều có chọn lọc; thời gian giám sát phù hợp; các chủ thể giám
sát đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước tại địa phương.
Tuy nhiên trong thực tiễn, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân vẫn
còn một vài hạn chế như việc theo dõi kết quả thực hiện các kiến nghị sau giám
sát, kiến nghị của cử tri, khiếu nại của cơng dân có lúc chưa thường xuyên; kỹ
năng giám sát của một vài đại biểu Hội đồng nhân dân còn hạn chế do đại biểu
kiêm nhiệm chủ yếu tập trung cho công tác chuyên môn, chưa bố trí thời gian
thỏa đáng cho hoạt động đại biểu; đại biểu thực hiện chức năng giám sát và chất

vấn còn mặt hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu và quyền hạn, trách nhiệm của người
đại biểu; một vài đại biểu không tham gia phát biểu tại các kỳ họp và dự tiếp xúc
cử tri không đầy đủ làm ảnh hưởng đến hoạt động chung của Hội đồng nhân dân
thành phố Tân An.
Từ những vấn đề trên cho thấy rằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung, Hội đồng nhân dân thành
phố Tân An nói riêng là cần thiết. Đặc biệt việc đi sâu nghiên cứu thực trạng
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại một địa bàn cụ thể như Thành phố
Tân An lại càng có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Chính vì thế, qua thời gian
đào tạo chương trình thạc sĩ chính trị học tại trường Đại học Vinh, được tiếp thu
những kiến thức lý luận cùng với những kinh nghiệm tích lũy được trong quá


10
trình cơng tác tại địa phương, với mong muốn kết hợp lý luận và thực tiễn, tác
giả chọn vấn đề ”Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân thành phố Tân An, tỉnh Long An” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành chính
trị học.
Việc nghiên cứu hoạt động giám sát và chất lượng hiệu quả giám sát của
cơ quan dân cử ở nước ta được đề cập nhiều trên sách, báo, tạp chí và nhiều
cơng trình khoa học với nhiều góc độ, phạm vi khác nhau như: Nguyễn Hải
Long, Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân,
Luận án Tiến sĩ (2012); Đỗ Thị Phương, Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sĩ (2009); Trần Thị Liên, Hiệu quả hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Luận văn Thạc sĩ (năm
2011); Phạm Quang Hưng, Năng lực thực hiện chức năng giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Hải Dương đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai,
Luận văn Thạc sĩ (năm 2007); PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng, Giám sát, phản
biện xã hội của mặt trận và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Đại học Sài Gịn, số 13/ 2013; PGS.TS. Phạm Hồng Thái, Một số vấn đề

về vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân, Tạp chí Quản lý nhà nước số 9/2002;
GS.TS. Đào Trí Úc, Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước
và các cơ chế thực hiện giám sát, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; Ths.
Hà Ngọc Anh, Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí khoa học chính trị, số 6/2014; Ths.Bùi Giang
Hưng, Nguyên tắc, nội dung, hình thức và phương pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh, Tạp chí khoa học chính trị số 1+2/2015; Ths.
Bùi Giang Hưng, Một số ý kiến về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh ở nước ta, Tạp chí khoa học chính trị số 3/2015; Nguyễn
Hải Long, Bàn về quy định Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm, Tạp chí
Khoa học pháp lý số 2/2010; Bùi Xuân Đức, Tăng cường hoạt động giám sát


11
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân và nhân dân đối với
bộ máy nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2004; Phan Tuấn Khải, Tổ
chức và hoạt động của HĐND trong điều kiện hiện nay, Nghiên cứu lập pháp, số
6/2002; Nguyễn Ký, Đổi mới phương thức hoạt động của HĐND đáp ứng sự mong
đợi của nhân dân, Tạp chí quản lý Nhà nước số 6/2005.
Các Luận án, luận văn, bài viết đã góp phần làm rõ cơ sở pháp lý về vị trí,
chức năng và hoạt động của Hội đồng nhân dân, phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động của Hội đồng nhân dân ở một số địa phương cụ thể. Đồng thời, các
cơng trình nghiên cứu cũng đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, các
bài viết, cơng trình trên chủ yếu từ góc độ tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân, chưa đi sâu vào hoạt động giám sát cũng như chất lượng, hiệu quả
giám sát của Hội đồng nhân dân và các bài viết viết trước khi Luật hoạt động
giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 ban hành (Luật có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2016) đã có nhiều vấn đề mới được đặt ra cả về lý luận và
thực tiễn. Do đó, nghiên cứu về hoạt động giám giám cũng như hiệu quả giám

sát của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung, Hội đồng nhân dân thành phố Tân
An nói riêng là một yêu cầu cần thiết hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào trọng tâm là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An, từ đó tìm ra các ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân thành phố Tân An trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu


