Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP PHÁP VÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.54 KB, 9 trang )

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP PHÁP VÂN
I. MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH, VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ
TOÁN Ở CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP PHÁP VÂN
1. Những ưu điểm đạt được:
- Về bộ máy kế toán:
Trên cơ sở đặc điểm của mình, Công ty đã chọn hình thức tổ chức bộ máy kế toán tập trung. Hình thức này
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, kiểm tra, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho hoạt động kinh doanh
cũng như cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong việc ra quyết định quản trị của mình, đồng thời phát huy được
tính chủ động, sáng tạo trong kinh doanh.
Công ty đã xây dựng cho bộ máy kế toán gọn nhẹ (mặc dù áp dụng hình thức Nhật ký – Chứng từ nhưng bộ
máy kế toán cũng chỉ gồm 5 người) tổ chức tương đối hoàn chỉnh với đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ nghiệp
vụ chuyên môn vững vàng. Mỗi nhân viên trong phòng kế toán tại Công ty được phân công công việc rõ ràng và
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng, tránh chồng chéo công việc từ đó nâng cao hiệu quả của công tác kế
toán cũng như công tác quản lý tài chính của Công ty.
- Về chứng từ, tài khoản, sổ sách kế toán:
Các chứng từ sử dụng trong quá trình hạch toán đều phù hợp với yêu cầu kinh tế và pháp lý của nghiệp vụ phát
sinh, đúng theo mẫu do Bộ Tài Chính ban hành. Tất cả các thông tin về kinh tế về nghiệp vụ đều được ghi chép đầy
đủ, chính xác vào chứng từ, sau đó đều được giám sát, kiểm tra đối chiếu giữa thực tế và sổ sách kế toán.
Quy trình luân chuyển chứng từ được thực hiện theo đúng quy định và phù hợp với các yêu cầu của nghiệp
vụ kinh tế. Chứng từ được lưu trữ cẩn thận theo từng lô hàng, từng hợp đồng, từng trạm vì vậy thuận lợi cho việc
tìm kiếm, kiểm tra, đối chiếu khi cần thiết.
Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật kí –Chứng từ, hình thức này có nhiều ưu diểm như: Căn cứ chứng
từ ghi sổ rõ ràng, không phát sinh ghi trùng, lặp, khối lượng công việc ghi sổ kế toán ít vì tận dụng đuợc ưu thế của
các bảng tổng hợp chứng từ gốc cùng loại; công việc kiểm tra đối chiếu số liệu không bị dồn vào cuối kì kế toán
Công tác ghi sổ được thực hiện bằng tay, sổ sách kế toán của Công ty khá đầy đủ và theo đúng mẫu quy định
của Bộ tài chính.
Hệ thống tài khoản mà Công ty đang áp dụng theo đúng như chế độ mà Nhà nước ban hành.
- Về phương pháp hạch toán hàng tồn kho.


