Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam - Đoàn Anh Thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.93 KB, 102 trang )

Môc Lôc
Môc Lôc....................................................................................................................................I
I
Danh mục bảng
Số thứ tự Tên bảng Trang
1
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam
(1995-2002)
15
2
Lao động Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ và
phần mềm giai đoạn 1996 - 2002
21
3
Cán cân thanh toán Việt Nam 11 tháng đầu năm giai đoạn
2000 - 2003
23
4
Kim ngạch xuất nhập khẩu phần mềm Nhật Bản giai đoạn
1994 2000
30
5
Công nghiệp phần mềm ấn Độ giai đoạn 1993 1999
35
6
Cơ cấu doanh thu CNpCNTT Việt Nam giai đoạn 2000
2002
40
7
Số công ty và nhân sự phần mềm Việt Nam giai đoạn
1996-2002


41
8
Doanh số và kim ngạch xuất khẩu phần mềm công ty FPT
năm 2001 2002
46
9
Số ngời dùng Internet tại một số nớc trên thế giới
50
10
Vi phạm bản quyền của Việt Nam so với khu vực Châu á - Thái
Bình Dơng và toàn thế giới
64
11
Dự báo thị trờng phần mềm khu vực và thế giới
72
12
Nhu cầu chuyên gia gia công phần mềm và khả năng đáp
ứng của ấn Độ
73
13
Tiêu chuẩn lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ gia công phần
mềm
74
14
Dự báo thị trờng xuất khẩu phần mềm Việt Nam
75
15
Dự báo gia công xuất khẩu phần mềm của Việt Nam sang
thị trờng Nhật Bản đến năm 2010
76

II
Danh mục biểu
Số thứ tự Tên biểu Trang
1
Doanh thu ngành công nghiệp dịch vụ CNTT và GDP
Nhật Bản giai đoạn 1992 - 2001
26
2
Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp dịch vụ
CNTT và trong toàn nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1992
2001
27
3
Cơ cấu doanh thu ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật
Bản giai đoạn 1997 2001
28
4
Cơ cấu xuất khẩu phần mềm Nhật Bản giai đoạn 1994
-2000
32
5
Thị trờng xuất khẩu phần mềm Nhật Bản giai đoạn
19942000
33
6
Xuất khẩu phần mềm ấn Độ giai đoạn 1991 2003
38
7
Năng suất làm phần mềm của Việt Nam giai đoạn 1998
2002

42
8
Số thuê bao Internet tại Việt Nam giai đoạn 2000 - 2003
50
9
Chi phí thuê bao Internet tại Việt Nam
58
10
Phí truy cập Internet qua điện thoại của Việt Nam
59
11
Dung lợng đờng kết nối quốc tế của Việt Nam
60
12
Giá cổ phiếu một số công ty phần mềm hàng đầu thế giới
năm 2001
69
III
Danh mục các ký hiệu viết tắt
Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt
0 Không có
Apr April Tháng t
Aug August Tháng tám
CNH Công nghiệp hoá
CNH HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại
hoá
CNH XHCH Công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa
CNPC Công nghệ phần cứng
CNpCNTT Công nghiệp công nghệ thông