12
Làm rõ về mặt lý luận, các khái niệm liên quan đến hoạt động giám sát;
phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
huyện (Hội đồng nhân dân thành phố Tân An).
Phân tích thực tiễn hoạt động giám sát, đánh giá một cách có hệ thống,
tồn diện các quy định về hoạt động giám sát và chất lượng hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An.
Xác định những quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long
An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân cấp huyện. Phân tích thực tiễn hoạt động giám sát, đánh giá
chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An,
tỉnh Long An nhiệm kỳ 2011-2016 và từ năm 2016 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Hội đồng nhân dân,
chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân.

Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
như: tổng hợp, phân tích, thống kê, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn,…
6. Đóng góp mới của đề tài
Khái quát những nét cơ bản về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp huyện.
Góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận, đánh giá một cách có hệ thống,
toàn diện về hoạt động giám sát và chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng


13
nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An nhiệm kỳ 2011-2016 và từ năm 2016
đến nay.
Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giám sát Hội
đồng nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay có thể
làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy Đảng trong việc hoạch định các chính
sách về hoạt động giám sát và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An và trong cả nước nói
chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Chương 2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành
phố Tân An, tỉnh Long An.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An.


14

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH

1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm Hội đồng nhân dân
Trong cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân là
cơ quan có vai trị đặc biệt quan trọng. Điều 113 Hiến pháp 2013 quy định:”Hội
đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”[51.t
r.50].
Như vậy, trong Bộ máy nhà nước Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ Nhân dân ở địa phương đó. Có thể khái qt vị
trí pháp lý của Hội đồng nhân dân thơng qua các đặc điểm: Hội đồng nhân dân
là một trong những mắt xích cơ bản trong mối liên hệ giữa Nhân dân địa phương
với các cơ quan nhà nước; là cơ quan nhà nước do Nhân dân địa phương trực
tiếp bầu ra để thay mặt Nhân dân địa phương và trong phạm vi quy định của
pháp luật quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của Nhân dân địa
phương; là trung tâm tổ chức việc thực hiện các quyết định của các cơ quan nhà
nước cấp trên; là trung tâm điều hòa phối hợp hoạt động tất cả cơ quan nhà nước
ở địa phương; là cơ sở để thành lập các cơ quan nhà nước ở địa phương; là trung
tâm, thơng qua đó Nhân dân địa phương tham gia vào quản lý nhà nước và quản
lý xã hội ở địa phương; là một trong những hình thức cơ bản để Nhân dân tự tổ


15
chức thành nhà nước xã hội chủ nghĩa; các quyết định của Hội đồng nhân dân có

hiệu lực pháp lý trong phạm vi địa phương.
Xét về mặt tính chất, Hội đồng nhân dân vừa mang tính đại diện cho Nhân
dân địa phương, vừa mang tính quyền lực nhà nước ở địa phương. Tính đại diện
của Hội đồng nhân dân thể hiện ở chỗ Hội đồng nhân dân là cơ quan quy nhất ở
địa phương do cử tri ở địa phương bầu ra. Do vậy, Hội đồng nhân dân là cơ
quan đại diện tiêu biểu nhất cho tiếng nói Nhân dân, đại diện cho trí tuệ tập thể
của Nhân dân ở địa phương. Tính quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân
thể hiện ở chỗ Hội đồng nhân dân là cơ quan được Nhân dân giao quyền để thay
mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định các vấn
đề quan trọng của địa phương, biến ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa
phương thành những chủ trương, biện pháp có tính bắt buộc thi hành ở địa
phương.
Với vị trí, tính chất nêu trên, Hội đồng nhân dân có chức năng quan trọng
là quyết định và giám sát. Tại khoản 2, điều 113 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân”. Cụ thể: Hội đồng nhân dân quyết định những chủ
trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phịng, an ninh,
khơng ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân địa phương.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND, TAND, VKSND; giám sát việc thực hiện các nghị quyết; giám
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế-xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Như vậy Hội đồng nhân dân vừa là một cơ quan trong Bộ máy nhà nước,
vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho Nhân dân địa phương và có quyền quyết


