Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chiến lược Bao gói sản phẩm của Kinh Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374 KB, 25 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Kinh tế nước ta đang phát triển theo nền kinh tế thị trường. Một nền kinh tế có sự
cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Trước sự bùng nổ cạnh tranh như vậy các doanh nghiệp
ra sức đổi mới từ trong sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm để có thể tồn tại và phát triển
trên thị trường. Sự thay đổi đó giúp cho một số doanh nghiệp thành công không những
giữ vững được vị thế của công ty trên thị trường mà còn không ngừng phát triển và gia
tăng thị phần. Bên cạnh đó có không ít những doanh nghiệp bị phá sản. Một trong
những yếu tố ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại trên của các doanh nghiệp là
hoạt động bao gói sản phẩm (packing), nó đem lại hiệu quả và đóng góp rất nhiều
trong sự thành công của doanh nghiệp.

Để có thể tìm hiểu kĩ hơn một trong những chữ P của marketing, chúng ta sẽ đi
nghiên cứu sâu hơn vào “ hoạt động bao gói săn phẩm” mà cụ thể ở đây là công ty
bánh kẹo cổ phần Kinh Đô, một công ty thực hiện hoạt động này khá thành công tại
Việy Nam
B.PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Bao gói:
1. Khái niệm:
Bao gói được sử dụng nhằm mục đích giữ vệ sinh và đề phòng sản phẩm bị hư hỏng
về mặt cơ học. Đây là yếu tố cần thiết quyết định chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên,
cách đóng gói Ở một số nước đang phát triển có thể gây hỏng cho sản phẩm do nó dễ
làm sản phẩm bị biến dạng và thiếu các điều kiện nhiệt độ tối ưu. Bao gói phải thỏa
mãn các điều kiện trong quá trình xử lý và chuyên chở. Khối lượng chuyên chở phải
Ở mức hiệu quả do đòi hỏi tính đồng bộ cao của bao gói.
Các yếu tố cần xem xét khi thiết kế bao gói gồm:
• Lưu trữ và chuyên chở đúng cách
• Kích cỡ bao gói tiêu chuẩn
• Vật liệu bao gói tái chế hoặc vật liệu hai lớp.
2. Các yếu tố cấu thành:
Bao gói thường có bốn yếu tố cấu thành điển hình:


+ Lớp tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm
+ Lớp bảo vệ lớp tiếp xúc.
+ Bao bì vận chuyển
+ Nhãn hiệu và các thông tin mô tả sản phẩm trên bao gói.
Bao gói là một phần đắc lực của hoạt động marketing, vì:
+ Sự phát triển của hệ thống cửa hàng tự phục vụ, tự chọn ngày càng tăng.
+ Nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng ngày càng tăng.
+ Bao bì góp phần tạo ra hình ảnh về công ty và nhãn hiệu.
+ Tạo ra khả năng và ý niệm về sự cải tiến sản phẩm.
Các quyết định để có thể tạo ra bao gói có hiệu quả cho một sản phẩm:
+ Xây dựng quan niệm về bao gói:
bao bì phải tuân thủ nguyên tắc nào? Nó đóng vai trò như thế nào đối với một mặt
hàng cụ thể? Nó phải cung cấp những thông tin gì về sản phẩm?....
+ Quyết định về các khía cạnh:
kích thước, hình dáng, vật liệu, màu sắc, nội dung trình bày và có gắn nhãn hiệu hay
không? Khi thông qua các quyết định này phải gắn với các công cụ kháccủa
marketing.
+ Quyết định về thử nghiệm bao gói bao gồm:
thử nghiệm về kĩ thuật, thử nghiệm về hình thức, thử nghiệm về kinh doanh, thử
nghiệm về khả năng chấp nhận của người tiêu dùng.
+ Cân nhắc các khía cạnh lợi ích xã hội, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của bản
thân công ty.
+ Quyêt định về các thông tin trên bao gói
Thông thường những thông tin chủ yếu được thể hiện qua bao gói là:
+ Thông tin về sản phẩm, chỉ rõ đó là hàng gì?
+ Thông tin về phẩm chất sản phẩm.
+ Thông tin về ngày, người, nơi sản xuất và các đặc tính của sản phẩm.
+ Thông tin về kĩ thuật an toàn khi sử dụng
+ Thông tin về nhãn hiệu thương mại và các hình thức hấp dẫn để kích thích tiêu thụ.