Công ty lựa chọn phương pháp kê khai thường xuyên tạo điều kiện cho việc phản ánh ghi chép và theo dõi
thường xuyên liên tục sự biến động của hàng tồn kho tại mọi thời điểm.
Đối với việc xuất kho hàng hoá (hàng tồn kho) Công ty áp dụng phương pháp giá thực tế đích danh để xác
định giá vốn hàng năm. Phương pháp này có ưu điểm là giúp cho kế toán có thể phản ánh ngay được giá vốn hàng
bán, ngoài ra còn tăng cường thời gian bảo quản từng lô hàng trong kho vì những lô hàng nào có hạn sử dụng trước
thì sẽ được xuất trước.
- Về các khoản nghĩa vụ với Nhà nước:
Công ty luôn thực hiện đầy đủ và đúng hạn các khoản nộp với Nhà nước, với cơ quan cấp trên, với cơ quan chủ
quản như nộp thuế GTGT, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Về báo cáo tài chính.
Công ty lập và nộp báo cáo tài chính theo quý. Công ty đã lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo kế toán đang
được khuyến khích lập.
Nhờ có sự cố gắng, nỗ lực trong công việc, phòng kế toán đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của
Công ty và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lập kế hoạch kinh doanh từng thời kỳ sát với thực tế, có tính khả thi
cao.
2. Một số nhược điểm
- Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật kí –Chứng từ, hình thức này có nhiều ưu diểm nhưng cũng có nhược
điểm là kết cấu mẫu sổ phức tạp, khó áp dụng máy vi tính. Việc ghi chép kế toán bằng tay khó có thể nhanh chóng,
chính xác, thuận tiện như là máy vi tính. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi mà khoa học công nghệ đang ngày
càng phát triển, có rất nhiều phần mềm kế toán được ứng dụng cho công tác kế toán tại các doanh nghiệp, thì việc
công ty vẫn còn ghi chép kế toán bằng tay là một điều rất đáng tiếc.Theo em nghĩ, công ty nên có kế hoạch chuẩn bị
cho việc sử dụng phần mềm kế toán cho công tác kế toán. Công ty có thể chuyển sang hình thức kế toán Nhật kí
chung, một hình thức rất thuận tiện cho việc áp dụng phần mềm kế toán
- Về tổ chức hoạt động kinh doanh công ty nên chú ý đến vấn đề sau:
Phân bón của công ty chủ yếu là nhập khẩu nhưng công ty không nhập khẩu trực
tiếp mà mua lại của công ty khác như vậy tính chủ động của công ty sẽ không cao
hơn nữa giá mua sẽ cao hơn nhiều so với nhập khẩu trực tiếp. Công ty nên chủ
động nghiên cứu thị trường nước ngoài, tìm kiếm đối tác, nhập khẩu trực tiếp
II NHẬN XÉT VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN
HÀNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP PHÁP VÂN

1. Những ưu điểm đạt được:
Nhìn chung công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở công
ty tương đối tốt, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của công ty, đáp ứng được các
yêu cầu mà công ty đề ra, phản ánh đầy đủ tình hình bán hàng, ghi nhận doanh thu,
phản ánh giá vốn, giảm giá hàng bán, chiết khấu bán hàng, thuế GTGT, Chi phí
bán hàng, chi phí QLDN, kết quả bán hàng của từng loại hàng hoá tiêu thụ trong
kì. Qua đó cung cấp được những thông tin cần thiết phục vụ cho quản lí hoạt động
kinh doanh ở công ty ngày càng tốt hơn, các cán bộ ở công ty đã theo dõi sát sao
tình hình Nhập- Xuất – Tồn hàng hoá và việc thanh toán tiền hàng giữa khách hàng
với công ty
Kế toán bán hàng ở công ty được kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa kế toán
chi tiết và kế toán tổng hợp. Hệ thống kế toán chi tiết bán hàng phản ánh rõ ràng, đầy
đủ, chính xác và hợp lí tình hình bán hàng và xác định kết quả bán hàng của từng loại
hàng hoá. Phương pháp thẻ song song cho hạch toán chi tiết hàng tồn kho đã mang lại
hiệu quả cao trong hạch toán giá vốn hàng bán
Xuất phát từ đặc điểm công tác kế toán bán hàng, công ty đã vận dụng linh
hoạt lí luận kế toán vào thực tế phản ánh doanh thu bán hàng. Nghiệp vụ bán hàng
ở công ty xảy ra từng ngày, từng giờ nhưng công ty đã làm tốt việc theo dõi tình
hình thanh toán của từng hoá đơn
2. Những tồn tại cần khắc phục:
Thứ nhất, kế toán của Công ty không sử dụng tài khoản 641 – Chi phí bán hàng mà hạch toán chi phí bán
hàng vào tài khoản 642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp. Làm như vậy sẽ không phân biệt được chi phí quản lý
doanh nghiệp và chi phí bán hàng gây khó khăn cho công tác quản lý chi phí.
Thứ hai, công ty không theo dõi chi phí thu mua riêng trên TK 1562 – Chi phí thu mua hàng hoá mà
những chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng thì được hạch toán vào TK 156, còn những chi phí thu mua phát
sinh sau thì kế toán hạch toán vào TK 642 Chi phí quản lý doanh nghiệp, do đó đến cuối kỳ chi phí thu mua không
được phân bổ cho hàng tiêu thụ và hàng tồn kho theo đúng quy định của Bộ tài Chính. Việc hạch toán chi phí này
không thuộc nội dung của TK 642 mà là nội dung của TK 632.
Thứ ba, công ty sử dụng TK 156 cho tất cả các hàng hoá như đang đi đường, hàng hoá mua giao ngay tại
cảng, hàng hoá gửi bán như vậy là không đúng sai về nội dung tài khoản.