16
định những vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát việc tuân theo pháp luật

của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế - xã hội, công dân ở địa phương nhằm
phát huy tiềm năng của địa phương trên mọi mặt kinh tế - xã hội.
1.1.2. Khái niệm giám sát, giám sát của Hội đồng nhân dân, giám sát
chuyên đề
Giám sát: Theo quy định tại khoản 1, điều 2 Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015:”Giám sát là việc chủ thể giám sát
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan
có thẩm quyền xử lý”[57.tr.10].
Như vậy, giám sát ln thể hiện tính chủ động trong hoạt động có mục
đích được xác định trước của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và hoạt động
giám sát được thực hiện thường xuyên theo một chương trình kế hoạch nhất
định; Giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định;
Giám sát phải thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể thực hiện hoạt động giám sát
với đối tượng chịu sự giám sát, là quan hệ mang tính quyền lực nhà nước.Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì nếu như thiếu những quy định này thì
chủ thể giám sát khơng có cơ sở để thực hiện quyền giám sát và tiêu chí để đưa
ra những nhận định về hoạt động của đối tượng chịu giám sát.
Tóm lại, giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, giám sát bao giờ
cũng có hai giai đoạn: giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra và giai đoạn đánh
giá, đưa ra kết luận. Trong đó giai đoạn thứ nhất là cơ sở để thực hiện giai đoạn
thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì việc đánh giá, kết
luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát sẽ hiệu quả.


17
Giám sát của Hội đồng nhân dân: Tại khoản 6, điều 2, Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: ”Giám sát của
Hội đồng nhân dân bao gồm giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám

sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân”[57.tr.10-11].
Như vậy, Giám sát của HĐND là tổng thể các hoạt động của HĐND, của
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và các đại biểu
HĐND nhằm xem xét, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp,
Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân trên các lĩnh vực của địa phương đối với các đối tượng chịu sự giám
sát của HĐND.
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 thì Hội đồng nhân dân, Thường
trực HĐND, các Ban HĐND, đại biểu HĐND là chủ thể giám sát. Thường trực
HĐND, UBND, TAND, VKSND, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân địa phương là đối tượng chịu sự
giám sát. Do vậy, đối tượng giám sát của HĐND là rất rộng và quy định như vậy
vừa thể hiện được vị trí của HĐND trong bộ máy nhà nước, là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, vừa đảm bảo cho Hiến pháp, Luật, các Nghị quyết
của HĐND được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi địa phương.
Giám sát chuyên đề: Khoản 4, điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Giám sát chuyên đề là việc chủ
thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá vấn đề hoặc hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật”[
57.tr.10]. Như vậy, giám sát chuyên đề gần như bao hàm các hình thức giám sát
khác; nội dung giám sát chuyên đề được lựa chọn là những nội dung quan trọng
có tác động mạnh đến đời sống người dân và trong phát triển kinh tế - xã hội;


18
đối tượng chịu sự giám sát và địa bàn giám sát rộng; thời gian triển khai giám
sát dài nên có điều kiện xem xét, nghiên cứu kỹ những vấn đề liên quan đến nội
dung giám sát; kết quả giám sát được báo cáo cho đại biểu HĐND và những
kiến nghị sau giám sát có tính pháp lý cao.