+ Các thông tin do luật định.

+ Các thông tin đc đưa có thể bằng cách in trực tiếp lên bao bì hoặc in rời rồi dán lên
bao bì. Gần đây cách thứ nhất được sử dụng phổ biến hơn.
Không chỉ đơn thuần là hình dáng bên ngoài
Đây chính là sự kết hợp phức tạp của các biểu tượng, thông tin được một công ty sử
dụng như dấu hiệu để nhận biết sản phẩm của mình. Ngoài ra, bao bì còn mang ý
nghĩa thứ yếu nữa là có thể giúp người tiêu dùng xác định nguồn gốc hàng hóa hay
dịch vụ. Quy chế thương mại trên lãnh thổ châu Âu quy định, bên cạnh nhãn hiệu
hàng hoá, thiết kế bao bì còn phải miêu tả bản chất, nội dung, thành phần và hương vị
sản phẩm, tên và địa chỉ liên hệ của hãng sản xuất. Châu Âu cũng như nhiều nước
khác trên thế giới luôn coi bao bì là một sản phẩm trí tuệ được pháp luật công nhận và
bảo vệ.
Bao bì không chỉ có tác dụng bảo vệ sản phẩm (Protection) mà còn đóng vai trò quan
trọng trong việc xúc tiến sản phẩm (Promotion), xét từ góc độ kinh doanh. Hình ảnh
thiết kế trên bao bì được pháp luật bảo vệ, tránh trường hợp bị các đối thủ cạnh tranh
sao chép hay làm giả sản phẩm. Đó là chức năng bảo vệ. Còn với chức năng xúc tiến,
bao bì có tác dụng thu hút khách hàng và tạo ra nét đặc trưng hay phong cách riêng
cho sản phẩm. Một sản phẩm, nếu đã gặt hái thành công nhất định tại một thị trường,
thì cùng với bao bì đó, sản phẩm sẽ không mấy khó khăn để chinh phục người tiêu
dùng tại những thị trường khác.
Nhận ra tầm quan trọng của bao bì sản phẩm, ngày nay, các công ty luôn chú ý đến
quá trình thiết kế và kiểm tra bao bì, mà phương pháp phổ biến hơn cả thường được
các công ty áp dụng cho sản phẩm của mình là VIEW- viết tắt của 4 từ tiếng Anh, thể
hiện 4 đặc trưng trên bao bì sản phẩm.
V: Visibility – sự rõ ràng: Bao bì phải làm cho sản phẩm có thể được phân biệt dễ
dàng đối với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Hãng phim Konica đã sử dụng bao bì
màu xanh dương ở thị trường Âu Mỹ nhằm phân biệt với bao bì màu vàng của Kodak
và màu xanh lá cây của Fuji. Ngoài ra, bao bì của bất kỳ sản phẩm nào cũng không
được phép trùng lặp với bao bì của sản phẩm khác đã có mặt trên thị trường.
I: Informative - cung cấp nhiều thông tin: Bao bì phải thể hiện được thông tin tối đa
về bản chất sản phẩm, chẳng hạn như tên sản phẩm, trọng lượng, ngày sản xuất, thành

phần, điều kiện bảo quản, hướng dẫn sử dụng... Đây là những thông tin quan trọng mà
khách hàng luôn muốn tìm hiểu để biết kỹ hơn về sản phẩm họ định mua.
E: Emotional impact - tác động về mặt cảm xúc: Kiểu dáng bao bì phải tạo ấn tượng
và làm khách hàng ưa chuộng. Khách hàng sẽ chú ý trước tiên đến những sản phẩm có
bao bì đẹp, nhiều màu sắc, tao nhã hay pha chút gì đó độc đáo, lạ mắt. Sức hút của bao
bì thể hiện ở đặc điểm này: nó làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh hơn và hấp dẫn
hơn đối với người tiêu dùng.
W: Workability – giá trị sử dụng: Chức năng của bao bì là vừa phải bảo vệ sản phẩm,
vừa phải hữu ích sau khi sản phẩm đã được sử dụng xong. Đôi khi khách hàng cảm
thấy tiếc, nếu sử dụng xong sản phẩm cũng là lúc vứt đi bao bì rất đẹp và chắc chắn
của sản phẩm đó. Nguyên nhân là do bao bì không được thiết kế dành cho những công
năng khác. Giá trị sử dụng của bao bì thể hiện ở chỗ nó có thể được sử dụng vào nhiều
mục đích khác như đựng thức ăn, đồ uống, gói đồ, để lót nền, và thậm chí có thể cả
trưng bày.