tin
CNPM Công nghệ phần mềm
CNpPC Công nghiệp phần cứng
CNpPM Công nghiệp phần mềm
CNTT Công nghệ thông tin
CSHT Cơ sở hạ tầng
Dec December Tháng mời hai
HCA Hội tin học thành phố Hồ Chí
Minh
KCNpPM Khu công nghiệp phần mềm
STĐ Số tuyệt đối
SXPM Sản xuất phần mềm
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
X Có
XKPM Xuất khẩu phần mềm
IV
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Lời nói đầu
Kể từ khi máy tính ra đời, khái niệm Công Nghệ Thông Tin (CNTT) ngày càng trở
nên quen thuộc đến nỗi thế kỷ 21 đợc gọi là thế kỷ thông tin. Linh hồn của CNTT
chính là phần mềm - một sản phẩm vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Nhận thức
đợc vấn đề này, trong 10 gần đây, Việt Nam đã rất chú trọng đến lĩnh vực Công
Nghệ Phần Mềm cũng nh đến việc tiêu thụ mặt hàng này tại thị trờng trong nớc và
xuất khẩu. Tuy vậy, thực trạng xuất khẩu phần mềm Việt Nam vẫn còn rất manh
mún, nhỏ lẻ so với tiềm năng đất nớc ta. Trớc tình hình này, em xin tập trung
nghiên cứu đề tài: Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm tại Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài trớc hết nhằm hệ thống một số vấn đề lý luận về
CNTT và CNPM. Trên cơ sở năm vững lý luận, khóa luận đánh giá thực trạng xuất
khẩu phần mềm của Việt Nam nói chung và một số doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả trong lĩnh vực này nói riêng. Từ đó, cuối cùng khóa luận đa ra một cái

nhìn tổng thể về triển vọng phát triển của lĩnh vực phần mềm của Việt Nam và vạch
ra một số giải pháp nhằm hớng tới một sự phát triển hơn nữa.
Khóa luận đợc thực hiện với phơng pháp tổng hợp, phân tích tài liệu, thống kê, so
sánh, chỉ số Kết cấu của khóa luận không kể phần lời nói đầu và kết luận gồm ba
chơng:
Chơng I: Một số vấn đề lý luận liên quan đén xuất khẩu phần mềm
Chơng II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu phần mềm Việt Nam
Chơng III: Triển vọng phát triển và giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả xuất khẩu phần mềm của Việt Nam
Do giới hạn về thời gian, tài liệu và năng lực ngời viết, khóa luận không tránh khỏi
hạn chế và sai sót. Rất mong nhận đợc sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và những
ngời quan tâm đến hoạt động xuất khẩu phần mềm của Việt Nam.
1
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Nguyễn Hữu Khải, ngời đã hớng dẫn, chỉ bảo
tận tình và giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận này.
Hà Nội
Ngày 17 tháng 12 năm 2003
Sinh viên
Đoàn Anh Th
2
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Chơng I: một số vấn đề lý luận liên quan đến xuất
khẩu phần mềm
I. Xuất khẩu phần mềm và những khái niệm liên quan
1. Khái quát chung về công nghệ thông tin và công nghệ
học phần mềm
I.1. Công nghệ thông tin
Chiếc máy tính đầu tiên ra đời đến nay đã đợc gần 60 năm. Khái niệm CNTT
không còn là mới song cũng không dễ để đa ra đợc một định nghĩa thống nhất về

nó. Mỗi ngời dới mỗi góc độ lại có một quan điểm riêng.
Có quan điểm cho rằng CNTT là hệ thống các tri thức và phơng pháp khoa học, các
công cụ và phơng tiện kỹ thuật hiện đại, các giải pháp công nghệ đợc sử dụng để
thu thập, lu trữ, xử lý, sản xuất và truyền bá thông tin nhằm giúp con ngời nhận
thức, tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin nh
nguồn tài nguyên quan trọng nhất. CNTT bao gồm chủ yếu là máy tính, kể cả các
bộ vi xử lý, mạng viễn thông nối các máy tính, phần mềm và nội dung thông tin.
1
Quyết định 49/ CP của Thủ tớng chính phủ ra ngày 14/ 8/ 2003 định nghĩa rõ ràng
hơn: CNTT là tập hợp các phơng pháp khoa học, các phơng tiện và công cụ kỹ
thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức, khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và
tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con ngời và xã hội.
2
Vậy thực chất CNTT là gì?
1
Theo www.mofa.gov.vn, nhập vào ngày 24/11/2000.
2
Quyết định số 49/CP của Thủ tớng chính phủ về phát triển CNTT ở nớc ta trong những năm 1990
www.vietsoftonline.com.vn
3
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Theo giáo s Jim Senn Trởng khoa hệ thống thông tin máy tính của Trờng Đại
học Georgia, Hoa Kỳ, CNTT gồm 3 bộ phận: máy tính, mạng truyền thông và
know how.
3
Máy tính là một thiết bị gồm 3 bộ phận: phần cứng, phần mềm và thông tin.
Mạng truyền thông là một hệ thống kết nối các mạng máy tính, bao gồm cả
phần cứng và phần mềm.
Know how là một khái niệm chỉ con ngời, qui trình nghiệp vụ và phần mềm