Thứ tư, công ty không chi tiết tài khoản 511 thành 2 tiểu khoản: TK 5111 – Doanh thu bán hàng hoá, TK
5112 Doanh thu cung cấp dịch vụ như vậy sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý vì không thể phân bịêt được đâu là
doanh thu bán hàng hoá, đâu là doanh thu cung cấp dịch vụ.
Thứ năm, công ty hạch toán chiết khấu thanh toán vào TK 521 – Chiết khấu
thương mại, sau đó Công ty kết chuyển từ TK 521 về TK 511 như vậy là không
đúng với quy định. Theo quy định chiết khấu thanh toán là một khoản chi phí tài
chính và đựơc hạch toán vào TK 635 sau đó kết chuyển sang TK 911.
Thứ sáu, Khi hạch toán nghiệp vụ mua hàng giao thẳng Công ty đã thực hiện bút toán nhập kho:
Nợ TK 156
Nợ TK 133
Có TK 111, 112, 331
Như vậy là không đúng vì thực tế số hàng hoá này không đựơc nhập kho.
Thứ bảy, một số sổ của Công ty trình bày còn chưa khoa học, đầy đủ như sổ chi tiết bán hàng thiếu cột các
khoản giảm trừ, sổ chi tiết quản lý doanh nghiệp còn chưa chi tiết cho từng tiểu khoản do đó không thuận lợi cho
việc kiểm tra, đối chiếu. Công ty còn thiếu Bảng kê số 5: Tập hợp chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp,
như vậy sẽ gây khó khăn cho công tác hạch toán kế toán.
II MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG
HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT
TƯ NÔNG NGHIỆP PHÁP VÂN
Sau quá trình thực tập tại Công ty cổ phần vật tư nông nghiệp Pháp Vân, kết hợp với những kiến thức đã
được học ở trường, dưới góc độ là một sinh viên em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với mong muốn được
góp một phần nhỏ công sức của mình vào việc hoàn thiện công tác quản lý cũng như công tác hạch toán nói chung
và hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá nói riêng. Để từ đó làm cho kế toán không
ngừng nâng cao tầm quan trọng của mình trong quản lý kinh doanh và thực sự trở thành công cụ quản lý kinh tế có
hiệu lực nhất.
1.Những yêu cầu của công tác hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng:
Các kiến nghị của em dựa trên các phương hướng sau đây: Hoàn thiện dựa trên cơ sở tôn trọng cơ chế tài
chính, tuân thủ chế độ kế toán, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị sao cho phải đảm bảo đáp ứng
được việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và phù hợp với yêu cầu của quản lý. Tuy nhiên hoàn thiện phải dựa
trên cơ sở tiết kiệm chi phí, giảm nhẹ công việc nhưng vẫn mang tính khoa học vì mục tiêu của mỗi doanh nghiệp

