Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.37 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN
TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH
THEO LƯƠNG
I.1 khái niệm và bản chất tiền lương
1. Khái niệm
Có rất nhiều quan điểm khác về tiền lương, tuỳ theo các thời kỳ khác nhau.
Theo quan điểm cũ: Tiền lương và một khoản thu nhập quốc dân được phân
phối cho người lao động căn cứ vào số lượng lao động của mỗi người. Theo quan
điểm này tiền lương vừa được trả bằng tiền, vừa được trả bằng hiện vật thông qua
các chế độ nhà ở, y tế, giáo dục - chế độ tiền lương theo quan điểm này mang tính
bao cấp, bình quân nên không có tác dụng kích thích người lao động. Điều này có
thể thấy trong thời gian kỳ bao cấp, nước ta đã hiểu và áp dụng tiền lương theo
quan điểm này.
Theo quan điểm mới, : Tiền lương được biểu là giá cả của sức lao động, khi
thị trường lao động đang dần được hoàn thiện và sức lao động trở thành hàng hoá.
Nó được hình thành do sự thoả thuận hợp pháp giữa người lao động ( người bán
sức lao động ) và người sử dụng lao động ( người mua sức lao động ). Tiền lương
hay giá cả sức lao động chính là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động theo công việc đã thoả thuận.
Các Mác đã nói: "Để cho sức lao động phát triển theo một hướng nhất định
thì phải có một sự giáo dục nào đó mà chính sự giáo dục này lại tồn tại một loại
hàng hoá ngang giá''. Lượng hàng hoá ngang giá này chính là giá trị sức lao động.
Giá trị sức lao động không phải là yếu tố bất biến mà nó phải thuộc vào nguyên
nhân, yếu tố khách quan, cả chủ quan lẫn khách quan. Tuy vậy, trong mỗi giai
đoạn nhất định của lịch sử, của xã hội thì sức lao động có thể giao động và giá trị
của nó. Phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động trên thị trường và trong cơ
chế thị trường tiền lương phải tuân theo quy luật phân phối theo lao động là chủ
yếu.
2. Bản chất:
Như đã đề cập ở trên, tiền lương thực chất là giá cả sức lao động. Tuy vậy để


thừa nhận điều này thì tiền lương đã trải qua ba điểm, quan điểm không đúng đắn
làm méo mó ý nghĩa đích thực của nó,.
Nếu như trong nền kinh tế bao cấp thì tiền lương không phải là giá cả sức
lao động. Vì nó không thừa nhận và hàng hoá không ngang giá theo quy luật cung
cầu. Thị trường sức lao động về danh nghĩa không tồn tại trong nền kinh tế quốc
dân và phụ thuộc vào quy định của Nhà nước. Sang cơ chế thị trường buộc chúng
ta phải có những thay đổi lại nhận thức về vấn đề này.
Trước hết sức lao động là thứ hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất. Tính
chất hàng hóa cuả sức lao động có thể bao gồm không chỉ lực lượng lao động làm
việc trong khu vực kinh tế tư nhân mà mở công chức làm việc trong lĩnh vực quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Tuy nhiên do đặc thù riêng trong sử dụng lao động của
từng khu vực mà các quan hệ thuê mướn, mua bán hợp đồng lao động cũng khác
nhau, các thoả thuận về tiền lương cũng khác nhau.
Mặt khác tiền lương phải là trả cho sức lao động tức là giá cả hàng hoá sức
lao động mà người lao động và người thuê lao động thoả thuận với nhau theo quy
luật cung cầu, giá cả trên thị trường. Tiền lương là bộ phận cơ bản và giờ đây là
duy nhất trong khu thu nhập người lao động .
Tiền lương là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và đối với chủ doanh nghiệp thì tiền lương là một phần cấu thành
nên chi phí được tính toán quản lý chặt chẽ, đối với người lao động thì tiền lương
là quá trình thu nhập từ lao động của họ, là phần thu nhập chủ yếu với đại đa số
người lao động. Do vậy phấn đấu tiền lương là mục đích hết thảy của người lao
động và chính mục đích này tạo động lực để người lao động phát triển và khả năng
lao động của mình.
Cùng với tiền lương, các khoản bảo hiểm và kinh phí nói trên hợp thành
khoản chi phí về lao động sống trong tổng chi phí doanh nghiệp. Việc tính toán
chính xác chi phí về lao động sống dựa trên cơ sở quản lý và theo dõi quá trình huy
động và sử dụng lao động hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
I.2 Chức năng của tiền lương.
Trong các doanh nghiệp thương mại cũng như các doanh nghiệp khác của