ứng dụng.
CNTT ngày nay đang phát triển theo hớng hội tụ với viễn thông, truyền thanh,
truyền hình, báo chí, xuất bản. Hiểu theo nghĩa rộng nhất thì CNTT bao gồm bốn
địa hạt có liên hệ hữu cơ với nhau: viễn thông, điện tử, tin học (kể cả các thiết bị và
phần mềm), và các áp dụng của tin học trong khoa học kỹ thuật, hành chánh, quản
trị và kinh doanh. Còn theo nghĩa hẹp, CNTT bao gồm công nghệ học phần cứng
(CNPC) và công nghệ học phần mềm (CNPM).
I.2. Công nghệ học phần mềm
Cũng giống nh CNTT, có rất nhiều khái niệm về CNPM đợc đa ra dới các góc độ
khác nhau, tại những thời điểm khác nhau.
Năm 1969, Friedrich L. Bauer cho rằng: Công nghệ học phần mềm là việc thiết
lập và sử dụng các nguyên tắc công nghệ học đúng đắn dùng để thu đợc phần
mềm một cách kinh tế vừa tin cậy vừa làm việc hiệu quả trên các máy thực.
4
Đến năm 1995, trớc sự phát triển nh vũ bão của CNTT, K.Kawamura giáo s Kỹ
thuật máy tính và điện tử và quản lý công nghệ trung tâm quản lý công nghệ Nhật
Bản Hoa Kỳ lại đa ra khái niệm: Công nghệ học phần mềm là lĩnh vực học
vấn về các kỹ thuật, phơng pháp luận công nghệ học (lý luận và kỹ thuật đợc
3
Theo luận văn Giải pháp để hoàn thiện nghiệp vụ xuất khẩu phần mềm Trần Hằng Thu EK35 Trung 1 -
ĐHNT HN.
4
Giáo trình Công nghệ học phần mềm - Đại học Bách khoa Hà Nội
4
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
hiện thực hóa trên những nguyên tắc, nguyên lý nào đó) trong toàn bộ quy trình
phát triển phần mềm nhằm nâng cao cả chất và lợng của sản xuất phần mềm.
5
Một cách tổng quát nhất, có thể nói CNPM là lĩnh vực khoa học về các phơng pháp
luận, kỹ thuật và công cụ tích hợp trong quy trình sản xuất và vận hành phần mềm