Nghị quyết về chương trình giám sát hàng năm do HĐND ban hành với
các nội dung dự kiến giám sát có phạm vi rộng, chưa xác định rõ đối tượng, thời
gian cụ thể. Vì vậy, khi xác định cụ thể về một cuộc giám sát chuyên đề Đoàn
giám sát cần nghiên cứu các chủ trương, chính sách để xây dựng kế hoạch giám,
trong đó xác định mục đích, u cầu, đối tượng giám sát, thời gian giám sát,
đồng thời xây dựng đề cương yêu cầu báo cáo cho các đối tượng chịu sự giám
sát. Đề cương báo cáo gửi cho đối tượng giám sát để lập báo cáo cần xây dựng
cho từng nhóm đối tượng (đối tượng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực liên
quan đến nội dung giám sát, đối tượng thực hiện…); đề cương càng chi tiết, cụ
thể sẽ giúp cho việc phân tích, tổng hợp các nội dung giám sát có hệ thống, rõ
ràng, đúng hướng, đạt yêu cầu.
Việc giám sát chuyên đề không chỉ là kiểm tra sự tuân thủ pháp luật của
các đối tượng giám sát mà bao gồm cả việc xem xét những chính sách, pháp luật
của các cơ quan nhà nước có cịn phù hợp với thực tiễn địa phương hay khơng
để có kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi chính sách cho phù hợp.
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân Huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh
Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung
là cấp huyện).
Với vai trò là cơ quan của dân, do dân, vì dân, Hội đồng nhân dân phải thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn theo Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy


19
nhà nước; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, ngăn chặn và chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan, cán bộ,
công chức nhà nước. Theo đó, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
quy định Hội đồng nhân dân cấp huyện có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong tổ chức và bảo đảm
việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và trong lĩnh vực quốc phịng, an ninh, xây
dựng chính quyền:
Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng nhân dân huyện; Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng,
an ninh; biện pháp bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh, phịng, chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham
nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ
chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân trên địa bàn huyện theo quy định của pháp luật;
Quyết định biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà
nước cấp trên phân cấp; quyết định việc phân cấp cho chính quyền địa phương,
cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa
phương ở huyện.
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện;
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện; Lấy phiếu tín nhiệmđối với Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban của Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên
Ủy ban nhân dân; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng


20
nhân dân bầu theo quy định; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp
luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; bãi bỏ một phần
hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp xã; Quyết định
thành lập, bãi bỏ cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện; Giải tán
Hội đồng nhân dân cấp xã trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại

nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân và trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê
chuẩn trước khi thi hành; Bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và chấp
nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân huyện xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, tài
nguyên, môi trường:
Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn và hằng năm của
huyện, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện trước khi trình Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh phê duyệt; Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn;
dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách huyện; điều
chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết
toán ngân sách địa phương. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án
của huyện theo quy định của pháp luật; Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát
triển các ngành, lĩnh vực trên địa bàn huyện trong phạm vi được phân quyền;
Quyết định biện pháp quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sơng hồ, nguồn
nước, tài ngun trong lịng đất, nguồn lợi ở vùng biển và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên khác; biện pháp bảo vệ và cải thiện mơi trường, phịng, chống và
khắc phục hậu quả thiên tai, bão, lụt ở địa phương theo quy định của pháp luật;
Quyết định biện pháp phát triển hệ thống giáo dục mầm non, tiểu học và trung
học cơ sở; biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, thơng tin, thể dục, thể thao;
biện pháp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phịng, chống dịch bệnh, thực
hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình; biện pháp phát triển việc làm,
thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có cơng với cách mạng, chính sách


21
bảo trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo; biện pháp bảo đảm việc thực hiện chính
sách dân tộc, tơn giáo trên địa bàn huyện theo quy định của pháp luật.
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện; giám sát hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân

dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm
pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp
xã.
1.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh
1.3.1. Nguyên tắc hoạt động giám sát
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Bảo đảm khách quan, công khai, minh
bạch, hiệu quả; Không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát [57.tr.11]. Đồng thời phải đảm bảo một số
nguyên tắc sau:
Một là, nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước
Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước được quy định
trong Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của
Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các
tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[51.tr.9]. Văn kiện và Nghị quyết Đại hội


22
XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, nhất là nội dung “Nhân dân làm
chủ” và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"; coi
đó là một trong những phương thức hữu hiệu để đưa Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng vào cuộc sống.Hội đồng nhân dân cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để
Nhân dân trực tiếp thể hiện, thực hiện quyền làm chủ trong hoạt động của

