Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP ĐỂ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN LIỆU VẬT LIỆU TẠI XÍ NGHIỆP GIẦY THỂ THAO XUẤT KHẨU KIÊU KỴ GIA LÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.89 KB, 13 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP ĐỂ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
NGUYÊN LIỆU VẬT LIỆU TẠI XÍ NGHIỆP GIẦY THỂ THAO XUẤT KHẨU
KIÊU KỴ GIA LÂM
I/. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ HẠCH TOÁN VẬT LIỆU
TẠI XÍ NGHIỆP GIẦY THỂ THAO XUẤT KHẨU
Như trên đã trình bày, xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu Kiêu Kỵ mới chính
thức đi vào hoạt động thử nghiệm và sản xuất sản phẩm được gần ba năm, trong thời
gian ngắn ngủi đó bằng sự nỗ lực, cố gắng của bản thân cùng với sự giúp đỡ của cơ
quan chủ quản và các đơn vị bạn. Xí nghiệp đã vươn lên và ngày càng lớn mạnh về
mọi mặt, xí nghiệp đã tìm được chỗ đứng trên thị trường, ổn định và phát triển sản
xuất.
Cùng với sự phát triển của Xí nghiệp, công tác kế toán nói chung và công tác
kế toán vật liệu nói riêng cũng không ngừng củng cố và hoàn thiện. Nó đã đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của công tác quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường
hiện nay. Qua thời gian thực tập tại xí nghiệp giầy, tôi rút ra một số nhận xét sau:
1. Ưu điểm:
- Về tổ chức bộ máy kế toán của xí nghiệp được tổ chức gọn nhẹ, khoa học có
nề nếp, cán bộ kế toán tuy còn trẻ nhưng có năng lực và trình độ nghiệp vụ. Họ được
đào tạo và vận dụng khá linh hoạt về chế độ kế toán hiện hành, tác phong làm việc có
khoa học, có tinh thần tương trợ lẫn nhau trong công tác.
- Việc cung cấp số liệu giữa các bộ phận kế toán và cung cấp số liệu để lập
báo cáo nhanh chóng, chính xác và kịp thời.
- Trong công tác hạch toán kế toán được thực hiện khá tốt, hợp với điều kiện
tổ chức sản xuất thực tế của xí nghiệp. Tình hình nhập - xuất - tồn kho vật tư ở xí
nghiệp được theo dõi và phản ánh một cách nhanh chóng rõ ràng, cung cấp kịp thời
số liệu cho việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Ưu điểm nổi bật ở đây là
xí nghiệp tổ chức việc ghi chép ban đầu tương đối tốt từ khâu nhập xuất vật liệu,
kiểm kê vật liệu cuối kỳ, lập bảng phân bổ ...đây là điều kiện thuận lợi để kế toán tổ
chức ghi chép được chính xác, cung cấp thông tin nhan, kịp thời trong công tác hạch
toán.
Ngoài ra trên cơ sở thực tế về quy mô sản xuất và trình độ quản lý, trình độ


hạch toán của xí nghiệp mà xí nghiệp đã sử dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ là
hình thức kế toán đơn giản, gọn nhẹ, ít sổ sách giấy tờ.
Trong công tác đánh giá vật liệu, xí nghiệp đánh giá vật liệu xuất kho theo
phương pháp nhập trước - xuất trước. Phương pháp này có tính chính xác cao từ khi
nhập kho cho tới khi xuất kho vật liệu. Mặt khác xí nghiệp đã tập hợp chi phí và phân
bổ chi phí thu mua vật tư cho từng lần xuất kho đã đảm bảo cho vật tư xuất kho đúng
giá trị thực tế.
Việc hạch toán chi tiết vật liệu theo phương pháp thẻ song song phù hợp với
xí nghiệp về trình độ kế toán - thủ kho. Việc theo dõi đối chiếu giữa kho và phòng kế
toán nhanh, quản lý tốt một số lượng vật liệu mẫu mã nhỏ nhưng giá trị lớn.
Trong công tác quản lý vật liệu, xí nghiệp có hệ thống kho tàng tương đối tốt.
Xí nghiệp đã thành lập ban kiểm nghiệm vật tư để kiểm tra chất lượng, số lượng vật
liệu từ trước khi nhập kho; đối với vật liệu xuất kho xí nghiệp cũng xây dựng được
hạn mức vật tư nhằm quản lý tốt vật tư tiêu hao hàng ngày.
Như vậy có thể nói công tác quản lý vật liệu và đánh giá vật liệu ở xí nghiệp
là phù hợp với điều kiện của xí nghiệp hiện nay.
2. Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, công tác kế toán vật liệu ở xí nghiệp cũng
còn một số điều tồn tại, đó là:
- Do đội ngũ kế toán còn hạn chế về mặt lượng nên một cán bộ kế toán phải
đảm nhận nhiều công việc khác nhau. Điều này dẫn đến tình trạng một số phần việc
kế toán còn làm tắt, chưa thực sự đúng yêu cầu.
- Sử dụng thiếu sổ sách: thiếu sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và sổ chi tiết thuế
GTGT được hoàn lại.
- Trong công tác kế toán còn một số vấn đề cần xem xét lại. Đó là:
+ Về công tác phân loại vật liệu: đặc điểm vật liệu của xí nghiệp gồm nhiều
loại khác nhau nhưng xí nghiệp chưa có “Sổ danh điểm vật tư”, chưa tạo lập một bộ
mã vật tư để phục vụ công tác quản lý theo dõi được dễ dàng. Mặt khác xí nghiệp lại
phân loại vật liệu theo nguồn hàng nhập. Nguồn nhập từ nước ngoài được coi là vật
liệu chính còn nguồn nhập từ trong nước được coi là vật liệu phụ. Các phân loại trên