nền kinh tế quốc dân, tiền lương thực hiện 2 chức năng:
+ Về phương diện xã hội: Tiền lương là phương tiện để tái sản xuất sức lao
động cho xã hội. Để tái sản xuất mức lao động thì tiền lương phải đảm bảo đúng
tiêu dùng cá nhân của người lao động và gia đình họ.
+ Phương diện kinh tế: Tiền lương và đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích
lợi ích vật chất đối với người lao động, làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân
và gia đình mình mà lao động một cách tích cực với chất lượng và kết quả ngày
càng cao. Trong hệ thống quản lý doanh nghiệp thì tiền lương được tư duy như là
đòn bẩy kinh tế trong quản lý sản xuất. Việc trả lương phải gắn với kết quả lao
động. Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động không làm ngừng
hưởng, bội số của tiền lương phải phản ánh đúng sự khác biệt trong tiền lương lao
động có trình độ thấp nhất và cao nhất đã được hình thành trong quá trình lao động
I.3. Vai trò và ý nghĩa của tiền lương.
1. Vai trò của tiền lương:
Tiền lương la khoản thu nhập chủ yếu của người lao động vì vậy nó phải
đóng vai trò này trước hết phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao
động. Mức sống tối thiểu là mức độ thoả mãn nhu cầu về điều kiện sinh hoạt để tồn
tại và phát triển.
Mức sống tối thiểu được thể hiện qua 2 mặt:
+ Về mặt hiện vật: Thể hiện qua cơ cấu, chủng loại các tư liệu sinh hoạt và
các dịch vụ cần thiết để tái sản xuất giản đơn.
+ Về mặt giá trị: Thể hiện qua các giá trị của các tư liệu sinh hoạt và các
dịch vụ cần thiết.
Mức sống tối thiểu phải được đảm bảo bằng tiền lương tối thiểu: Tiền lương
tối thiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất, ở
mức độ nhẹ nhàng, và diễn ra trong môi trường lao động bình thường. Số tiền đó
có thể đảm bảo cho người lao động mua được.
Những người tư liệu lao động thiết yếu để tái sản xuất sức lao động cho bản
thân và có dành một phần phụ giúp gia đình, đảm bảo lúc hết tuổi lao động. Như
vậy xét cơ cấu thì trong tiền lương tôí thiểu bao gồm một hệ thống các chỉ tiêu hợp

lý đảm bảo cho nhu cầu chỉ tiêu về ăn, mặc và sinh hoạt.
Mức lương tối thiểu là do nhà nước đề ra, nó áp dụng cho mọi ngành, mọi
lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Nó đòi hỏi cho mọi doanh nghiệp khi trả
lương cho người lao động thì không được trả thấp hơn so với mức lương tối thiểu.
Ngoài ra tiền lương còn đóng vai trò điều hoà lao động, là một công cụ đòn
bẩy điều phối lao động có hiệu quả cao.
2. Ý nghĩa của tiền lương.
Tiền lương luôn xem xét từ 2 góc độ. Trước hết đối với chủ doanh nghiệp,
tiền lương là yếu tố chi phí sản xuất. Còn đối với người cung ứng lao động thì tiền
lương là nguồn thu nhập. Mục đích của chủ doanh nghiệp là lợi nhuận, mục đích
của người lao động là tiền lương.
Với ý nghĩa tiền lương không chỉ mang tính chất là chi phí mà nó trở thành
phương diện tạo ra giá trị mới hay nói đúng hơn là nguồn cung ứng sự sáng tạo ra
giá trị tăng. đứng về phía người lao động thì nhờ vào tiền lương mà họ có thể nâng
cao mức sống, giúp họ hoà đồng với nền văn minh của xã hội. Nó thể hiện sự đánh
giá đúng mức năng lực và công lao của họ đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Trên một góc độ nào đó thì tiền lương là bằng chứng tỏ rằng thể hiện giá trị, địa vị,
uy tín của người lao động với gia đình, doanh nghiệp và xã hội, nói chung mọi
nhân viên đều tự hào với mức lương của mình và đó là niềm tự hào cần được
khuyến khích.
Lương là động lực chính giúp người lao động tăng hiệu quả lao động, tuy
nhiên mặt trái của nó cúng là nguyên nhân gây bất mãn trí tuệ bỏ doanh
nghiệp,''nếu doanh nghiệp cắt xét lương của người lao động thì người lao động sẽ
làm cho sản phẩm kém chất lượng''....
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương.
Tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế, vấn đề lợi ích mà nó còn là
vấn đề xã hội liên quan trực tiếp đến các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Do vậy tiền lương bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố:
+ Nhóm yếu tố thuộc về doanh nghiệp: chính sách của doanh nghiệp, khả
năng tài chính, cơ cấu tổ chức...