nhằm tạo ra phần mềm với những chất lợng mong muốn.
Điều đáng nói ở đây là cần phân biệt hai cặp khái niệm dễ nhầm là công nghệ
học phần mềm và công nghiệp phần mềm; công nghệ thông tin và công
nghiệp công nghệ thông tin. Nh trình bày ở trên, ta có thể hiểu công nghệ học
phần mềm, công nghệ thông tin là những khái niệm thuộc lĩnh vực học thuật. Còn
công nghiệp phần mềm (CNpPM), công nghiệp công nghệ thông tin (CNp CNTT)
là những khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế. CNpPM chỉ một ngành công nghiệp
bao gồm các hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ
phần mềm. Còn CNp CNTT là một ngành công nghiệp bao gồm các hoạt động sản
xuất, kinh doanh các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ liên quan đến CNTT mà
theo nghĩa hẹp là phần cứng và phần mềm.
2. Khái quát chung về phần mềm và sản phẩm, dịch vụ
phần mềm
2.1.Phần mềm
2.1.1. Khái niệm
Theo Quyết định số 128/2000 QĐ - Ttg do Thủ tớng chính phủ ban hành, phần
mềm đợc hiểu là chơng trình, tài liệu mô tả chơng trình, tài liệu hỗ trợ, nội dung
thông tin số hóa.
6
Hiểu theo nghĩa hẹp, phần mềm là dịch vụ chơng trình để tăng khả năng xử lý của
phần cứng của máy tính chẳng hạn nh Hệ điều hành. Còn hiểu theo nghĩa rộng,
5
Nh 4
6
Quyết định số 128/2000 QĐ - Ttg về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu t và phát triển công nghệ
phần mềm. www.vietsoftonline.com.vn
5
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
phần mềm là tất cả các kỹ thuật ứng dụng để thực hiện những dịch vụ chức năng
cho mục đích nào đó của phần cứng. Với cách hiểu này, phần mềm là một khái

niệm không chỉ bao gồm các phần mềm cơ bản, các phần mềm ứng dụng mà còn
chỉ cả khả năng, kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng của kỹ s ngời chế ra phần
mềm.
Nói tóm lại, trong một hệ thống máy tính, nếu trừ bỏ đi các thiết bị và các loại phụ
kiện thì phần còn lại chính là phần mềm.
2.1.2. Phân loại
Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại phần mềm. Tuy nhiên, do mục tiêu của
khóa luận không đi sâu vào khía cạnh kỹ thuật nên chỉ phân loại phần mềm theo
mục đích sử dụng. Với căn cứ này, phần mềm đợc chia làm 2 loại: phần mềm hệ
thống và phần mềm ứng dụng.
Phần mềm hệ thống (System Sofware): quản lý và điều hành mọi hoạt động của
máy tính ở mức hệ thống.
Phần mềm ứng dụng (Application Software): đợc thiết kế nhằm sử dụng sức
mạnh của máy tính trong việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Phần mềm ứng
dụng lại bao gồm 3 loại: phần mềm ứng dụng cho ngời dùng thông thờng (trò
chơi, phần mềm học tập), phần mềm ứng dụng chuyên ngành (phần mềm
quản lý tài chính, ngân hàng, bảo hiểm), và phần mềm đa ngành (phần mềm
kế toán quản lý, nhân sự, soạn thảo văn bản).
2.1.3. Đặc tính chung
Là một hàng hóa trong nền kinh tế thị trờng, phần mềm cũng có hai thuộc tính là
giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên, không giống những hàng thông thờng nh gạo,
thủy sản, phần mềm là một loại hàng hóa đặc biệt có những đặc tính riêng.
Thứ nhất, phần mềm là một loại hàng hóa vô hình, chứa đựng ý tởng và sáng tạo
của tác giả, nhóm tác giả làm ra nó. Hàm lợng chất xám của phần mềm rất đậm
6
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
đặc. Cái mà chúng ta nhìn thấy nh đĩa CD, đĩa mềm chỉ là cái để chứa phần
mềm. Ngời ta không thể đánh giá phần mềm bằng những chỉ tiêu thông thờng nh
dài bao nhiêu mét, nặng bao nhiêu cân.
Thứ hai, phần mềm vốn có lỗi tiềm tàng. Không có phần mềm nào khi làm ra đã

