Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.38 KB, 25 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO
VAY TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1. Khái quát về tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1 Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Ở các chế độ hội khác nhau thì hình thành các quan hệ tín dụng khác nhau
và ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Hình thức tín dụng đầu tiên trong lịch sử
là tín dụng nặng lãi, ra đời và tồn tại trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phát
triển trong chế độ phong kiến. Cơ sở tồn tại của tín dụng nặng lãi là nền sản xuất
nhỏ, lạc hậu, phân tán, phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, đời sống bấp bênh, sản
phẩm dư thừa hạn chế, trong khi đó nhu cầu cần được bổ sung rất phổ biến. Những
người có khả năng cho vay là những người giàu có và có nhiều quyền lực: chủ nô,
quý tộc, quan lại, địa chủ và những người chuyên nghề cho vay nặng lãi. Những
người đi vay, phần lớn là nông dân, rthợ thủ công và những người buôn bán nhỏ
cần tiền để giải quyết nhu cầu cấp bách trong việc duy trì cuộc sống tối thiểu cần
thiết.
Muốn được vay họ phải cầm cố mảnh đất, trâu bò, nhà cửa nếu không trả
được sẽ bị tước đoạt những tài sản đó. Ngoài ra vua chúa, quý tộc, phong kiến
cũng đi vay để đáp ứng nhu cầu ăn chơi xa xỉ như xây dựng lâu đài, tổ chức lễ hội,
mua đồ trang sức. Để có tiền trả nợ họ ra sức bóc lột nông dân, thợ thủ công bằng
siêu cao thuế nặng. Như vậy đặc điểm của tín dụng nặng lãi là lãi suất cao, cao vô
hạn độ, nó không chỉ là sản phẩm thặng dư mà còn ăn thâm vào sản phẩm cần thiết
của người lao động. Chính vì thế tín dụng nặng lãi trở thành một hình thức tín dụng
tiêu dùng, thể hiện trong mục đích của việc sử dụng tiền vay đối với cả người
nghèo khổ và người giàu có. Với tính chất của tín dụng nặng lãi, tín dụng nặng lãi
không trực tiếp phục vụ sản xuất phát triển do vậy tín dụng nặng lãi chỉ phù hợp
với nền kinh tế kém phát triển, sản xuất mang tính tự túc - tự cấp hơn là nền sản
xuất hàng hoá.
Khi nền sản xuất xã hội bước sang thời kỳ sản xuất hàng hoá cùng với sự ra
đời của hệ thấng ngân hàng thì hoạt động tín dụng đã bước sang một giai đoạn mới
đó là tín dụng trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá không
ngừng phát triển. Thực vậy, trong lúc có bộ phận vốn tiền nhàn rỗi ở chủ thể này


thì ở các chủ thể khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung.
Thiếu vốn cần được bổ sung không chỉ là nhu cầu đối với các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông mà còn là nhu cầu bổ sung thiếu hụt
tạm thời giữa thu và chi của các tổ thức, cá nhân khác trong xã hội, kể cả ngân sách
Nhà nước. Nó không chỉ là nhu cầu đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng
hoá mà còn là nhu cầu cần thiết cho tiêu dùng.
Mâu thuẫn giữa sự hiện tượng thừa thiếu vốn tiền tệ trong xã hội phát sinh
trong khi quá trình sản xuất hàng hoá cần được duy trì một cách đều đặn thường
xuyên đòi hỏi phải có tín dụng để giải quyết mâu thuẫn đó đồng thời trở thành cầu
nối giữa nhu cầu tiết kiện và đầu tư bằng các hình thức tín dụng thích hợp.
Dưới chế độ tư bản, tín dụng là sự vận động của tư bản cho vay. Tư bản cho
vay là tư bản tiền tệ mà người sở hữu nó đem cho vay để thu lợi tức. Nguồn hình
thành tư bản cho vay chính là tư bản tiền tệ nhàn rỗi giải phóng khỏi quá trình tái
sản xuất xã hội, tư bản tiền tệ của những nhà tư bản chuyên dùng vào lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ tín dụng bằng cách cho vay trực tiếp hoặc gửi ngân hàng. Ngoài ra là
tiền để dành của các tầng lớp dân cư trong xã hội đã biến thành tư bản cho vay.
Tư bản cho vay với những đặc điểm cơ bản đã được Mác phân tích một cách
đầy đủ. Đó là tư bản sở hữu đối lập với tư bản chức năng, nghĩa là tư bản sở hữu
thì không sử dụng còn người sử dụng thì không có quyền sở hữu.
Cùng với việc mở rộng các quan hệ tín dụng, hình thức tín dụng ngày càng
trở nên đa dạng phong phú như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng
Nhà nước, tín dụng hợp tác xã…do vậy ta có thể khái niệm tín dụng bằng các cách
khác nhau. Theo cách đơn giản nhất: Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên
tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay.
Tín dụng theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại là: Trên cơ sở
lòng tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sẽ sử dụng vốn có hiệu
quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
Mặc dù có những khái niệm về tín dụng theo cách diễn đạt khác nhau nhưng
có thể nêu một cách tổng quát: Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người

sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn
hơn giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận với nhau.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân
hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức cá nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người cho vay
vừa là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng huy động mọi nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh
nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy
động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vón cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này tín dụng Ngân hàng đã
thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã
hội. Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín
dụng Ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã
hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong
khi tổ chức ở các tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung.
Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có hiện tượng chênh lệch về thời gian, số
lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả cac tổ chức, cá nhân trong quá
trình tái sản xuất đòi hỏi phải tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại cũng đã giải
quyết quan hệ trực tiếp giữa những doanh nghiệp cần tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
với những doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng cho sản xuất lưu thông mà chưa có
tiền. Nhưng do hạn chế của tín dụng thương mại đã không đáp ứng được nhu cầu
tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vay
vốn với khối lượng, thời hạn khác nhau. Chỉ có Ngân hàng là tổ chức chuyên kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó. Khi Ngân
hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
1.2 Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các Ngân hàng với các doanh
nghiệp, các tổ chức, kinh tế, cá nhân và giữa các Ngân hàng với nhau được thực

hiện được thực hiện trên cơ sở lòng tin, tính hoàn trả theo kỳ hạn gồm tiền gốc và
lãi.
Tín dụng Ngân hàng có những đặc điểm sau:
+ Thứ nhất: Là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời.
Đối tượng của sự chuyển nhượng chủ thể là tiền tệ hoặc là hàng hoá dưới hình thức
kéo dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hoá. Tính chất tạm thời
của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng giá trị đó. Nó là kết quả của sự
thoả thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù
hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó. Sự thiếu phù
hợp của thời gian chuyển nhượng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi tài chính và hoạt
động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến nguy cơ phá huỷ quan hệ tín dụng.
Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng
giá trị tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi
quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
+ Thứ hai: Tính hoàn trả.
Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả đúng hạn cả về thời gian và về
giá trị bao gồm hai bộ phận: Gốc và lãi. Phần lãi phải đảm bảo cho lượng giá trị
hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch này là giá trả cho quyền sử
dụng vốn tạm thời. Nói cách khác, nó là giá cả cho sự hy sinh quyền sử dụng vốn
hiện tại của người sở hữu thế nó phải đủ hấp dẫn để người sở hữu sẵn sàng hy sinh
quyền sử dụng đó.
+ Thứ ba: Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người
cho vay.
Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng. Người cho vay
tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng tin
tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi vay
và người cho vay về điểm này là điều kiện hình thành quan hệ
tín dụng. Cơ sở của sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay, do giá
trị tài sản thế chấp và do sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đối tượng cho vay là vốn tiền tệ số vốn này không nằm trong quá trình tuần hoàn

của chu kỳ sản xuất kinh doanh mà là một loại vốn riêng biệt, một loại vốn nhàn
rỗi dùng để cho vay.
Chủ thể vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân sản
xuất, kinh doanh. Trong một số trường hợp Ngân hàng cũng tiến hành đi vay của
nhau, chủ thể cho vay là các Ngân hàng và công ty tài chính.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hoạt động tín dụng không
ngừng hoàn thiện và phát triển trở thành hình thức tín dụng ngân hàng. Tin dụng
ngân hàng là tín dụng của các nhà tư bản tiền tệ cấp cho các nhà tư bản kinh doanh
và những người vay nợ khác. Đó là quan hệ trực tiếp qua ngân hàng, các tổ chức
tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng
là trung gian tín dụng giữa người đi vay và người đi vay. Do vậy, tín dụng ngân
hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền - tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ với một bên là các tổ chức cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò
vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
1.3 Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân
1.3.1 Tín dụng Ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình sản xuất và
tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội thành phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
động viên nhanh chóng vật tư lao động và các nguồn lực sẵn có khác đưa vào sản
xuất, để thúc đẩy sản xuất, lưu thông, hàng hoá, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất
mở rộng. Mặt khác tín dụng Ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động,
vốn cố định của các doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình sản xuất liên tục,
đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật để thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
1.3.2 Tín dụng Ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập
trung vốn và tập trung sản xuất.
Tín dụng thông qua việc thực hiện hoạt động đi vay để cho vay đã làm
nhiệm vụ đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Điều này được thể hiện ở việc tín
dụng thu hút các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức…