Yếu tố ngôn ngữ cũng cần được các công ty đặc biệt chú trọng khi thiết kế bao bì sản
phẩm. Tuỳ theo từng thị trường tại mỗi quốc gia cụ thể mà công ty đề ra chính sách về
ngôn ngữ cho phù hợp. Ví dụ đối với sản phẩm bán ở Ðức, bao bì phải in tiếng Ðức,
sản phẩm bán ở Canada, bao bì phải in song ngữ Anh và Pháp, sản phẩm bán ở Ðan
mạch và một vài nước Châu Âu khác thì bao bì chỉ cần in tiếng Anh là đủ. Hiện nay,
bao bì đa ngôn ngữ đang dần trở nên phổ biến đối với khách hàng tiêu dùng. Hãng
Kellogg của Ðức đã in …10 thứ tiếng trên vỏ bao sản phẩm đĩa mềm của mình.
Số lượng sản phẩm được đóng gói bên trong các bao bì cũng khá quan trọng và thay
đổi tuỳ thuộc vào những sở thích khác nhau của người tiêu dùng. Chẳng hạn như ở thị
trường Nhật, mỗi bao bì không nên gói 4 đơn vị sản phẩm, vì từ “four” tiếng Anh sẽ
được phát âm gần giống như từ “chết” trong tiếng Nhật. Hộp bánh quy ở Mỹ còn cần
có thêm các bao bì phụ bọc từng gói nhỏ trong hộp bánh, trong khi ở các thị trường
khác chỉ cần một bao bì gói chung tất cả là đủ.
Bao bì sinh thái và mối quan tâm ngày một tăng
Bao bì sinh thái là bao bì làm bằng chất liệu sao cho quá trình phân huỷ không gây ra
những ảnh hưởng xấu đến môi trường. Liên minh châu Âu EU đã đưa ra nhiều quy

định khác nhau về bao bì, theo đó bao bì phải được sử dụng lại hoặc tái sinh được, các
kênh phân phối phải có hệ thống thu hồi bao bì, bao gồm cả bao bì sản phẩm, bao bì
bán hàng và bao bì vận chuyển. Tất cả hàng hoá phải có những ghi chú thích hợp ngay
trên bao bì theo các hình vẽ đã được quy định.
Cách đây không lâu, công ty Werberg (Anh) tung ra thị trường loại bao bì làm bằng
đá phấn, một loại khoáng sản rất phổ biến và dễ khai thác ở bất kỳ đâu. Thành phần
cấu tạo của loại bao bì này bao gồm 70% đá phấn và 30% polyolefine. Loại bao bì này
được giới thiệu là “cứng như thuỷ tinh, mềm như chất dẻo, giá thành rẻ nhất, đặc biệt
là ít gây ô nhiễm môi trường và có thể thay thế các bao bì làm từ chất dẻo và nhôm”.
Theo các kỹ sư của Werberg nhận định, mặc dù cũng là chất dẻo nhưng polyolefine
khi phân huỷ sẽ biến thành carbonic và khí oxy. Chưa kể, bao bì bằng đá phấn có giá
thành rẻ hơn bởi vì sử dụng ít nguyên liệu hơn so với các loại bao bì làm từ giấy, chất
dẻo, nhôm với hoá chất. Bao bì sản phẩm làm bằng vật liệu mới này sẽ tự tan rã thành
bột sau 1- 2 tháng, hoặc biến thành tro giàu carbonic nếu bị đốt, chiếm ít chỗ lưu giữ
một khi bao bì đã thành rác.
Còn tại Ðức, chính phủ đã ban hành một đạo luật quy định về bao bì tương tự như
những quy định của Châu Âu và có hiệu lực từ năm 1997. Tập đoàn kiểm tra và đánh
giá chất lượng bao bì sản phẩm DSD của Ðức đã được thành lập để giám sát các loại
bao bì sản phẩm, giúp giảm bớt gánh nặng cho các nhà sản xuất, các kênh phân phối
và các nhà nhập khẩu. Sau khi được chính phủ Đức công nhận, dấu hiệu in Green Dot
(Dấu ấn xanh) của DSD trên bao bì mỗi sản phẩm sẽ là cơ sở để các nhà sản xuất
chứng mình rằng mình đã tuân thủ đúng các quy định của luật bao bì sản phẩm Đức
và cộng đồng châu Âu.