hoàn hảo. Quy mô càng lớn thì khả năng có lỗi càng cao. Lỗi phần mềm dễ bị phát
hiện bởi ngời sử dụng. Một minh chứng cho đặc tính này là trờng hợp hệ điều hành
Windows XP vốn đợc Microsoft tự tin là hệ điều hành chuyên nghiệp vẫn không
tránh đợc lỗi, đặc biệt là các lỗi an toàn bảo mật cho phép tin tặc tấn công các máy
có sử dụng các phiên bản Windows này. Điều này có thể thấy rõ qua sự phát hoại
của sâu máy tính Blaster và các biến thể của nó do đã khai thác đợc lỗi tràn bộ đệm
của các phiên bản Windows.
Thứ ba, tuy phần mềm nào cũng tiềm tàng lỗi nhng chất lợng phần mềm không vì
thế mà giảm đi. Trái lại, nó còn có xu hớng tốt lên sau mỗi lần có lỗi đợc phát hiện
và sửa chữa. Cũng vẫn trong trờng hợp virus Blaster tấn công hệ điều hành
Windows, sau khi đã cập nhật các bản sửa lỗi hoặc cấu hình tờng lửa thì ta hoàn
toàn có thể vô hiệu hóa khả năng lây nhiễm và phá hoại của sâu Blaster. Nói
chung, sau mỗi lần sửa lỗi nh thế, phần mềm lại trở nên tốt hơn.
Thứ t, phần mềm rất dễ bị mất bản quyền. Sở dĩ vậy bởi việc sao chép phần mềm
rất đơn giản. Khi đã có một bản phần mềm, chỉ cần một vài động tác sao chép là có
thể có ngay một bản thứ hai. Điều này thật quá dễ dàng so với việc làm ra một
chiếc ô tô, hay một TV giống hệt cái ban đầu. Đáng chú ý là việc mất bản quyền ở
đây không chỉ là mất bản quyền về bản thân phần mềm đó mà còn bao gồm bản
quyền về ý tởng sản xuất ra phần mềm đó. Vì thế, có thể nói ý tởng phần mềm là
của chung.
Thứ năm, vòng đời phần mềm rất ngắn ngủi. Điều này thật dễ hiểu vì CNTT là một
công nghệ biến chuyển nhanh. Phần mềm, hệ thần kinh mà con ngời trang bị cho
máy tính để máy tính hoạt động theo ý muốn mình, cũng phải thay đổi theo. Khi đã
có một phần mềm mới ra đời, u việt hơn thì phần mềm cũ chắc chắn sẽ bị đào thải.
7
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Thứ sáu, đầu t cho R&D để hoàn thiện sản phẩm phần mềm là rất lớn. Đây là một
điều bắt buộc nếu các doanh nghiệp sản xuất phần mềm muốn tồn tại và phát triển
bởi nh ta đã biết, chu kỳ phần mềm rất ngắn ngủi. Nếu không nghiên cứu để làm ra
phần mềm mới thay thế phần mềm cũ, hoặc cải tiến phần mềm cũ, doanh nghiệp sẽ

mất khách hàng, thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh.
Thứ bảy, tính toàn cầu và cạnh tranh trong ngành sản xuất và xuất khẩu phần mềm
rất mãnh liệt. Đặc tính này là hệ quả của hai đặc tính trên. Với một sản phẩm có
vòng đời ngắn, có đầu t cho R&D lớn, cạnh tranh là điều tất yếu. Với sự phát triển
mạnh của CNTT, cạnh tranh đã không chỉ còn dừng trong biên giới quốc gia mà
còn vơn tới phạm vi toàn cầu.
Thứ tám, bán trên mạng là hình thức phân phối chủ yếu. Đây là một đặc tính nổi
bật của phần mềm. Phần mềm là một bộ phận của CNTT mà CNTT ngày này gắn
liền với khái niệm mạng. Hơn bất kỳ sản phẩm nào khác, bán hàng qua mạng là
hình thức thuận tiện và dễ dàng nhất khi kinh doanh phần mềm.
2.2. Sản phẩm và dịch vụ phần mềm
Không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm phần mềm một khái niệm thuộc lĩnh
vực CNPM, sản phẩm phần mềm là một khái niệm gắn liền với sự hình thành và
phát triển của CNpPM. Chỉ khi phần mềm đợc đem ra mua bán trao đổi, trở thành
hàng hóa thì mới xuất hiện CNpPM. Và sản phẩm phần mềm càng phong phú đa
dạng thì CNpPM càng lớn mạnh.
Quyết định số 128/2000 QĐ - Ttg của Thủ tớng chính phủ quy định: Sản phẩm
phần mềm là phần mềm đợc sản xuất và đợc thể hiện hay lu trữ ở bất kỳ một
dạng vật thể nào, có thể đợc mua bán hoặc chuyển giao cho đối tợng khác sử
dụng. Sản phẩm phần mềm theo cách hiểu của Quyết định này bao gồm phần
mềm nhúng, phần mềm đóng gói, phần mềm chuyên dụng và sản phẩm thông tin số
hóa.
8
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Phần mềm nhúng là sản phẩm phần mềm đợc nhà sản xuất thiết bị cài sẵn vào
thiết bị và đợc sử dụng cùng thiết bị mà không cần có sự cài đặt của ngời sử
dụng hay ngời thứ ba.
Phần mềm đóng gói là sản phẩm phần mềm có thể sử dụng đợc ngay sau khi
ngời sử dụng hoặc nhà cung cấp dịch vụ cài đặt vào các thiết bị hay hệ thống.
Chúng gồm hai loại: phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng.

