Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.97 KB, 34 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CỦA SẢN XUẤT XÂY LẮP CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC
KẾ TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP.
Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền
kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp xây lắp giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy
các doanh nghiệp xây lắp có sự khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý
nhưng đều mang những đặc điểm nổi bật của hoạt động kinh doanh xây lắp.
Trước hết là những đặc điểm riêng về sản phẩm xây lắp. Sản phẩm xây lắp có
những đặc điểm rất riêng khác với sản phẩm của các nghành sản xuất khác và những
đặc điểm riêng này có ảnh hưởng đến tổ chức kế toán trong các doanh nghiệp xây
lắp:
- Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc… có qui mô
lớn kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất lâu dài. Đặc điểm này
đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải lập dự toán ( dự toán thiết
kế, dự án thi công) cho sản phẩm xây lắp. Trong quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp
phải so sánh thực tế với dự toán và lấy dự toán làm cơ sở, làm thước đo.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ
đầu tư ( giá đấu thầu). Do đó, tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được
thể hiện rõ
- Sản phẩm xây lắp được cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất
( máy thi công, nhân công và nguyên vật liệu…) phải di chuyển theo địa điểm đặt
sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng hạch toán tài sản vật tư
rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và trong quá trình sản
xuất dễ mất mat hư hỏng.
- Sản phẩm xây lắp thường có thời gian sử dụng rất lâu dài nên đòi hỏi việc tổ
chức quản lý và hạch toán sao cho chất lượng công trình bảo đẩm đúng dự toán thiết
kế nhằm bảo đảm chất lượng của công trình.
Từ những đặc điểm riêng về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp đã ảnh
hưởng đến tổ chức công tác kế toán ở các doanh nghiệp này. Điều này được thể hiện
cụ thể ở nội dung, phương pháp, trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành


sản phẩm ở các doanh nghiệp xây lắp :
- Đối tượng hạch toán chi phí là các công trình và hạng mục công trình… vì
thế phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng công trình và hạng mục công
trình.
- Đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các giai
đoạn công việc đã hoàn thành, các khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng đã hoàn
thành từ đó mỗi doanh nghiệp xây lắp sẽ lựa chọn phương pháp tính giá thành thích
hợp.
- Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong xây dựng cơ bản
là dự toán được lập theo từng hạng mục chi phí. Để có thể so sánh kiểm tra chi phí
sản xuất xây lắp thực tế phát sinh so với dự toán, chi phí sản xuất xây lắp được phân
loại theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử
dụng mày thi công và chi phí sản xuất chung.
- Với những đặc điểm nêu trên, ta thấy quá trình sản xuất của nghành xây lắp
là rất phức tạp, không ổn định và có tính lưu động cao. Chính vì vậy việc tổ chức
công tác kế toán ở những doanh nghiệp xây lắp cũng có những nét riêng, đặc thù
nhằm phù hợp với những đặc điểm riêng của nghành.
II. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM XÂY LẮP.
1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
a. Khái niệm
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà
doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một
thời kì nhất định ( tháng, quí, năm ).
Cần chú ý phân bịêt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy,
chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có
liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản

chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư,
tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì.
Chi phí và chi tiêu tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì
không có chi phí. Tổng số chi phí trong kì của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị
tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kì này,
chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian,
có những khoản chi tiêu kì này nhưng vẫn chưa được tính vào chi phí kì sau ( chi
mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào
chi phí kì này nhưng thực tế chưa chi tiêu ( khoản chi phí trích trước). Sở dĩ có sự
khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất
vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản, quá trình sản xuất
và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
b. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau về cả
nội dung và tính chất, công dụng, vai trò, vị trí…trong quá trình kinh doanh. Do vậy
để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán thì ta phải tiến hành phân loại chi phí
sản xuất. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản
xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng
nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định.
Có rất nhiều cách phân loại chi phí khác nhau. Dưới đây là một số cách phân
loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được sử dụng phổ biến:
* Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm:
Căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong giá thành sản phẩm và
để thuận tiện trong việc tính giá thành, toàn bộ chi phí được phân chia theo khoản
mục. Bao gồm:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ về chi phí nguyên vật
liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu trực tiếp tham gia vào sản xuất, chế tạo
sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.

- Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp theo lương và các
khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh
- Chi phí sử dụng máy thi công: là những chi phí liên quan trực tiếp đến việc
sử dụng máy thi công ( vật liệu, nhiên liệu, nhân công …) nhằm thực hiện khối
lượng công việc xây lắp bằng máy.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi công
trường của từng công trình ( Trừ chi phí vật liệu, chi phí nhân công và chi phí sử
dụng máy thi công đã nêu ở trên).
Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá
thành còn bao gồm khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Ý nghĩa của việc phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành.
Phân loại theo tiêu thức này có tác dụng xác định rõ số đã chi ra làm cơ sở cho việc
tính giá thành. Ngoài ra, nó còn cho phép xác định chi phí trong giá thành của sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
* Phân loại chi phí theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản
phẩm hoàn thành:
Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm 2 loại:
định phí và biến phí.
- Định phí: là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc
hoàn thành như: chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh
doanh…
- Biến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng
công việc hoàn thành như: chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về nhân công trực
tiếp…
Ý nghĩa của việc phân loại chi phí theo tiêu thức này: Việc phân loại chi phí
theo tiêu thức này có tác dụng rất lớn đối với kế toán quản trị trong việc phân tích
điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra các quyết định cần thiết để hạ giá thành sản
phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
* Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố:
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu

đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh của chi phí
mà chi phí được phân chia theo yếu tố:
Theo cách phân loại này, những chi phí có cùng nội dung, cùng tính chất kinh
tế thì được xếp chung vào một yếu tố chi phí. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý ở
mỗi doanh nghiệp, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau.
Hiện nay, theo cách phân loại này gồm có những loại yếu tố sau:
- Yếu tố nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật
liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ…sử dụng vào sản xuất kinh doanh ( trừ
giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh
trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: phản ánh tổng số tiền
lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên
chức trong doanh nghiệp.
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích
theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho cán bộ,
công nhân viên của doanh nghiệp.
- Yếu tố khấu hao TSCĐ : Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phảI trích trong
kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài : Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua
ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền : Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong
kỳ.
Ý nghĩa của việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố : Phân loại theo chỉ
tiêu này cho ta biết kết cấu, tỷ trọng của từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra
trong quá trình sản xuất để lập bảng thuyết minh báo cáo tài chính, phục vụ yêu cầu
thông tin và quản lý doanh nghiệp. Đồng thời phân tích tình hình thực hiện chi phí
và lập dự toán chi phí cho kỳ sau.
* Phân loại chi phí sản xuất theo quan hệ với quá trình sản xuất:

- Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp tới việc sản
xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định.
- Chi phí gián tiếp là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất ra
nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc và cần phải phân bổ cho đối tượng liên quan
theo một tiêu thức phân bổ nhất định.
Ý nghĩa của việc phân loại chi phí sản xuất theo tiêu thức này : cách phân
loại này có ý nghĩa thuần tuý về kỹ thuật hạch toán. Mức độ chính xác của chi phí
gián tiếp tuỳ thuộc vào tính hợp lý của tiêu thức phân bổ. Do đó với cách phân loại
này, việc lựa chọn tiêu thức phân bổ là rất quan trọng.
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại chi phí khác …
c. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phương pháp tiến hành tập hợp
chi phí sản xuất phát sinh sao cho thuận tiện và hợp lý cho việc hệ thống hoá và xử
lý thông tin kế toán. Nhưng mục tiêu cuối cùng của việc tập hợp chi phí là để tính
được giá thành thực tế của sản phẩm bao gồm cả tổng giá thành sản xuất thực tế và
giá thành sản xuất đơn vị sản phẩm.
Đối tượng tập hợp chi phí được xác định phụ thuộc vào tổ chức sản xuất kinh
doanh và qui trình công nghệ của từng doanh nghiệp. Xác định đối tượng hạch toán
chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí, mà thực chất là xác
định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Đối tượng tập hợp chi phí có thể là
từng loại sản phẩm, từng nhóm sản phẩm, cũng có thể là từng phân xưởng, tổ đội
sản xuất, cũng có thể là từng công đoạn sản xuất kế tiếp nhau… tuỳ theo từng doanh
nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp, do đặc điểm rất riêng của sản phẩm xây lắp
( là những công trình, hạng mục công trình…có qui mô lớn, kết cấu phức tạp, mang
tính đơn chiếc, có thời gian sản xuất lâu dài…) nên đối tượng tập hợp chi phí ở
doanh nghiệp xây lắp là từng công trình, hạng mục công trình.
2. Giá thành sản phẩm xây lắp.
a. Khái niệm:
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí sản xuất