II. NHÃN HIỆU, BAO GÓI VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KHÁC CỦA SẢN PHẨM
(Brands, packaging, and other product features)
Tại sao người ta sử dụng những sản phẩm nào đó mà không sử dụng những sản phẩm
khác?.
Nhiều người cho rằng, không có những sự khác nhau đáng chú ý nào giữa những nhãn
hiệu. Sự lựa chọn của người mua có thể bị ảnh hưởng bởi sự bảo đảm được đưa ra
hoặc bởi cách bao gói hấp dẫn của sản phẩm. Thường thì, nhãn hiệu, màu sắc và kiểu

mẫu, cùng với những đặc điểm khác được nối lại để đưa ra một ý niệm cho những
khách hàng. Do đó, những đặc điểm này là những yếu tố quan trọng trong chương
trình marketing.
1. Những ảnh hưởng của những đặc điểm sản phẩm đến những chức năng kinh
doanh (influences of product features on business functions)
Nhãn hiệu, đóng gói, và những đặc điểm khác của sản phẩm có mối quan hệ qua lại
với nhau, và ảnh hưởng đến những chức năng sản xuất và tài chánh cũng như những
hoạt động marketing khác của một xí nghiệp. Nếu một sản phẩm được tạo ra có 6 màu
sắc khác nhau, thay vì một màu, sẽ tốn nhiều chi phí hơn. Một sản phẩm được bao gói
một cách hấp dẫn phải chịu phí tổn nhiều hơn so với một sản phẩm không được bao
gói.
Những rủi ro về tài chánh sẽ gia tăng khi số cỡ loại và màu sắc được tăng lên. Những
sản phẩm được bao gói trong những hộp đựng hàng trong ngày giáng sinh tạo cho xí
nghiệp một sự thiệt hại về tài chánh đối với những hàng hoá không được bán cho đến
ngày 26 tháng 12. Một xí nghiệp đưa ra một bảo đảm rộng rãi: "trả lại gấp hai số tiền
cho khách hàng, nếu như sản phẩm không làm thoả mãn hoàn toàn" sẽ ít chịu rủi ro
hơn với xí nghiệp mà chính sách của nó là: "sau khi mua hàng là chấm dứt tất cả."
Những đặc điểm của sản phẩm cũng có quan hệ với những yếu tố marketing khác.
Một công ty sản xuất ra những sản phẩm được bán ở những cửa hàng tự phục vụ, phải
tạo ra sự lôi cuốn qua việc bao gói và dán nhãn để làm hấp dẫn khách hàng tại điểm
mua bán. Và thường thì nhãn hiệu làm gia tăng sự cứng rắn của giá cả. Tuy nhiên, tại
cùng một thời điểm, những nhãn hiệu nổi tiếng hầu như có khả năng nhờ vào sự cắt
giảm giá cả của họ để làm hấp dẫn những khách hàng.
2. Nhãn hiệu (brand)
Từ nhãn hiệu (brand) là một từ dễ hiểu, và nó bao gồm những phần khác nhỏ hơn.
Nhãn hiệu là một cái tên, ngôn ngữ, hình ảnh, hoặc là những kiểu mẫu đặc biệt, hoặc
là một vài sự nối kết giữa những yếu tố này, nó được định ra để nhận diện những hàng
hoá và dịch vụ của một người bán hoặc một nhóm người bán. Một nhãn hiệu làm phân
biệt những sản phẩm và dịch vụ của một xí nghiệp này với những sản phẩm và dịch
vụ của đối thủ cạnh tranh. Tên nhãn hiệu (brand name) bao gồm những từ chữ cái,

hoặc là những con số có thể đọc được.
Dấu hiệu (brand mark) là một phần của nhãn hiệu nó được biểu hiện bằng những hình
tượng, kiểu mẫu hoặc là những màu sắc, chữ đặc biệt. Nó được nhận ra bằng dấu hiệu,
nhưng không được diễn tả khi một người đọc tên nhãn hiệu.
Hiệp hội marketing ở Mỹ định nghĩa một thương hiệu (trademark) như là một nhãn
hiệu và nó được luật pháp bảo vệ, theo luật, nó được dành riêng cho từng người bán.