Phần mềm chuyên dụng là sản phẩm phần mềm đợc phát triển theo yêu cầu cụ
thể và riêng biệt của khách hàng.
Sản phẩm thông tin số hóa là nội dung thông tin số hóa đợc lu trữ trên một vật
thể nào đó.
Trong nền kinh tế ngày nay, khái niệm hàng hóa không chỉ đơn thuần là sản phẩm
hàng hóa hữu hình mà trong đó còn bao hàm khái niệm hàng hóa vô hình dịch
vụ. Sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu trong lĩnh vực CNpPM cũng vậy. Bên cạnh
việc mua bán sản phẩm phần mềm, thị trờng thế giới còn rất nhộn nhịp với hoạt
động cung cấp dịch vụ liên quan đến phần mềm. Có lẽ vì vậy mà đối tợng đợc hởng
u đãi nh quy định trong Quyết định 128/2000 QĐ - Ttg là những tổ chức, cá nhân
sản xuất sản phẩm phần mềm và cung cấp dịch vụ phần mềm. Theo quyết định này,
dịch vụ phần mềm đợc định nghĩa là mọi hoạt động trực tiếp phục vụ việc sản
xuất sản phẩm phần mềm, khai thác, nghiên cứu, sử dụng, đào tạo, phổ biến và
hoạt động tơng tự khác liên quan đến phần mềm. Các dịch vụ này bao gồm: t
vấn phần mềm, tích hợp, cung cấp hệ thống, dịch vụ chuyên nghiệp về phần mềm,
gia công phần mềm, dịch vụ xử lý dữ liệu, huấn luyện và đào tạo
Theo tinh thần này, hoạt động xuất khẩu phần mềm phải đợc hiểu là xuất khẩu cả
sản phẩm lẫn dịch vụ phần mềm. Vì vậy, kể từ đây, trong phạm vi luận văn này,
nếu không có giải thích gì khác, xin đợc dùng khái niệm phần mềm để chỉ chung
cả sản phẩm lẫn dịch vụ phần mềm mỗi khi đề cập đến hoạt động sản xuất và xuất
khẩu phần mềm.
9
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
3.
Các hình thức xuất khẩu phần mềm
Xuất khẩu phần mềm (XKPM) đợc tiến hành dới bốn hình thức: gia công phần
mềm xuất khẩu, xuất khẩu phần mềm đóng gói, xuất khẩu phần mềm tại chỗ và
xuất khẩu lao động phần mềm. Tuy nhiên, căn cứ vào thực trạng hoạt động XKPM
nớc ta hiện nay - thị phần giành cho xuất khẩu phần mềm tại chỗ quá nhỏ, còn xuất
khẩu lao động phần mềm cha đủ sức để vơn ra thế giới, chỉ xin đi sâu phân tích hai

