Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.75 KB, 18 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN THÀNH
PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
-----------------------------
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ Ý NGHĨA CỦA THÀNH PHẨM -
TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG CÁC DOANH MGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.Vị trí của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường
thực hiện chủ chương của đảng và nhà nước trong những năm vừa qua, nền kinh tế
nước ta đã từng bước chuyển sang kinh tế thị trường có sự điêù chỉnh và quản lý
nhà nước. Với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần( quốc doanh, tập thể, tư nhân
) nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cũng sản xuất và tiêu thụ
một mặt hàng, cùng tồn tại và cạnh tranh với nhau trong sự bình đẳng trước pháp
luật.
Vì vậy các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các doanh nghiệp thương
mại nói riêng phải chấp nhận cạnh tranh, phá bỏ độc quyền chuyển bước sang
hạch toán kinh doanh để đủ sức tồn tại và phát triển chỉ có bằng cách đó mới giữ
vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh đói với các thành phần
kinh tế khác trong nền kinh tế hàng hoá.
Doanh nghiệp thương mại khong trực tiếp sản xuất, làm ra sản phẩm. Nó có
vai trò tiêu thụ thành phẩm góp phần quan trọng quyết định đến sự phát triển của
các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân
2.Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm:
Thành phẩm là sản phẩm đẫ kết thúc quy trình công nghệ sản xuất do doanh
nghiệp thực hiện hoặc thuê ngoài gia công chế biến, đã được kiểm nghiệm phù hợp
với tiêu chuẩn kỹ thuật và nhập kho để bán
Một sản phẩm nói chung cũng có thể là một thành phẩm và cũng có thể chưa
là một thành phẩm
VD : Trong công nghiệp sản phẩm của từng bước công nghệ từng giai đoạn
sản xuất chỉ mới là nửa thành phẩm còn sản phẩm của từng bước công nghệ cuối
cùng của doanh nghiệp mới được coi là thành phẩm. Hay trong xây dựng cơ bản đã
hoàn thành bàn giao còn sản phẩm thì cả công trình đã hoàn thành bàn giao theo


giai đoạn quy ước nghiệm thu.
Trong nông nghiệp thường sản phẩm cũng chính là thành phẩm. Nửa thành
phẩm cũng có thể coi là thành phẩm khi đã được nhập kho hay chuyển giao để tiếp
tục chế biến Bất kỳ loại thành phẩm nào cũng biểu hiện trên hai mặt : Số lượng và
chất lượng.
Số lượng phản ánh quy mô thành phẩm mà đơn vị tạo ra nó và nó được xác
định bằng các đơn vị đo lường như : kg, l, m, bộ, cái,.. Chất lượng của thành phẩm
phản ánh giá trị sử dụng của thành phẩm và được xác định bằng tỷ lệ (%) tốt xấu
hoặc phẩm cấp ( loại 1, 2…) của sản phẩm.
Đây chính là hai mặt của một thể thống nhất và có quan hệ biện chứng với
nhau đó là nguyên nhân giải thích tại sao khi nghiên cứu và quản lý hạch toán
thành phẩm ta luôn phải đề cập cả hai mặt này. Việc quản lý số lượng thành phẩm
đòi hỏi phải thường xuyên phản ánh trực tiếp về tình hình nhập xuất, tồn kho thành
phẩm. Phát hiện kịp thời những thành phẩm, hàng hoá ứ đọng để có biện pháp giải
quyết nhanh chóng. Vè mặt chất lượng phải làm tốt công tác kiểm tra, phân cấp sản
phẩm, thành phẩm có chế độ bảo quản với từng loaị thành phẩm khác nhau, đối với
từng loại quý hiếm, dễ vỡ, dễ mốc, kịp thời phát hiện những mặt hàng kém phẩm
chất để có biện pháp sử lý thích hợp.
3. Tiêu thụ (hay bán hàng) ý nghĩa của việc tiêu thụ:
Các doanh nghiệp thương mại có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ thành phẩm. Tiêu
thụ là quá trình thực hiện quan hệ trao đỏi thông qua các phương tiện thanh toán để
thực hiện giá trị sản phẩm, hàng hoá ….Trong đó doanh nghiệp chuyển giao sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ đó theo giá quy định hoặc thoả thuận. Số tiền mà doanh
nghiệp thu được gọi là doanh thu tiêu thụ.
Thông qua tiêu thụ thì thành phẩm, hàng hoá chuyển từ hình thaí hiện vật
sang hình thái giá trị và kết thúc vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp. Việc tiêu
thụ hàng hoá cóp thể thoả mãn nhu cầu của các đơn vị khác hoặc của cá nhân trong
và ngoàI doanh nghiệp, gọi là tiêu thụ ra ngoài. Cũng có thể thành phẩm đươcj
cung cấp giữa các đơn vị trong cùng một công ty, một tập đoàn …gọi là tiêu thụ
nội bộ. Do đó doanh thu tiêu thụ cũng gồm có doanh thu tiêu thụ ra ngoài và doanh