đều là kinh doanh có lãi với hiệu quả cao.
Sau đây em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết
quả tiêu thụ hàng hoá.
2. Nội dung của công tác hoàn thiện
Thứ nhất, kế toán hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp vào cùng một tài khoản 642
– Chi phí quản lý doanh nghiệp như vậy là sai so với chế độ tài chính quy định. Thực chất xét về mặt số học kế toán
hạch toán như vậy không hề ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh trong kỳ. Tuy nhiên, cách hạch toán như vậy sẽ gây
khó khăn cho công tác quản lý và chi phí vì không xác định được chính xác những khoản chi phí vào phục vụ cho
hoạt động bán hàng, những chi phí nào phục vụ cho hoạt động quản lý. Hơn nữa, cả chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp đều bao gồm những khoản định phí và những khoản biến phí. Có những khoản chi phí đối với
hoạt động bán hàng là biến phí nhưng đối với hoạt động quản lý lại là định phí như tiền lương nhân viên. Tỷ lệ biến
phí trong chi phí bán hàng lớn hơn trong chi phí quản lý doanh nghiệp vì chi phí bán hàng thay đổi tuỳ thuộc vào số
lượng hàng bán ra. Do đó việc phân biệt hai loại chi phí này là rất cần thiết, nó giúp cho các nhà quản trị có những
biện pháp hữu hiệu để giảm chi phí khả biến của mỗi loại chi phí để nâng cao lợi nhuận. Vì vậy, theo em Công ty
nên hạch toán riêng hai loại chi phí này, sử dụng TK 641 cho chi phí bán hàng.
Thứ hai, đối với hàng hoá giao thẳng không qua kho thì không được sử dụng TK 156 để hạch toán, đối với
hàng gửi bán ( chẳng hạn như hàng gửi đi bán cho các cửa hàng, các trạm ) công ty nên sử dụng tài khoản 157 “
Hàng gửi đi bán”. Như vậy mới giúp cho công tác quản lí hàng hoá, hạch toán nghiệp vụ kế toán phát sinh liên quan
được chính xác, đúng bản chất ngiệp vụ hơn. Việc hạch toán như sau:
- Khi xuất hàng cho các trạm, căn cứ vào Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, kế toán ghi:
Nợ TK 157: Giá vốn hàng gửi đi bán ( chi tiết theo trạm )
Có TK 156: Hàng hoá
- Cuối tháng, các trạm lập Báo cáo bán hàng gửi về công ty, kế toán của công ty căn cứ vào Hoá đơn GTGT đã lập
để ghi vào Sổ chi tiết doanh thu. Do các trạm không tổ chức công tác kế toán riêng nên không sử dụng TK 512-
Doanh thu nội bộ. Kế toán công ty hạch toán như sau:
Nợ TK 111,112 ( Chi tiết trạm )
Có TK 3331
Có TK 511
Thứ ba, kế toán của Công ty sử dụng TK 511 chung cho cả doanh thu bán hàng hoá và doanh thu cung cấp
dịch vụ. Mặc dù trong Công ty doanh thu bán hàng hoá chiếm một tỷ lệ lớn nhưng Công ty vẫn còn cung cấp dịch

vụ cho thuê kho bãi và sẽ không xác định được doanh thu bán hàng hoá là bao nhiêu, doanh thu cho thuê kho bãi,
vận chuyển là bao nhiêu. Do đó không tạo thuận lợi cho Ban giám đốc, phòng kế hoạch kinh doanh lập kế hoạch về
doanh thu cho kỳ sau, năm sau cũng như đánh giá hiệu quả kinh doanh một cách chính xác. Theo em kế toán nên chi
tiết TK 511 thành hai tiểu khoản 5111 – Doanh thu bán hàng và tiểu khoản 5113 – Doanh thu cung cấp dịch vụ.
Thứ tư, đối với nghiệp vụ chiết khấu thanh toán Công ty đã hạch toán sai, Công ty không sử dụng TK 635
– Chi phí tài chính mà lại sử dụng tài khoản 521 – Chiết khấu thương mại cuối kỳ Công ty không kết chuyển sang
TK 911 – Xác định kết quả kinh doanh mà lại chuyển sang tài khoản 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch
vụ. Làm như vậy Công ty sẽ không phản ánh được chính xác doanh thu thuần của mình là bao nhiêu. Theo em Công
ty nên hạch toán như sau:
Nợ TK 635

×