hình thức đầu.
3.1. Gia công phần mềm xuất khẩu
Gia công phần mềm xuất khẩu là việc công ty phần mềm trong nớc theo yêu cầu
đặc tả của khách hàng nớc ngoài mà làm ra sản phẩm phần mềm và nhận phí gia
công. Khách hàng nớc ngoài có thể hỗ trợ về tài chính nếu nh khối lợng công việc
tơng đối lớn.
Nh vậy, gọi là gia công xuất khẩu nhng gia công phần mềm xuất khẩu không giống
nh gia công các hàng hóa khác. Đối với các hàng hóa thông thờng, bên đặt gia công
thờng cung cấp nguyên liệu thô để bên nhận gia công chỉ việc tiến hành sản xuất
rồi thu phí gia công. Còn với gia công phần mềm, không có nguyên liệu thô để giao
cho bên nhận gia công mà chỉ có trờng hợp bên đặt gia công yêu cầu bên kia sử
dụng một ngôn ngữ lập trình nào đó. Nếu đây là một ngôn ngữ thông dụng mà bên
gia công đã có sẵn tại cơ sở thì thôi, còn nếu là một ngôn ngữ đặc biệt thì bên đặt
gia công sẽ cung cấp. Bên nhận gia công tự tìm hiểu ngôn ngữ đó rồi tiến hành theo
yêu cầu của khách hàng.
Đây là hình thức xuất khẩu phần mềm chủ yếu của các nớc đang phát triển bởi nó
có khá nhiều u điểm.
Trớc hết, các công ty gia công không phải lo đầu ra cho sản phẩm, không phải
lo thiết kế và tạo lập ý tởng về sản phẩm, không phải đầu t vốn. Điều này rất phù
hợp với các doanh nghiệp vừa, nhỏ ở các nớc đang phát triển bởi các doanh
10
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
nghiệp này vốn ít, nhân lực mỏng, thiếu cả kinh nghiệm cạnh tranh lẫn kiến
thức về thị trờng quốc tế.
Ngoài ra, từ những hợp đồng gia công nh vậy, các nớc nhận gia công có thể tiếp
cận với công nghệ mới, làm quen dần với thị trờng quốc tế.
Tuy vậy, gia công phần mềm xuất khẩu cũng có nhiều nhợc điểm.
Thứ nhất, công ty nhận gia công chỉ thu đợc mức phí gia công nhỏ bé. Khoản
tiền này thờng chẳng là gì so với tổng lợi nhuận có đợc từ việc bán sản phẩm
cuối cùng.