+ Nhóm yếu tố thuộc về thị trường lao động: quan hệ cung cầu trên thị
trường, mặt chi phí tiền lương, chi phí hoạt động, thu nhập quốc dân, tình hình
kinh tế - pháp luật...
+ Nhóm yếu tố thuộc về thị trường lao động. Số lượng chất lượng lao động,
thanh niên công tác, kinh nghiệm làm việc và các mối quan hệ khác...
+ Nhóm yếu tố thuộc về công việc : lương hao phí lao động trong quá trình
làm việc, cường độ lao động, năng xuất lao động ....
II. CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG VÀ TRÍCH THEO LƯƠNG CỦA DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT .
II.1. Các hình thức trả lương
Tiền lương là biểu hiện rõ nhất về lợi ích kinh tế của người lao động và trở
thành đòn bẩy mạnh mẽ nhất kích thích người lao động. Để phát huy tối đa chức
năng của tiền lương thì việc trả lương cho lao động cần phải dựa vào những
nguyên tắc cơ bản sau:
+ Phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động.
+ Dựa trên sự thoả thuận sức giữa người mua, người bán mức lao động.
+ Tiền lương phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh việc kết hợp đúng
các nguyên tắc trên với mô hình thức trả lương cụ thể thích hợp với mỗi loại hình
doanh nghiệp, về cơ bản dù kinh doanh ở lĩnh vực vào sản xuất hay dịch vụ thì các
doanh nghiệp cũng chỉ có hai hình thức trả lương cơ bản:
+ Trả lương theo thời gian
+ Trả lương theo sản phẩm
1. Trả lương theo thời gian:
Khái niệm: Trả lương theo thời gian là việc trả lương dựa vào thời gian lao
động (ngày công) thực tế của người lao động. Về việc trả lương nay được xây dựng
căn cứ thời gian công tác và trình độ kỹ thuật của người lao động.
Hình thức trả lương này được áp dụng chủ yếu đối với nhân viên hành chính
sự nghiệp: (đối với công nhân sản xuất thì chi phí áp dụng ở những bộ phận bằng
máy móc là chủ yếu hoặc những công việc không thể tiến hành định mức một cách
chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất của sản xuất đó mà nếu trả lương sản phẩm,

không đem lại hiệu quả thiết thực .
Để trả lương theo thời gian người ta căn cứ vào ba yếu tố mới .
+ Ngày công thực tế của người lao động.
+ Đơn giá tiền lương tính theo ngày công.
+ Hệ số tiền lương (Hệ số cấp bậc công việc)
Ưu điểm : Đơn giản, để tính toán phản ánh được trình độ kỹ thuật và điều
kiện làm việc của từng lao động cho thu nhập có tính ổn định hơn.
Nhược điểm: Chưa gắn kết lương với kết quả lao động. Của từng người lao
động tận dụng thời gian lao động nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản
phẩm.
* Các hình thức trả lương theo thời gian
Tùy theo yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có
thể lựa chọn một trong hai cách tính lương sau:
+ Trả lương theo thời gian giản đơn
+ Trả lương theo thời gian có thưởng.
1.1. Trả lương theo thời gian giản đơn .
Đây là chế độ trả lương mà tiền lương của mỗi người lao động do mức
lương cấp bậc cao hay thấp nhất và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít quyết
định, hình thức này chỉ áp dụng ở những nơi khó xác định được định mức lao động
chính xác, khó đánh giá công việc cụ thể.
Công thức:
Số tiền
lương
Trả theo
Thời gian
=
Mức lương cấp
bậc xác định ở
mỗi công việc
x