thu tiêu thụ nội bộ.
Trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng và là sự quan tâm hàng đầu của
các doanh nghiệp là làm thế nào để cho sản phẩm, hàng hoá của mình tiêu thụ
được trên thị trường và được thị trường chấp nhận về mọi mặt : giá cả, chất lượng,
mẫu mã…Đó là vấn đề sống còn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Như vậy tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quan trọng, có tiêu thụ được sản phẩm
doanh nghiệp mới có khả năng bù đắp được mọi chi phí nâng cao đời sống của cán
bộ công nhân viên. Mặt khác trong đIũu kiện hiện nay khi mà các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại đang phát triiển mạnh mẽ thì việc tiêu thụ thành phẩm của mỗi
doanh nghiệp, có thể tạo nên uy tín sức mạnh của đất nước ta trên thị trường quốc
tế.
Chính vì tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng như vậy nên đòi hỏi đầu nối phảI
quản lý chặt chẽ trong quá trình này. Do vậy của quản lý kế toán tiêu thụ là: Phải
nắm bắt chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán, từng khách
hàng và từng loại thành phẩm hàng hoá tiêu thụ, đôn đóc thanh toán thu hồi đầy đủ
kịp thời tiền vốn. Tính toán chính xác kết quả tiêu thụ của từng loại thành phẩm…
II. TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ Ở CÁC
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
1. Vai trò nhiệm vụ của kế toán thành phẩm và tiêu thụ đối với một doanh
nghiệp tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm đã từng bước
hạn chế được sự thất thoát, phát hiện ra thành phẩm chậm luân chuyển để có biện
pháp sử lý thích hợp, thúc đẩy quá trình tuần hoàn vốn.
Từ những số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ cung cấp chủ doanh
nghiệp có thể đánh giá được mức độ hoàn thành kế hoạch, giá thành tiêu thụ và lợi
nhuận. Từ số liệu của các báo cáo tài chính do kế toán thành phẩm và tiêu thụ cung
cấp, nhà nước có thể nắm bắt được tình hình tàI chính của doanh nghiệp từ đó thực
hiện chức năng quản lý kiểm soát vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời cũng qua số liệu đó
cho biết doanh nghiệp có thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước hay không.
Có thể nói rằng kế toán thành phẩm và tiêu thụ có mối quan hệ mật thiết với nhau
và bổ sung cho nhau. Nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ đó mà đặt ra nhiệm vụ

cho kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phải luôn gắn liền với nhau, thực
hiện tốt nhiệm vụ này sẽ làm tiền đề cho nhiệm vụ kia được thực hiện. Để thực sự
là công cụ quản lý, kế toán thành phẩm và tiêu thụ phải thực hiện đầy đủ các nhiệm
vụ sau :
- Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình hiện có và
sự biến động của từng loại thành phẩm trên cả hai mặt hiện vật và giá trị.
- -Theo dõi phản ánh chặt chẽ quá trình tiêu thụ ghi chép kịp thời đầy đủ các khoản
chi phí bán hàng, thu nhạp bán hàng và các khoản thu nhập khác.
- Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp, phản ánh
đôn đốc thực hiện nghĩa vụ của nhà nước.
- Cung cấp thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận liên quan đồng thời định kỳ
tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng, thu nhập và phân phối kết
quả của doanh nghiệp.
3. Tổ chức công tác kế toán thành phẩm
3.1. Yêu cầu của công tác kế toán thành phẩm
- Phải tổ chức kế toán tiêu thụ theo từng loại, từng thứ, từng đơn vị theo đúng số
lượng và chất lượng của thành phẩm.
- Phải có sự phân công và kết hợp công tác trong việc ghi chép kế toán thành phẩm
giữa phòng kế toán với nhân viên, giữa kế toán thành phẩm với thủ kho thành
phẩm đảm bảo cho số liệu kế toán thành phẩm được chính xác kịp thời phục vụ
cho việc quản lý chặt chẽ.
- Khi hạch toán thành phẩm nhập – xuất kho phải ghi theo giá thành thực tế.
Nhưng vì giá thành của mỗi lần nhập xuất luôn biến động nên ngoài giá thành thực
tế còn có thể sử dụng thêm giá thành hạch toán. Giá hạch toán dùng để ghi chép
trong sổ chi tiết và để tính hệ số giá, từ đó tính ra được giá thực tế của thành phẩm
xuất kho .
3.2. Đánh giá thành phẩm
Trong quá trình hạch toán thành phẩm, tuỳ từng điêù kiện cụ thể ở doanh
nghiệp khi tổ chức kế toán thành phẩm người ta có thể sử dụng một trong hai cách
đánh giá thành phẩm, đó là đánh giá theo giá hạch toán hoặc theo giá thực tế. Sử