Tất cả những thương hiệu là những nhãn hiệu, vì thế chúng bao gồm những từ, những
chữ cái, và những con số có thể đọc được. Chúng cũng có thể bao gồm những hình
tượng (brand mark). Một số người tin tưởng một cách không đúng rằng, thương hiệu
chỉ là phần hình ảnh của nhãn hiệu.
Một phương pháp chính yếu để phân loại những nhãn hiệu là dựa vào người sở hữu
chúng _Những nhà sản xuất hoặc là những nhà trung gian.
2.1. Tầm quan trọng của việc dán nhãn (importance of branding)
Nhãn hiệu tạo cho khách hàng dễ dàng hơn trong việc xác định những sản phẩm và
dịch vụ. Những nhãn hiệu cũng bảo đảm cho việc mua hàng rằng, khách hàng sẽ nhận
được chất lượng tương đương khi họ mua lại lần sau đó.
Đối với những người bán, nhãn hiệu là cái được quảng cáo và nó được nhận ra khi
được trưng bày trong các cửa hàng. Dán nhãn cũng giúp cho người bán kiểm soát
được thị trường của họ, bởi vì người mua sẽ không nhầm lẫn một sản phẩm được dán
nhãn với một sản phẩm khác. Dán nhãn làm giảm những sự so sánh giá cả, bởi vì rất
khó để so sánh những giá cả trên những sản phẩm có nhãn hiệu khác nhau.
Cuối cùng, đối với những người bán, nó còn làm tăng thêm danh tiếng cho người bán
cũng như sản phẩm.
2.2. Lý do cho việc không dán nhãn (reasons for not branding)
Nhiều xí nghiệp không dán nhãn trên những sản phẩm của họ, bởi vì họ không có khả
năng, hoặc không sẵn lòng để đảm đương hai trách nhiệm chính yếu vốn có trong
quyền sở hữu của nhãn hiệu: Xúc tiến nhãn hiệu, và duy trì chất lượng sản phẩm
không đổi.
Một số sản phẩm không được dán nhãn bởi sự khó khăn để làm khác đi sản phẩm của
một xí nghiệp từ những sản phẩm của những xí nghiệp khác. Ví dụ như những cái kẹp

phơi quần áo (clothespins), đinh đóng và những nguyên liệu thô trong công nghiệp.
Bản chất tự nhiên (physical nature) của một số sản phẩm như là: Những trái cây tươi,
rau cải thì khó khăn (discourage) việc dán nhãn. Tuy nhiên, hiện nay những sản phẩm
này được bao gói, và việc dán nhãn được thực hiện ở bên ngoài những bao gói này.
Những người sản xuất thường không dán nhãn một phần sản phẩm của họ, đó là
những sản phẩm ở dưới mức chất lượng bình thường. Những sản phẩm được phân như
loại hai, hoặc không hoàn hảo được bán giảm giá và thường được phân phối thông qua
những kênh khác với những kênh được sử dụng cho những hàng hoá có chất lượng
bình thường.
2.3. Lựa chọn một tên nhãn hiệu (selecting a brand name)
Lựa chọn một tên nhãn hiệu có hiệu quả không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Mặc
dầu, tầm quan trọng của một nhãn hiệu đã được thừa nhận, nhưng mức độ quan trọng
của những tên nhãn hiệu làm cho ta cần phải đáng chú ý hơn. Trong một nghiên cứu
đã được thực hiện trong nhiều năm qua cho thấy rằng: Chỉ có 12% tên nhãn hiệu làm
tăng cường doanh số bán hàng; 36% thật sự làm thương tổn đến doanh số bán; và 52%
không có đóng góp gì cho việc bán hàng. Những đặc điểm của một nhãn hiệu cần phải
có.
Một nhãn hiệu hữu hiệu mang nhiều đặc điểm. Tuy nhiên, rất là khó khăn để tìm ra
một nhãn hiệu bao hàm tất cả những đặc điểm cần thiết này. Một nhãn hiệu nên có
những đặc điểm sau:
• Đưa ra một cái gì đó về những đặc tính của sản phẩm, lợi ích của nó; đặc tính sử
dụng; hoặc tính năng hoạt động của nó.
• Dễ đọc, dễ nhớ, dễ phát âm.
• Đặc biệt.