Số thời gian
làm việc ở
Công việc
x
Hệ số
loại phụ
cấp
Nhược điểm: Là không xem xét đến thái độ lao động đến hình thức sử dụng
thời gian lao động, sử dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... nên khó tránh khỏi
được hiện tượng xem xét bình quân khi tính lương.
Có ba hình thức trả lương theo thời gian giản đơn:
- Lương tháng: Là hình thức được trả cố định hàng tháng được quy định chi
từng bậc lương trong tháng.
Bảng lương tháng được áp dụng để trả cho người lao động làm công tác
quản lý, hành chính sự nghiệp và các ngành không sản xuất vật chất.
Công thức:
Lương tháng =
Tiền lương
cấp bậc chức
vụ
một người
+
Tổng số công
việc thực tế
trong tháng
+ Hệ số các
loại phụ cấp
lương
Nhược điểm: Không phân biệt người lao động làm việc nhiều hay ít trong
tháng `nên không khuyến khích công việc tận dụng ngày công trong chế độ, không

phản ánh đúng năng suất lao động giữa những người cùng làm một công việc.
- Lương ngày: Là tiền lương trả cho một ngày làm việc trên cơ sở của tiền
lương tháng chia cho 26 ngày trong tháng. Lương ngày được áp dụng chủ yếu để
trả lương cho người lao động trong những ngày hội họp, học tập làm việc nhiệm vụ
khác và làm căn cứ để tính trợ cấp.
Công thức:
Lương ngày =
Lương tháng
26 ngày
x hệ số phụ cấp
- Lương giờ: Là tiền lương trả cho một ngày làm việc được xác định trên cơ
sở lương ngày chia cho số giờ trên chuẩn quy định.
Ưu điểm: Phản ánh tương đối chính xác tiêu hao lao động của giờ làm việc,
tiện áp dụng để tính tiền lương cho số lao động của mỗi giờ làm việc thêm, số tiền
phải trả cho những ngày vắng mặt tại nới làm việc hoặc thuê mướn người lao động
làm việc không chọn ngày theo tổ chức sản xuất và lao động tương ứng. Lương
được làm căn cứ để tính đơn giá tiền lương theo thời gian có thưởng.
1.2 - Trả lương theo thời gian có thưởng.
Chế độ trả lương này là sự kết trả lương theo thời gian giản đơn với tiền
thưởng khi mà người lao động đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất
lượng đã quy định tức là ngoài tiền lương thì người lao động còn nhận thêm một
khoản tiền thưởng do hoàn thành tốt công việc hoặc tiết kiệm chi phí.
Tiền lương được tính bằng cách lấy lương trả lương theo thời gian giản đơn
nhân với thời gian làm việc thực tế sau đó cộng với tiền lương.
Ưu điểm: Phản ánh được trình độ kỹ năng của người lao động, phản ánh
được thời gian làm việc thực tế và thành tích công tác, thái độ người lao động, ý
thức lao động, ý thức trách nhiệm... của người lao động thông qua tiền thưởng. Do
đó các tác dụng khuyến khích người lao động quan tâm đến trách nhiệm và kết quả
lao động của mình.
Cùng với các tiến bộ xã hội thì chế độ tiền lương ngày càng đa dạng, phong