cho vay đầu tư phát triển kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng đó được hình thành từ: nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong sản xuất kinh doanh, nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư, thông qua hoạt động tín
dụng, các nguồn vốn trên được tích tụ, tập trung, từ đó đáp ứng nhu cầu cần thiết
vốn cho các đối tượng vay.
Trong nền kinh tế thị trường luôn phải đáp ứng các nhu cầu như: sản phẩm
hàng hoá có chất lượng cao, hình thức đẹp, giá cả hợp lý… điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ sản xuất, hiện đại hoá máy móc thiết bị, từ
đó thúc đẩy nhu cầu về vốn ngày càng tăng lên. Để giải quyết vấn đề này một cách
nhanh chóng và có hiệu quả thì tín dụng Ngân hàng là công cụ quan trọng nhất.
1.3.3 Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, luân
chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm
phát
Qua quá tình cho vay khối luợng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi
Ngân hàng thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông lại giảm đi. Như vậy thông
qua hoạt động tín dụng Ngân hàng sẽ làm tăng giảm khối lượng tiền trong lưu
thông từ đó sẽ góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.
Thông qua công cụ lãi xuất, hạn mức tín dụng mà Ngân hàng trung ương sử
dụng để làm thay đổi khối lượng tiền vay, từ đó kiểm soát được lạm phát và điều
tiết được khối lượng tiền trong nền kinh tế. Bởi tín dụng Ngân hàng khi điều tiết
được khối lượng tiền tức là khống chế được khối lượng tiền vừa đủ so với nhu cầu
lưu thông hàng hoá nhờ đó kiểm soát được giá cả. Khi giá cả tăng nhanh Ngân
hàng tăng lãi xuất cho vay để giảm khối lượng cho vay, giảm khối lượng tiền trong
lưu thông đồng thời kiểm soát được lạm phát.
1.3.4 Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế
của các đơn vị vay vốn và trong toàn bộ nền kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức. Ngân
hàng huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần
bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì
doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng, trả nợ vay

đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp tăng
hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn, để tạo điều kiện nâng cao
doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông
qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khó khăn là hạch toán
kinh kế.
Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý đồng vốn sao cho có hiệu
quả. Để quản lý vốn có hiệu quả thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt chẽ quá
trình sử dụng vốn để nó được sử dụng đúng mục đích, tạo ra doanh lợi cho doanh
nghiệp. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn nữa quá
trình hạch toán của đơn vị mình.
1.3.5 Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế
với nước ngoài
Hiện nay sự phát triển kinh tế của mỗi nước luôn luôn gắn liền với thị
trường thế giới, nền kinh tế “đóng” trước kia nay đã nhường bước cho nền kinh tế
“mở” phát triển. Tín dụng Ngân hàng là một trong những giải pháp tốt nhất để các
nước tăng cường các mối quan hệ kinh tế. Quan hệ tín dụng mở rộng sẽ kéo theo
quan hệ đầu tư trong nền kinh tế tăng khiến các quan hệ Thương maị quốc tế khác
cũng tăng theo. Quan hệ tín dụng là tiêu đề để thực hiện các quan hệ kinh tế khác.
Như vậy thông qua các hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời cũng là một
yếu tố cơ bản giúp cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng đứng vững và phát triển.
1.4 Các nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng thương mại
Một là: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng (cho vay có mục đích, có kế hoạch và có hiệu quả)
Cho vay có mục đích, có kế hoạch và có hiệu quả. Tức là các đơn vị có nhu cầu
vay vốn của Ngân hàng đều phải có kế hoạch, đơn vị vay gửi Ngân hàng với đầy
đủ các nội dung sau: Số tiền vay, thời hạn sử dụng vốn vay, mục đích sử dụng vốn
vay và tính hiệu quả của vốn vay Ngân hàng. Trên cơ sở đó Ngân hàng kiểm tra
xem xét, nếu thấy đồng vốn vay Ngân hàng đem lại hiệu quả kinh tế và trả nợ đúng
hạn thì mới quyết định cho vay. Nguyên tắc này nhằm tiết kiệm đồng vốn, đầu tư