• Có thể thích ứng với những sản phẩm mới, những sản phẩm có thể được thêm vào
tuyến sản phẩm.
• Có khả năng được đăng ký và được sự bảo vệ của luật pháp.
3. Đóng gói (packaging)
Đóng gói có thể được định nghĩa như là toàn bộ những hoạt động dính líu tới việc
thiết kế và tạo ra những bao gói cho một sản phẩm.

Có 3 lý do cho việc bao gói:
_ Nó đáp ứng cho sự an toàn và những mục đích vụ lợi: Nó bảo vệ một sản phẩm trên
đường từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng, và trong một số trường hợp
khác, ngay cả trong khi khách hàng đang sử dụng. Ví dụ, đóng gói có hiệu quả có thể
giúp cho việc chống lại những người có chủ tâm xấu trong việc giả mạo hàng, tránh
nhiễm độc cho trẻ em từ các loại dược liệu. Cũng vậy, với những sản phẩm có khối
lượng lớn thì những hàng hoá được đóng gói nói chung thuận tiện hơn, sạch sẽ hơn và
giảm sự bốc hơi, đổ tháo, thối ươn.
- Đóng gói có thể bổ sung (implement) cho chương trình marketing của một công ty.
Đóng gói còn giúp để nhận dạng một sản phẩm và vì thế có thể chống lại sự thay thế
của những hàng hoá cạnh tranh. Bao gói có thể là cách đáng chú ý duy nhất, trong đó
một xí nghiệp có thể làm khác đi sản phẩm của nó từ những sản phẩm khác. Những
người bán lẻ thừa nhận rằng, sự bảo vệ có hiệu quả và những nét đặc trưng trong chiêu
thị của bao gói có thể làm cắt giảm chi phí và tăng doanh số bán của họ lên. Tại những
điểm mua bán, bao gói như thay thế cho người bán hàng trực tiếp.
- Đóng gói có thể làm gia tăng khả năng lợi nhuận của sản phẩm. Một sự đóng gói có
thể là rất hấp dẫn, khiến cho khách hàng sẽ sẵn lòng chi trả nhiều tiền hơn để chỉ
mong nhận được bao gói đặc biệt _Mặc dầu sự gia tăng trong giá cả vượt xa chi phí
thêm vào cho việc bao gói. Cũng vậy, làm tăng khả năng dễ cầm nắm hơn, hoặc là sự
gia giảm nguy hiểm được tạo ra bởi việc bao gói sẽ cắt giảm những chi phí marketing.
3.1. Tầm quan trọng của việc đóng gói trong marketing (importance of
packaging in marketing)
Đóng gói là một một hoạt động sản xuất có định hướng trong hầu hết các công ty,
được thực hiện chủ yếu để đạt được những lợi ích của việc bảo vệ sản phẩm và sự
thuận tiện của nó. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự chú ý trong marketing về
việc bao gói càng trở nên sâu sắc hơn. Và ngày nay, bao gói là một nguồn lực cạnh
tranh chủ yếu trong thương trường. Việc sử dụng rộng rãi những hình thức bán hàng
tự phục vụ và bán hàng bằng những phương tiện tự động, đã dẫn đến bao gói phải làm
thay cho công việc bán hàng tại điểm mua bán. Hầu hết những nhà bán lẻ đều có
khuynh hướng phục vụ cho những nhà sản xuất đã sử dụng cách bao gói hữu hiệu.

Thêm vào đó, việc sử dụng đang gia tăng của công việc dán nhãn và những tiêu chuẩn
được tạo nên của quần chúng trong vấn đề sức khoẻ và sự cải thiện điều kiện vệ sinh
đã đóng góp sự quan trọng của bao gói.
Sự an toàn trong bao gói đã trở thành một vấn đề xã hội và thị trường quan trọng đặc
biệt trong những năm gần đây. Những sự phát triển mới trong bao gói, xuất hiện một
cách nhanh chóng và trong một luồng tưởng chừng như không dứt, đòi hỏi sự chú ý
thường xuyên của các nhà quản lý đến kiểu mẫu bao gói. Chúng ta thấy những nguyên
liệu bao gói mới thay thế cho những nguyên liệu cũ, cũng như trong cỡ loại, hình
dáng... Tất cả những điều này làm cho khách hàng thuận tiện hơn trong mua hàng.