Đảng, Nhà nước và hoạt động xã hội. Đại hội XII của Đảng khẳng định chúng
ta xây dựng một xã hội do Nhân dân làm chủ, quyền lực và hạnh phúc thuộc về
Nhân dân. Vì vậy, cần tạo ra nhiều “kênh” để Nhân dân thực hiện quyền làm
chủ trực tiếp của mình, cần tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân; phát huy quyền
làm chủ về chính trị của Nhân dân với các vấn đề trọng đại của địa phương, của
đất nước. Thực hiện tốt phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
giám sát và quản lý mọi hoạt động của xã hội, của Đảng, Nhà nước theo Hiến
pháp và pháp luật [9.tr.166-170].
Tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân thực hiện: “Sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật”, mọi người dân, bất kể là ai đều phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo ấy
phải được thể chế bằng luật định; phải có quy định rõ ràng để bảo đảm tất cả
mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân; Nhân dân có quyền kiểm sốt Nhà nước,
có quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra, nếu đại biểu đó mất tư cách
và khơng làm trịn nhiệm vụ. Đây chính là sự biểu hiện rõ nhất vai trò: “Nhà
nước của dân, do dân, vì dân”; đồng thời, cũng là điểm biểu hiện rõ tư cách
“Nhân dân làm chủ” xã hội.
Hai là, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước". Sau khi khẳng định


23
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Điều 7 Hiến pháp năm 2013 quy
định “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến
hành theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu
Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi
khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân”. Đây chính là hai hình
thức Nhân dân sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước của mình: dân chủ đại

diện và dân chủ trực tiếp.
Với nhận thức đó, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung: "Đảng Cộng
sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám
sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của
mình"; Điều 9 bổ sung: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân
chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân khẳng định Nhân dân là
chủ thể tối cao và duy nhất quyền lực Nhà nước và để bảo đảm nội dung này,
điều 3 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện”. Đồng thời, khoản 2 điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng
Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và mọi biểu hiện quan liên, hách dịch, cửa quyền”.


24
Những nội dung nêu trên đã xác định rõ vai trò chủ thể của Nhân dân đối
với quyền lực Nhà nước. Nhân dân thực hiện hình thức dân chủ đại diện thơng
qua việc bầu cử những người thay mặt mình tham gia vào hệ thống các cơ quan
quyền lực Nhà nước, trong đó HĐND các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.
Hình thức dân chủ đại diện có phát huy được hiệu quả đến đâu là tùy

thuộc vào yếu tố rất quan trọng, đó là: Việc hiệp thương, giới thiệu người ra ứng
cử và việc cơng dân tự ứng cử. Vì vậy, cơng tác hiệp thương, giới thiệu ứng cử
viên đại biểu; việc lựa chọn bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cần tiến hành
thực sự dân chủ, công khai, chú trọng phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực, có
khả năng đại diện cho Nhân dân, có năng lực tham vấn ý kiến Nhân dân về xây
dựng và thực hiện Nghị quyết HĐND. Do đó, cần chú trọng đến năng lực đóng
góp vào hoạt động tập thể Hội đồng Nhân dân, có điều kiện thực hiện nhiệm vụ
đại biểu, khơng nên quá nặng về cơ cấu mà xem nhẹ năng lực của họ.
Hình thức dân chủ trực tiếp: Đây là hình thức thể hiện đầy đủ và cao nhất
ý chí của Nhân dân để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Hiện
nay, Nhà nước ta đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân ngày 25 tháng 11 năm
2015, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 để bảo đảm
hình thức dân chủ trực tiếp được thực hiện đầy đủ hơn. Sau khi Hiến pháp năm
2013 có hiệu lực thi hành, Luật Tiếp cơng dân ngày 25 tháng 11 năm 2013, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 là một trong những đạo luật xác
lập, quy định hình thức dân chủ trực tiếp để bảo đảm địa vị pháp lý chủ thể
quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân.
Ba là, nguyên tắc tập trung dân chủ
Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên
việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này.
Khoản 1, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định:” Nhà nước được tổ chức và


×