vốn có trọng điểm và có hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra nó còn tăng cường sự giám
sát bằng đồng tiền của Ngân hàng đối với đơn vị vay vốn của Ngân hàng. Trường
hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn phát sinh ngoài kế hoạch, Ngân hàng xét thấy
cần thiết và hợp lý, cân đối với nguồn vốn của mình có thể cho vay bổ sung cho
người vay. Vốn vay phải sử dụng đúng cam kết và mục đích.
Hai là: Người vay vốn phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn và lãi. Bởi vì,
nguồn vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn tập trung và nguồn vốn
huy động từ các thành phần kinh tế xã hội. Do đó, những người vay vốn của Ngân
hàng sau một thời kỳ nhất định nào đó đều phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho
Ngân hàng vì đó là nguồn thu chủ yếu cuả Ngân hàng và là cơ sở cho Ngân hàng
tiến hành hạch toán kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Đến
thời kỳ trả nợ mà đơn vị vay vốn không trả cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ
chuyển sang nợ quá hạn và đơn vị phải chịu lãi xuất cao hơn lãi xuất thông thường.
Với nguyên tắc này Ngân hàng bảo toàn được vốn, kịp thời đưa vốn vào hoạt động
kinh doanh của mình, có thể để bù đắp chi và có lãi nhằm duy trì hoạt động và phát
triển của bản thân Ngân hàng.
Ba là: Cho vay có tài sản thế chấp và giá trị vật tư đảm bảo. Các đơn vị
muốn vay vốn của Ngân hàng đều phải xuất trình đầy đủ chứng từ, hoá đơn, hợp
đồng mua bán hàng hoá. Trên cơ sở đó cán bộ Ngân hàng tiến hành xem xét cho
vay tương đương với giá trị vật tư hàng hoá đã được ghi trên chứng từ, hoá đơn
hợp đồng, điều này đối với doanh nghiệp nhà nước. Còn các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh thì muốn vay vốn của Ngân hàng đều phải thế chấp bằng tài sản. Thế
chấp có thể bằng hàng hoá thông thường hoặc các chứng từ có giá trị như tín phiếu,
kỳ phiếu, cổ phiếu, giấy chứng nhận quyền sử dụng bất động sản. Hoặc có thể vay
vốn thông qua việc bảo lãnh của các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng có uy tín.
Nguyên tắc này giúp cho các đơn vị sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả. Ngân
hàng cho vay vốn tránh những rủi ro không đáng có trong hoạt động kinh doanh
Ngân hàng. Bên cạnh, nguyên tắc này đảm bảo quan hệ cân đối giữa tiền tệ và
hàng hoá trong lưu thông góp phần bình ổn giá cả.
Ba nguyên tắc cơ bản nói trên có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó với

nhau thành một thể thống nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ tín dụng giữa
Ngân hàng với các thành phần kinh tế, phòng ngừa được các yếu tố rủi ro đảm bảo
an toàn tín dụng.
1.5 Các phương thức cho vay
Quan hệ tín dụng ngân hàng với các tổ chức kinh tế, tư nhân, cá thể bao gồm
tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Tín dụng ngắn hạn
nhằm bổ sung vốn lưu động cho các đơn vị, cá nhân có đủ vốn để thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh. Tín dụng trung và dài hạn nhằm cung cấp vốn đầu tư
xây dựng cơ bản nhằm cải tiến kỹ thuật nâng cao năng lực sản xuất của các tổ chức
sản xuất kinh doanh. Mỗi loại tín dụng có nội dung kinh tế và yêu cầu kỹ thuật
riêng theo đó việc tổ chức hạch toán kế toán cho vay cũng đòi hỏi phải có kỹ thuật
nghiệp vụ thích hợp với từng loại và phương thức tín dụng.
Phương thức cho vay là cách tính toán cho vay và thu nợ dựa vào tính chất
và cách xác định đối tuợng cho vay. Tuỳ theo đặc điểm của khách hàng và đặc
điểm của khoản vay, khi cho khách hàng vay vốn lưu động, các ngân hàng thương
mại có thể áp dụng các phương thức cho vay sau:
+ Phương thức cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng
phải làm những thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Phương thức cho vay theo hạn mức: là phương thức cho vay mà tổ chức tín
dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức cho vay nhất định duy trì
trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
+ Phương thức cho vay hơp vốn: là phương thức cho vay được thực hiện bởi một
nhóm Ngân hàng thương mại cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc
phương án vay vốn của khách hàng trong đó có một Ngân hàng là đầu mối dàn xếp
phối hợp các Ngân hàng khác. Như vậy tuy có nhiều Ngân hàng thương mại cùng

×