3.2. Những chiến lược bao gói (packaging strategies)
3.2.a. Thay đổi bao gói (changing the package)
Nói chung, nhà quản lý có 2 lý do cho việc xem xét một sự thay đổi bao gói: Để
chống lại sự suy giảm doanh số, và để mở rộng một thị trường bằng cách làm hấp dẫn
những nhóm khách hàng mới. Đặc biệt hơn là, một xí nghiệp có thể muốn chỉnh tu
một đặc điểm không tốt nào đó trên bao gói đang tồn tại, hoặc là một công ty có thể
muốn tận dụng những ưu điểm của những nguyên liệu mới. Một số công ty thay đổi
bao gói của họ để trợ lực cho những chương trình chiêu thị. Một bao gói mới có thể
được sử dụng như là một sự lôi cuốn chủ yếu trong mẫu quảng cáo, hoặc bởi bao gói
cũ có thể không có tác dụng tốt trong quảng cáo.
3.2.b. Đóng gói tuyến sản phẩm (packaging the product line)
Một công ty phải quyết định có nên đưa ra một sự giống nhau mang tính chất gia đình
trong việc đóng gói một vài sản phẩm của nó. Đóng gói mang tính chất gia đình dính
líu tới việc sử dụng những bao gói giống nhau cho tất cả những sản phẩm, hoặc việc
sử dụng bao gói với một vài đặc điểm chung. Triết lý của nhà quản lý xem xét đóng
gói mang tính chất gia đình nói chung là giống với cảm nghĩ của họ về dán nhãn mang
tính chất gia đình. Đóng gói mang tính chất gia đình nên được sử dụng chỉ khi những
sản phẩm có quan hệ với nhau trong việc sử dụng và chất lượng giống nhau.
3.2.c. Sử dụng lại bao gói (reuse packaging)
Một chiến lược khác sẽ được xem xét là sử dụng lại bao gói. Một công ty có nên dự
kiến và khuyến khích sử dụng một bao gói đã sử dụng rồi cho những mục đích khác

không? Như những cái ly đựng phó mát có thể được sử dụng để chứa nước trái cây.
Sử dụng lại bao gói cũng có thể kích thích việc mua trở lại khi khách hàng muốn có
được một bộ sưu tầm về vật bao gói nào đó.
3.2.d. Bao gói số lớn (multiple packaging)
Trong nhiều năm nay, đã có một xu hướng tới việc bao gói số lớn, hoặc thực tế là đặt
một vài đơn vị sản phẩm trong một bao gói. Sau khi xem xét đã thấy rằng, bao gói số
lớn làm gia tăng tổng doanh thu của sản phẩm.
III. Mác của sản phẩm (labeling)
Mác là đặc điểm khác nữa của sản phẩm, nó đòi hỏi sự chú ý trong quản lý. Mác là
một phần của sản phẩm và của một bao gói, hoặc nó có thể là một cái thẻ được dán
trực tiếp vào sản phẩm. Hiển nhiên là có một mối quan hệ rất mật thiết giữa mác, bao
gói và nhãn hiệu.
Một cách đặc trưng, những mác sản phẩm được phân loại như nhãn hiệu, mức độ,
hoặc là sự mô tả. Một mác nhãn hiệu (brand label) đơn giản là nhãn hiệu riêng lẻ được
ứng dụng cho sản phẩm hoặc cho bao gói. Vì vậy, có những quả cam được dán mác
nhãn hiệu SUNKIST hoặc BLUE GOOSE, và một số quần áo mang mác nhãn hiệu
SANFORIZED.
Một mác nói lên mức độ (grade label) xác định chất lượng của sản phẩm thông qua
ngôn ngữ, con số, và những từ. Những quả đào trong hộp được dán mác A, B, và C,
và ngô, lúa mì được dán nhãn phân theo loại 1, 2. Những mác sản phẩm biểu hiện sự
diễn tả (descriptive label) đưa ra những thông tin có chủ định về việc sử dụng, cấu
trúc, sự chú ý, sự vận hành và những đặc điểm khác của sản phẩm. Trên mác mang
tính miêu tả cho một cái hộp đựng ngô, sẽ có những câu quan tâm đến loại ngô, trọng
lượng của hộp, liều lượng dùng, những phần hợp thành khác, và những thành phần
dinh dưỡng (nutritional contents).
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BAO GÓI SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY
BÁNH KẸO KINH ĐÔ.

×