là chưa chính xác.
+ Về công tác hạch toán chi tiết vật liệu xí nghiệp áp dụng phương pháp ghi
thẻ song song. Phương pháp này tuy đơn giản dễ làm, dễ đối chiếu kiểm tra nhưng
việc ghi chép bị trùng lặp, khối lượng ghi chép lớn. Hơn nữa việc đối chiếu kiểm tra
tiến hành vào cuối tháng, do đó kế toán tốn nhiều thời gian mà chức năng kiểm tra
chỉ được phát huy vào cuối tháng. Có thể nói bỏ ra nhiêuc ông nhưng hiệu quả mang
lại không nhiều.
+ Về quyết toán vật liệu theo đơn hàng: Xí nghiệp tổ chức theo dõi vật tư tiêu
hao theo hạn mức mà hạn mức này thực tế là được phòng kỹ thuật - KCS và phòng kế
hoạch vật tư tính toán dựa trên định mức kỹ thuật xác nhận với chuyên gia nước
ngoài khi ký kết hợp đồng. Hệ thống định mức tiêu hao vật tư cho một sản phẩm mới
nhiều khi xây dựng trên kinh nghiệm từ sản xuất sản phẩm có nét đặc trưng tương tự
từ trước chuyển sang mà không xuất phát từ thực tế sản xuất nên chưa tiết kiệm được
vật liệu, chỉ xác định được mức tiêu hao vật liệu thực tế khi kết thúc đơn hàng mà
không xem xét được định mức đó hàng ngày.
+ Về việc thu mua nguyên vật liệu mà trong nước không sản xuất đưọac phải
nhập khẩu thì thông tin giá cả còn bị hạn chế, khi hàng về tới cảng xí nghiệp không
có người địa diện nên phải bỏ ra các chi phí đi lại, bến bãi, chi phí bảo quản chờ khi
lấy hàng, chi phí vận chuyển từ cảng về xí nghiệp mà số chí phí này lại khá lớn.
+ Về thực hiện công tác kế toán tại xí nghiệp: Do xí nghiệp chưa có hệ thống
máy vi tính phục vụ cho công tác kế toán. Do đó nhiều mẫu biểu, các báo cáo đều lập
bằng tay dẫn tới khối lượng công việc nhiều, dễ có sai sót, nhầm lẫn khi tính toán.
II/. NHỮNG ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN
VẬT LIỆU Ở XÍ NGHIỆP GIẦY THỂ THAO XUẤT KHẨU
Trên đây là một số những vấn đề còn tồn tại trong kế toán vật liệu ở xí
nghiệp. Cùng với các cán bộ kế toán, cán bộ vật tư đang tìm những biện pháp nhằm
làm tốt hơn công tác quản lý và hạch toán vật liệu, bản thân tôi với góc độ là một sinh
viên học chuyên ngành kế toán thực tập tại xí nghiệp, tôi cũng có một số suy nghĩ và
đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện hơn công tác kế toán vật liệu
tại xí nghiệp.