tính cho từng công trình, hạng mục công trình, hoặc khối lượng xây lắp hoàn thành
nghiệm thu, bàn giao và được chấp nhận thanh toán.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì giá thành sản phẩm luôn mang tính chất
cá biệt. Mỗi một sản phẩm xây lắp có thể là một công trình, hạng mục công trình
hay một khối lượng xây lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá thành riêng.
Giá thành sản phẩm có thể được tính cho khối lượng sản phẩm gọi là tổng giá
thành và có thể tính cho đơn vị sản phẩm gọi là giá thành đơn vị sản phẩm.
b. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp:
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành
cũng như yêu cầu xây dựng giá cả của sản phẩm, giá thành được xem xét dưới nhiều
góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài
các khái niệm giá thành xã hội, giá thành cá biệt còn có giá thành công xưởng, giá
thành toàn bộ…
Trên thực tế giá thành sản phẩm xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau
đây:
* Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành: giá thành
được chia thành giá thành dự toán và giá thành kế hoạch, giá thành thực tế.
- Giá thành dự toán: là chỉ tiêu được xác định theo định mức và khung giá để
hoàn thành khối lượng xây lắp.
Giá thành
dự toán
=
Giá trị dự toán
(Giá dự toán)
-
Lợi nhuận
định mức
- Giá thành kế hoạch là chỉ tiêu được xác định từ điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp.
Giá thành

Kế hoạch
=
Giá thành
dự toán
-
Mức hạ giá
thành dự toán
- Giá thành thực tế là giá thành được xác định thực tế theo số liệu kế toán.
* Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán chi phí:
- Giá thành sản xuất xây lắp toàn bộ: là giá thành bao gồm toàn bộ chi phí cố
định và chi phí biến đổi mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất xây lắp
để hoàn thành khối lượng sản phẩm xây lắp nhất định.
- Giá thành sản xuất khối lượng xây lắp hoàn thành phân bổ hợp lý chi phí cố
định: là giá thành bao gồm biến phí sản xuất (trực tiếp và gián tiếp) và phần định phí
được phân bổ trên cơ sở mức hoạt động thực tế so với mức hoạt động chuẩn.
- Giá thành toàn bộ của khối lượng xây lắp bàn giao là giá thành bao gồm giá
thành sản xuất cộng với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
c. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây dựng.
Để tính giá thành sản phẩm được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu
tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định rõ đối tượng tính giá thành sản phẩm. Việc
xác định đối tượng tính giá thành là việc xác định từng sản phẩm, bán thành phẩm,
công việc lao vụ nhất định vì vậy đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị cụ thể.
Trong doanh nghiệp xây lắp, do đặc điểm sản phẩm xây lắp có tính chất đơn
chiếc nên đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm, công việc, từng công trình,
hạng mục công trình.
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai giai đoạn kế tiếp
nhau của một quá trình hạch toán sản xuất, chúng có mối quan hệ mật thiết hữu cơ
với nhau, làm tiền đề cho nhau, đồng thời có sự khác nhau về yêu cầu và phản ánh.
Nếu coi việc tính giá thành là công việc chủ yếu thì tập hợp chi phí sản xuất phải

được tính trên cơ sở tổng hợp và phân bổ chi phí theo những phương pháp khoa học.
Trong các doanh nghiệp xây lắp thì việc tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá
thành sản phẩm xây dựng. Ngược lại, dựa vào phân tích giá thành sản phẩm để xem
xét tình hình tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất trong kỳ đó. Nghiên cứu mối
quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm bảo đảm cho giá thành sản
phẩm được phản ánh một cách chính xác và kịp thời.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua
sơ đồ sau:
Chi phí sx dở dang đầu kỳ
A B
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
C D
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Theo sơ đồ ta có:
AC = AB + BD - CD
Hay
Tổng giá thành
sản phẩm hoàn
thành
=
Chi phí sản
xuất dở dang
đầu kỳ
+
Chi phí sản
xuất phát
sinh trong kỳ
-
Chi phí sản
xuất dở dang

cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ bằng cuối kỳ hoặc không có sản phẩm
dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Trong hạch toán, đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ rất mật thiết. Việc xác định
hợp lý đối tượng kế toán chi phí sản xuất là tiền đề và điều kiện để tính giá thành
trong các doanh nghiệp xây lắp nói riêng và trong các doanh nghiệp nói chung.
Trong thực tế, một đối tượng kế toán chi phí sản xuất có thể trùng với một đối
tượng kế toán tính giá thành. Cũng có thể một đối tượng kế toán chi phí sản xuất lại
gồm nhiều đối tượng tính giá thành. Nhưng một đối tượng tính giá thành ở một
doanh nghiệp sẽ quyết định việc lựa chọn phương pháp tính giá thành ở doanh
nghiệp đó.
Cũng cần phân biệt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong
doanh nghiệp. Về mặt lượng thì chi phí sản xuất và giá thành không thống nhất với
nhau. Chi phí sản xuất bao gồm tất cả các chi phí bỏ ra trong kỳ hoạt động xây lắp
và hoạt động kinh doanh khác trong doanh nghiệp. Còn giá thành sản phẩm chỉ gồm
các chi phí liên quan đến khối lượng sản phẩm xây lắp đã hoành thành trong kỳ. Về
mặt chất thì giá thành công trình xây lắp là chi phí của một đối tượng đã hoàn thành
bàn giao, có giá trị dự toán riêng. Có nghĩa là sản phẩm đó đã được xã hội thừa nhận
giá trị sử dụng cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận mọi chi phí sản xuất để tạo ra
khối lượng sản phẩm đó.
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ TRÌNH TỰ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT Ở DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP
1. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất:
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các
phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm
vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí.
Về cơ bản phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch
toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân
xưởng, theo nhóm sản phẩm.

Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán
mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định,
phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi
phí. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại hạch toán chi phí nên tên
gọi của phương pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi
phí.
Trong xây dựng cơ bản, kế toán thường sử dụng phương pháp trực tiếp để tập
hợp chi phí sản xuất cho các đối tượng tính giá thành. Phương pháp tập hợp chi phí
trực tiếp đòi hỏi ngay từ khâu hạch toán ban đầu, các chứng từ kế toán đó phải ghi
chép riêng rẽ chi phí sản xuất cho từng đối tượng tính giá. Căn cứ vào những chứng
từ gốc đó, kế toán tập hợp chi phí sản xuất cho từng đối tượng tính giá thành liên
quan. Trong doanh nghiệp xây lắp chi phí sản xuất được tập hợp trực tiếp cho những
chi phí sản xuất cơ bản. Ngoài ra còn có phương pháp tập hợp chi phí sản xuất gián
tiếp, nhưng trong các doanh nghiệp xây lắp phương pháp này ít được áp dụng.
2. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với nội
dung và tính chất khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá
thành sản phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu
hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục giá thành sản
phẩm.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý,
khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác và kịp thời.
Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh
nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán…Tuy nhiên có thể khái quát
chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau :
- Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối
tượng sử dụng.
- Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các nghành sản xuất kinh doanh
cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị

lao vụ.
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các sản phẩm có
liên quan.
- Bước 4: Xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, cuối kỳ tính ra tổng
giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.
Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho sản phẩm dụng trong doanh
nghiệp mà, nội dung cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau.
IV.PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM DỞ DANG VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang:
Sản phẩm dở dang trong doanh nghiệp xây dựng có thể là từng công trình,
hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành được khối lượng xây lắp thi công,
chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu thanh toán.
Việc đánh giá sản phẩm xây lắp dở dang tuỳ thuộc vào phương thức thanh
toán với bên giao thầu. Nếu thực hiện thanh toán theo giai đoạn xây dựng hoàn
thành bàn giao thì giá trị sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm xây lắp chưa đạt
tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý và được đánh giá theo chi phí sản xuất kinh doanh
thực tế. Nếu thực hiện thanh toán khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành
bàn giao thì giá trị sản phẩm dở dang là tổng chi phí sản xuất kinh doanh tập hợp
đến thời điểm cuối kỳ.
Trình tự đánh giá sản phẩm xây lắp dở dang như sau:
- Cuối kỳ kiểm kê xác định khối lượng xây lắp dở dang, mức độ hoàn thành
- Căn cứ vào dự toán, xác định dự toán của khối lượng xây lắp dở dang cuối
kỳ theo mức độ hoàn thành.
- Tính hệ số giữa mức độ chi phí thực tế với chi phí dự toán của khối lượng xây lắp
theo mức độ hoàn thành (H) .
Chi phí của
khối lượng
xây lắp
dở dang

=
Chi phí của khối lượng
xây lắp dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất kinh doanh
xây lắp thực tế phát sinh
Giá dự toán của khối lượng xây lắp theo mức độ
hoàn thành
Chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ

×