Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN LILAMA HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.89 KB, 14 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
LILAMA HÀ NỘI.
1. Những ưu điểm và những vấn đề còn tồn tại.
1.1. ưu điểm.
Đất nước mở cửa và hội nhập, nền kinh tế thị trường đã mang đến cho các
doanh nghiệp nhiều cơ hội mới xong đồng thời cũng đặt ra không ít những khó
khăn và thách thức. Chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước được thực
hiện tại rất nhiều các doanh nghiệp Nhà nước đòi hỏi các doanh nghiệp từ đây phải
hoàn toàn độc lập và tự chủ, tình trạng đợi chờ Nhà nước cấp vốn và bù lỗ không
còn nữa. Sự sống còn của các doanh nghiệp là do các doanh nghiệp tự quyết định.
Chính chính sách đó đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải hoạt động thực sự, phải có
lãi thực sự chứ không còn tình trạng lãi giả lỗ thực nữa. Hơn nữa, trong mỗi lĩnh
vực sự cạnh tranh để tồn tại ngày càng diễn ra gay gắt.Tuy nhiên, với những thành
tích đã đạt được trong thời gian qua, nó đã phần nào phản ánh sự hoạt động có hiệu
quả của doanh nghiệp. Thành quả đó đạt được là sự nỗ lực hết mình của tập thể cán
bộ công nhân viên toàn công ty, họ đã phấn đấu không mệt mỏi, tất cả vì một mục
tiêu phải đưa công ty ngày một phát triển hơn. Với những nhiệt tình và nhiệt huyết
đó, họ đã có những phần thưởng xứng đáng do Nhà nước và do chính bạn hàng của
mình trao tặng.
Về bộ máy quản lý: Nhìn chung, công ty đã xây dựng cho mình một bộ
máy quản lý gọn nhẹ, khoa học. Là công ty cổ phần với những thành phần không
thể thiếu được là BQT, ĐHCĐ, ... Công ty có 3 Phó giám đốc hỗ trợ cho giám đốc,
mỗi người được giao thực hiện một mảng công việc, tránh sự trùng lặp quyền hạn,
lãng phí về nguồn lực.
Về bộ máy kế toán: Hiện nay công ty có một đội ngũ nhân viên kế toán có
năng lực, nhiệt tình, trung thực, được tổ chức hợp lý, linh hoạt, gọn nhẹ, mỗi người
được phân công các công việc cụ thể nên thuận lợi trong công việc, đồng thời khi
có điều kiện luôn giúp đỡ, bổ trợ cho nhau, tinh thần đoàn kết giúp đỡ học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau rất cao. Kế toán trưởng luôn giám sát kịp thời công việc của từng
người trong phòng, chỉnh sửa sai sót (nếu có), đồng thời luôn phổ biến những


thông tin cần thiết, bổ ích về công tác Tài chính - Kế toán, khuyến khích nhân viên
đi học thêm để bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn.
Về mô hình kế toán, Công ty sử dụng mô hình kế toán tập trung nhưng
không cứng nhắc. Mô hình này vừa giúp công ty có thể khắc phục được những khó
khăn do địa bàn hoạt động của công ty tạo ra, vừa để công ty vẫn có thể tổ chức
công tác kế toán một cách tập trung.
Nhìn vào sơ đồ bộ máy kế toán của công ty có thể thấy tổ chức kế toán của
công ty chia làm 6 phần hành cơ bản, các phần hành này được phân chia rất hợp lý
đảm bảo yêu cầu của công tác kiểm toán: Phần hành về các nghiệp vụ thanh toán
được tách riêng ra với các nghiệp vụ về tiền mặt, tránh sảy ra các gian lận về tiền
mặt; bộ phận theo dõi về vật tư tách riêng ra với bộ phận kế toán tổng hợp ( tổng
hợp và tính giá thành sản phẩm ) để có thể kiểm tra và đối chiếu lẫn nhau.
Phòng kế toán của công ty được trang bị hệ thống máy tính điện tử hiện đại
phục vụ cho công tác kế toán. Với hệ thống máy tính này không những giảm nhẹ
khối lượng công việc cho nhân viên kế toán mà còn có thể lưu trữ dữ liệu được dễ
dàng hơn, tính toán được chính xác hơn và khi ban quản lý công ty muốn xem xét
một báo cáo nào đó cũng được nhanh chóng hơn nhờ khả năng có thể kết xuất các
dữ liệu của phần mềm kế toán. ( Công ty sử dụng phần mềm kế toán Fast2005 ).
Công ty lựa chọn hình thức ghi sổ Nhật ký chung rất phù hợp và thuận lợi
cho việc sử dụng kế toán máy.
Về hệ thống chứng từ và sổ sách, công ty tuân thủ theo đúng quy định của
Bộ tài chính.
Riêng với phần hành kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm, như
chúng ta đã biết, lĩnh vực xây lắp bên cạnh các điểm tương đồng với các lĩnh vực
kinh doanh khác thì một điểm nổi bật lên trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm là lập dự toán xây lắp. Với mỗi công trình, để có thể tập hợp đầy
đủ chi phí và thực hiện tốt kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm,
mang lại một lợi nhuận như mong muốn thì nhất thiết phải lập dự toán sản phẩm
xây lắp. Kế toán trên cơ sở dự toán chi phí sản phẩm xây lắp tiến hành tập hợp chi
phí. Dự toán xây lắp cũng được sử dụng vào công việc mua bán vật tư, sử dụng