1. Ý kiến về xây dựng “Sổ danh điểm vật liệu”
- Xí nghiệp chưa có máy vi tính do đó để đảm bảo cho công tác quản lý vật
liệu được chặt chẽ thống nhất, sự đối chiếu kiểm tra được dễ dnàg và phát hiện những
sai sót. Xí nghiệp cần lập “sổ danh điểm vật liệu”. Sổ này là tập hợp toàn bộ các vật
liệu ở xí nghiệp. Sổ này do kế toán vật liệu kết hợp với các phòng ban chức năng xây
dựng lên.
- Trong sổ danh điểm vật liệu, mỗi loại vật liệu, mỗi nhóm vật liệu được sử
dụng một ký hiệu riêng bằng hệ thống các chữ số để thay thế tên gọi, nhãn hiệu, quy
csch của vật liệu trên cơ sở kết hợp với hệ thống thống kê kế toán thống nhất đã được
ban hành. Sổ danh điểm vật liệu phải được sử dụng thông nhất trong phạm vị toàn cí
nghiệp nhằm đảm bảo sự phối hopự chặt chẽ giữa các bộ phận trong xí nghiệp trong
công tác quản lý vật liệu. Hơn nữa xí nghiệp cần tiến hành tạo lập bộ mã vật liệu để
làm cơ sở cho việc quản lý và kế toán bằng máy vi tính sau này. Xí nghiệp có thể xây
dựng bộ mã vật liệu dựa vào các đặc điểm sau:
+ Dựa vào số loại vật liệu
+ Dựa vào số nhóm trong từng loại
+ Dưah vào số thứ trong từng nhóm
Cụ thể cách lập như sau:
Trước hết căn cứ vào cách phân loại vật liệu để lập bộ mã
Loại vật liệu chính : mã số 1
Loại vật liệu phụ : mã số 2
Loại nhiên liệu : mã số 3
Loại vật liệu thay thế : mã số 4
Trong mỗi loại vật liệu ta phân thành nhóm. Ví dụ:
Vật liệu chính:
Nhóm da lộn : mã số 1
Nhóm da bóng : mã số 2
Nhóm da thô : mã số 3
Nhóm da nhăn : mã số 4
....

Vật liệu phụ:
Nhóm dây giầy dẹt đen 0.95 : mã số 1
Nhóm dây giầy dẹt đen 1.00 : mã số 2
Nhóm dây giầy dẹt đen 1.05 : mã số 3
....
Thứ vật liệu trong từng nhóm tuy nhiều nhưng số vật tư mới không quá 1000
nên ta sử dụng 3 chữ số để biểu thị. Cònq uy cách vật liệu từng loại tuy thật chi tiết
cũng không quá 100 nên ta dùng 2 chữ số để biểu thị. Như vậy bộ mã vật liệu sẽ bao
gồm 10 chữ số:
3 chữ số đầu : Số hiệu tài khoản
1 chữ số thứ tư : Loại vật liệu ( chính - phụ)
1 chữ số thứ năm : Nhóm vật liệu trong loại
3 chữ số tiếp theo : Biểu hiện thứ vật liệu
2 chữ số cuối : Biểu thị quy cách vật liệu
Như vậy mẫu, mã danh điểm vật liệu có thể lập theo bảng
SỔ DANH ĐIỂM VẬT LIỆU
Nhóm Danh điểm
vật liệu
Tên nhãn vật liệu Đơn vị
tính
Giá hạch toán Ghi chú
1521
15211
1522
15221
152111
152112
...........
152211
Vật liệu chính

Da
Da lộn
Da thô
Vật liệu phụ
Dây giầy
Dây dẹt đen 0.95
Sf
Sf
Sf
Đôi
Đôi
62.160
47.915
650
(1$ = 12.950)
2. Ý kiến về quản lý vật liệu
- Về tình hình cung cấp vật tư: Xí nghiệp nên lựa chọn và sàng lọc ra những
khách hàng gần mà có đủ khả năng cung cấp vật liệu, tài chính lành mạnh thành
những bạn hàng cung cấp thường xuyên, tín nhiệm. Điều này có loị cho xí nghiệp
không những về chi phí vận chuyển, khả năng dự trữ vật tư... mà còn có lợi cho việc
thanh toán, có thể thanh toán chậm. Trong trường hợp mua vật liệu nước ngoài về tới
cảng Hải Phòng, xí nghiệp nên có đại diện ở đó đứng ra làm thủ tục nhận hàng để
giảm bớt một số chi phí không cần thiết.
- Về tình hình phân loại vật liệu nên phân loại theo mục đích sử dụng và giá trị
của chúng. Vật liệu mua trong nước nếu có giá trị sử dụng lớn, thường xuyên và cấu

×