dụng cách đánh giá thành phẩm tức là sử dụng giá nào để ghi sổ kế toán thành
phẩm hàng ngày và tính toán giá xuất hàng ngày.
3.2.1. Đánh giá thành phẩm theo giá hạch toán
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp quy định có tính chất ổn định lâu dài.
Giá hạch toán chỉ dùng để ghi sổ kế toán thành phẩm hàng ngày chứ không có tác
dụng giao dịch bên ngoài. Giá hạch toán phải được quy định thống nhất trong một
kỳ hạch toán, mục đích của việc sử dụng giá hạch toán là nhằm đơn giản cho công
tác kế toán trong các doanh nghiệp có các nghiệp vụ nhập - xuất kho thành phẩm
nhiều, thường xuyên và giá thành thực tế biến động lớn.
Theo cách này kế toán ghi sổ kế toán về nhập xuất tồn kho thành phẩm theo giá
hạch toán :
Trị giá TP = Số lượng TP * Đơn giá
( nhập xuất) ( nhập xuất ) hạch toán
Đến cuối kỳ hạch toán, kế toán mới tính toán để xác định trị giá thực tế của
thành phẩm xuất trong kỳ. Việc tính toán này có thể thực hiện theo phương pháp hệ
số giá hoặc theo phương pháp chênh lệch.
Nếu theo phương pháp hệ số giá, trước hết phải xác định hệ số giữa giá
thành thực tế và giá hạch toán của thành phẩm luân chuyển trong kỳ.
Hệ số giá thành
phẩm
Giá thành thực tế TP
tồn đầu kỳ +
Giá thành thực tế TP
nhập trong kỳ
Giá hạch toán TP tồn
đầu kỳ
+ Giá hạch toán TP nhập
trong kỳ

3.2.2 Đánh giá thành phẩm theo giá thực tế :

Trường hợp sử dụng giá thực tế để kế toán TP, là hàng ngày kế toán dùng trị
giá thực tế để nhập xuất kho TP và ghi sổ theo giá thực tế. Trong trường hợp này
người ta sử dụng các phương pháp sau :
• Phương pháp tính theo đơn giá bình quân gia quyền.
• Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO)
Phương pháp này dựa trên giả thiết là TP nào nhập trước thì xuất trước, khi
xuất lô nào thì lấy đơn giá thực tế của nó để tính trị giá thực tế của thành phẩm
xuất kho . Còn thực tế có thể nhập xuất kho khoong theo thứ tự như giả thiết nhưng
khi tính tiêu thụ thì tính theo giả thiết.
• Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO)
Phương pháp này dựa trrên giả thiết là TP nào nhập sau thì xuất trứơc và khi
tính toán trị giá thực tế của TP xuất kho tiêu thụ thì lấy đơn giá thực tếcủa thành
phẩm xuất kho theo giả thiết để tính. Giả thiết nhập sau xuất trước là tính đế thời
điêm xuất kho TP chứ không hẳn đế cuối kỳ hạch toán mới xác định.
• Phương pháp tính theo giá đích danh:
Phương pháp này dựa trrên cơ sở thực tế xuất thành phẩm ở lô nào thì lấy
đúng giá thực tế của lô đó để tính trị giá thực tế của TP xuất kho
3.3. Kế toán tổng hợp TP
Kế toán theo dõi tổng quát tình hình nhập - xuất - tồn toàn bộ TP theo số
tiền, kế toán mở tài khoản 155 “ thành phẩm . Nội dung phản ánh trên tài khoản
này còn phụ thuộc vào doanh nghiệp vận dụng phương pháp hạch toán hàng tồn
kho theo phương pháp nào.
3.3.1. Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê
khai thường xuyên
Theo phương pháp này, việc nhập xuất và tồn kho thành phẩm được theo dõi
một cách thường xuyên trên sổ kế toán, đảm bảo tính chính xác tình hình luân
chuyển của TP và nó được sử dụng trong các doanh nghiệp thuộc nghành công
nghiệp nhẹ như : thuốc lá, bánh kẹo …
Nếu áp dụng phương pháp này thì tài khoản 155 phản ánh tính nhập xuất và
tồn kho TP và có nội dung kết cấu như sau:

TK155
-Trị giá thực tế của TP nhập kho -Trị giá thực tế của TP xuất kho
-Trị giá của TP thiếu hụt
-Số dư : Trị giá thực tế của TP tồn
kho
Trình tự hạch toán nhập – xuất TP như sau:
TK154 TK155 TK632
x x x (1) (2)

×