nhân công đảm bảo đủ dùng cho các công trình mà không xảy ra tình trạng dư
thừa, tốn kém và lãng phí. LILAMA Hà Nội trước mỗi công trình luôn luôn chú ý
thực hiện tốt công việc lập dự toán, tạo điều kiện cho tập hợp chi phí và tính giá
thành sản phẩm và có thể đưa ra giá thầu hợp lý nhất.
Việc tổ chức kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm, công ty thực hiện
tương đối hiệu quả, đảm bảo tập hợp đầy đủ các chi phí phát sinh có liên quan đến
hoạt động sản xuất xây lắp làm cơ sở tính giá thành thực tế SPXL hoàn thành bàn
giao. Kế toán đã cung cấp những thông tin cần thiết về CPSX và giá thành sản
phẩm cho lãnh đạo doanh nghiệp, lập Báo cáo tài chính kịp thời theo qui định của
Nhà nước.
Đối tượng tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm là từng công trình,
HMCT phù hợp với đặc điểm sản xuất xây lắp, công ty đã lập bảng tập hợp CPSX
và tính giá thành rất khoa học đảm bảo thuận tiện cho việc tính giá thành cả về giá
thành sản xuất và giá thành toàn bộ, đồng thời xác định được kết quả SXKD của
công ty trong kỳ.
Việc vận dụng phương pháp trả lương kết hợp lương theo thời gian và lương
theo sản phẩm (lương khoán) đã đảm bảo nguyên tắc “Phân phối theo lao động”, vì
vậy, đã khuyến khích được người lao động nâng cao năng suất lao động, gắn bó và
cống hiến ngày càng nhiều hơn cho công ty. Hơn nữa, theo quy định chung, đối với
các công ty xây lắp thì trong TK 622 không bao gồm các khoản trích theo lương
như KPCĐ, BHXH, BHYT, công ty đã thực hiện theo đúng quy định là hạch toán
các khoản trích theo lương này vào TK 627.
Về quản lý, sử dụng nguyên vật liệu: Công ty đã tận dụng điều kiện thuận
lợi do thị trường mang lại để có biện pháp thu mua, dự trữ nguyên vật liệu hợp lý,
không để tồn kho nhiều, tránh ứ đọng vốn trong dự trữ. Việc cung ứng nguyên vật
liệu trên cơ sở các định mức có cộng với hao hụt trong định mức đã hạn chế được
thất thoát, lãng phí, góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa,
công ty cũng lựa chọn phương pháp hạch toán nguyên vật liệu là phương pháp kê
khai thường xuyên, đúng theo quy định hiện hành trong việc tính giá Nguyên vật
liệu tại các doanh nghiệp xây lắp.

Đối với các công trình ở xa, các công trình cần một số loại máy thi công mà
công ty không có, các đội công trình đã có biện pháp thuê máy thi công để tiết
kiếm chi phí, không làm gián đoạn sản xuất thi công.
Cuối kỳ, các cán bộ kỹ thuật và những người có liên quan của công ty và
bên giao thầu phối hợp kiểm kê đánh giá sản phẩm làm dở một cách khoa học,
chính xác, kịp thời, phục vụ cho việc xác định giá thành sản phẩm hoàn thành.
1.2. Những hạn chế còn tồn tại.
Trên cơ sở các kiến thức được học trong trường và những hiểu biết nhất định
về chế độ và luật kế toán của Việt Nam, theo ý kiến cá nhân, em nghĩ rằng việc tổ
chức kế toán tại công ty là khoa học và hợp lý, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế.
Thứ nhất, về việc tập hợp chi phí máy thi công:
Như chúng ta đã biết, Công ty Cổ phần LILAMA Hà Nội là doanh nghiệp
chuyên về xây dựng và lắp đặt máy công nghiệp, một trong các đặc trưng của
ngành xây dựng là sử dung máy thi công khi thi công các công trình hoặc hạng
mục công trình mà nếu không sử dụng máy hỗ trợ rất khó thực hiện hoặc tốn kém
công sức. Chính vì vậy trong quyết định số 1864/ 1998/ QĐ/ BTC của BTC có
hiệu lực từ ngày 1/1/ 1999, kết cấu giá thành sản phẩm xây lắp gồm có 4 loại:
Chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung và
chi phí máy thi công. Tuy nhiên, khi thực hiện hạch toán chi phí nguyên vật liệu
và tính giá thành sản phẩm, công ty đã không sử dụng Tài khoản 623 để hạch toán
chi phí máy thi công. Việc làm này có thể có ưu điểm là giảm nhẹ được hệ thống
Tài khoản sử dụng trong công ty nhưng nó cũng có một số nhược điểm: Trước hết
là không tuân thủ theo quy định của Bộ tài chính nhưng điều quan trọng hơn là nó
không cho thấy được tỷ lệ chi phí máy thi công trong tổng chi phí của các công
trình và gây một số khó khăn trong việc tập hợp chi phí máy thi công cho các công
trình. Chẳng hạn như khi thuê ngoài máy thi công sử dụng cho các công trình, vì
không có TK 623 kế toán phải hạch toán như sau:
Nợ TK 154
Nợ TK 133
Có TK 331

Và trên Bảng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, chi phí thuê ngoài
này được đưa vào khoản mục chi phí khác.
Thứ hai, về việc phân bổ chi phí sản xuất chung:
Công ty lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chung là chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp. Nhưng với mỗi công trình thì nhu cầu sử dụng nhân công lại
khác nhau. Có công trình thì chi phí nhân công chiếm một tỷ trọng lớn nhưng cũng
có những công trình thì ngược lại. Điều này dẫn đến sự mất chính xác trong việc
phân bổ chi phí sản xuất chung cho các công trình.
Thứ ba, về việc trích khấu hao TSCĐ:
Khi trích khâu hao TSCĐ, công ty không phân biệt đó là TSCĐ của bộ phận
nào, kể cả TSCĐ của bộ phận quản lý. Khoản khấu hao này đều được ghi tăng chi

×