phú và hoàn thiện hơn, tuy nhiên qua nhiều lần cải cách nhưng hình thức trả lương
theo thời gian vẫn mang tính chất bình quân vẫn chưa gắn bó với hiệu quả lao
động. Nếu muốn hạn chế những thiếu sót thì hình thức trả lương theo sản phẩm sẽ
phát huy tốt hơn và khắc phục được những điểm cố hữu.
2. Trả lương theo sản phẩm .
Khái niệm: Là hình thức trả lương trực tiếp cho người lao động dựa vào số
lượng và chất lượng sản phẩm dịch vụ mà họ hoàn thành.
Ý nghĩa : Trả lương theo sản phẩm gắn thu nhập của người lao động với kết
quả sản xuất trực tiếp. Để có thu nhập cao thì chính người lao động phải tạo ra sản
phẩm dịch vụ. Do đó người lao động sẽ tìm cách nâng cao năng xuất lao động,
trình độ chuyên môn, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, góp phần thúc đẩy
phong trào thi đua sản xuất chung.
Ưu điểm :
+ Kích thích người lao động tăng năng suất lao động
+ Khuyến khích sự đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tích luỹ kinh
nghiệm và phát huy sáng tạo, nâng cao khả năng làm việc.
+ Thúc đẩy phong trào thi đua góp phần hoàn thiện công tác quản lý.
Nhược điểm: Do trả lương theo sản phẩm cuối cùng nên ngừơi lao động để
chạy theo số lượng bỏ qua chất lượng, vi phạm quy trình kỹ thuật sử dụng thiết bị
quá mức và các hiện tượng tiêu cực khác. Để hạn chế thì doanh nghiệp cần xây
dựng cho mình hệ thống, các điều kiện như: định mức lao động, kiểm tra kiểm
soát, điều kiện định mức lao động làm việc ý thức trách nhiệm của người lao động.
2.1 Khoán sản phẩm trực tiếp.
Hình thức trả lương này được áp dụng trong điều kiện có định mức lao động
trên cơ sở định mức giao khoán cho cá nhân người lao động và tính đơn giản tiền
lương. Phương pháp này tương ứng với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh được
lựa chọn là tổng sản phẩm bằng hiện vật (kể cả sản phẩm quy đổi) thường áp dụng
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh một loại hoặc một số loại sản phẩm có
thể quy đổi được và nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể riêng biệt.
Công thức:

DG = hoặc ĐG =L
o
x T
Trong đó :
+ ĐG: Đơn giá tiền lương một sản phẩm cho người lao động.
+ Lo : Mức lương cấp bậc của người lao động.
+ Q: Định mức sản phẩm của người lao động .
+ T: Thời gian hoàn thành một đơn vị sản phẩm .
Từ đó:
Tiền lương của 1 công nhân: L
1
= ĐG x Q
1

L
1
: Tiền lương thực tế mà người lao động nhận được.
Q
1
. Số lương sản phẩm thực tế hoàn thành .
2.2. Khoán theo khối lượng công việc : (Trả lương theo sản phẩm tập thể)
Hình thức này được thực hiện trong điều kiện không có định mức lao động
và khoán đến tận người lao động, hình thức này áp dụng để trả lương cho một
nhóm người lao động khi họ hoàn thành một số khối lượng công việc nhất định và
áp dụng cho những công việc đòi hỏi nhiều người tham gia.
- Trả lương theo khoán doanh thu: Trả lương theo doanh thu cũng là hình
thức trả lương theo sản phẩm nhưng vì sản phẩm của người lao động trong các
doanh nghiệp được biểu hiện bằng doanh thu bán hàng trong một đơn vị thời gian.
Trả lương theo hình thức này là cách trả tiền mà tiền lương của cả tập thể và cá
nhân người lao động phụ thuộc vào đơn giá của người lao động. Đơn khoán theo

doanh thu là mức lương trả cho 1.000 đồng doanh thu, (là số tiền công mà người
lao động nhận được khi làm ra 1.000 đồng doanh thu cho doanh nghiệp).
Công thức
Đơn giá khoán
theo doanh thu
=
Tổng quỹ lương kế hoạch
x 100
Doanh thu kế hoạch

Quỹ lương khoán
theo doanh thu
=
Đơn giá khoán
theo doanh thu
x
Doanh thu
thực tế
Ưu điểm: Với cách áp dụng này kế hợp với việc trả lương theo trình độ
chuyên môn của mỗi người lao động với kết quả lao động của họ. Nếu tập thể
doanh nghiệp có trình độ tay nghề cao, mức lương cơ bản cao thì sẽ có đơn giá tiền
lương cao. Trong điều kiện đơn giá tiền lương như nhau thì tập thể nào đạt được
doanh thu cao thì sẽ có tổng doanh thu lớn hơn. Như vậy, vừa kích thích người lao
động không ngừng nâng cao tay nghề đẻ nâng cao bậc lương cơ bản, mặt khác làm
cho người lao động quan tâm nhiều hơn đến kết quả lao động của mình.
Nhược điểm: Hình thức trả lương này chỉ phù hợp với điều kiện thị trường
ổn định, giá cả không có sự đột biến. Mặt khác áp dụng hình thức này dễ làm cho
người lao động chạy theo doanh thu mà không quan tâm và xem nhẹ việc kinh
doanh những mặt hàng có giá trị thấp.
Muốn áp dụng hình thức trả lương theo doanh thu thì các doanh nghiệp cần

phải chú ý các vấn đề sau:

×