Thứ hai, bên nhận gia công không đợc giữ bản quyền sản phẩm. Điều này về dài
hạn là không tốt đối với công ty nhận gia công bởi họ sẽ không đợc thị trờng
biết đến, hoặc chỉ biết đến nh một ngời làm thuê.
Cuối cùng, công ty nhận gia công thụ động từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
Khi tiềm lực còn nhỏ thì việc này là một u điểm bởi có thể học đợc công nghệ
mới, tận dụng đợc hệ thống phân phối của đối tác. Nhng trong dài hạn, việc chỉ
dừng lại ở gia công xuất khẩu sẽ làm mất tính năng động của công ty, làm công
ty xa rời thị trờng và giảm năng lực cạnh tranh.
3.2. Xuất khẩu phần mềm đóng gói
Xuất khẩu phần mềm đóng gói là việc công ty phần mềm trong nớc dựa trên các kết
quả nghiên cứu thị trờng của mình, lựa chọn sản xuất sản phẩm để tiêu thụ trên thị
trờng nớc ngoài. Khách hàng là ngời sử dụng cuối cùng còn công ty phần mềm là
ngời nắm giữ bản quyền sản phẩm.
Xuất khẩu phần mềm đóng gói có những u điểm mà gia công phần mềm không có
đợc. Đó là:
Ngời xuất khẩu không phải chia xẻ lợi nhuận với một ai. Đây là một u điểm lớn
so với gia công phần mềm xuất khẩu, hình thức xuất khẩu mà ngời nhận gia
công chỉ đợc nhận một khoản phí gia công nhỏ bé.
11
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Ngời xuất khẩu và ngời nhập khẩu tiếp xúc trực tiếp với nhau. Vì thế ngời xuất
khẩu nắm rất rõ tình hình thị trờng thế giới. Bản quyền sản phẩm làm ra lại nằm
trong tay ngời xuất khẩu nên nếu muốn phát triển vị thế của mình trên thị trờng
không gặp nhiều trở ngại nh công ty chỉ chuyên gia công phần mềm xuất khẩu.
Những u điểm này có đợc là do công ty xuất khẩu phần mềm đóng gói đảm nhận
mọi công đoạn, từ khâu sản xuất phần mềm cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Nhng
cũng chính điều này làm cho hình thức xuất khẩu phần mềm đóng gói có một số
nhợc điểm.
Nếu công ty nhận gia công phần mềm xuất khẩu hoàn toàn yên tâm về việc sản
phẩm làm ra chắc chắn sẽ tiêu thụ đợc thì với công ty xuất khẩu phần mềm đóng

gói, tỷ lệ rủi ro do không đảm bảo đợc thị trờng đầu ra cho sản phẩm khá lớn,
nhất là với tốc độ phát triển mạnh mẽ của CNTT hiện nay.
Để có thể đảm đơng đợc mọi khâu nh vậy, công ty cần có một tiềm lực nhất
định về vốn cũng nh về nhân lực.
Ngay cả khi đủ tiềm lực về vốn và nhân lực, công ty xuất khẩu phần mềm đóng
gói vẫn gặp rất nhiều rủi ro bởi phải đảm nhận nhiều công đoạn từ phân tích,
thiết kế, lập trình kiểm thử và phân phối.
ở Việt Nam hiện nay, do nền CNpPM còn kém phát triển, tiềm lực của các công ty
phần mềm cha lớn nên hình thức xuất khẩu phổ biến nhất vẫn là gia công phần
mềm xuất khẩu.
12
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
II. Vị trí, vai trò của XKPM trong nền kinh tế quốc
dân Việt Nam
1. Vị trí của hoạt động XKPM trong nền kinh tế quốc dân
Việt Nam
Cũng nh tất cả các ngành khác, vị trí của hoạt động XKPM trong nền kinh tế quốc
dân phụ thuộc rất lớn vào vị trí bản thân ngành CNpPM.
Chỉ thị số 58/CT/TW của Bộ Chính trị ra ngày 17/ 10/ 2000 đã xác định mục tiêu:
Công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ
và chất lợng cao nhất so với các khu vực khác, có tỷ lệ đóng góp cho tăng trởng
GDP của cả nớc ngày càng tăng Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin
thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phát triển công nghiệp phần
mềm.
Nghị quyết số 07/ 2000 NQ CP của chính phủ làm rõ thêm: Công nghiệp phần
mềm là một ngành kinh tế mới, có giá trị tăng cao, có nhiều triển vọng Nhà
nớc khuyến khích và u đãi tối đa việc phát triển công nghiệp phần mềm.
Cuối cùng, Quyết định số 95/2002/QĐ - Ttg ra ngày 17 tháng 7 năm 2002 khẳng
định: Xây dựng công nghiệp phần mềm thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có
tốc độ tăng trởng trung bình hàng năm 30-35%.

Coi CNpPM là ngành kinh tế mũi nhọn không phải là ý muốn chủ quan mà hoàn
toàn mà là xu thế chung của thế giới. Mặc dù cho đến nay, trong cơ cấu của
CNpCNTT ngành công nghiệp của một công nghệ dàn trải, CNpPC vẫn chiếm tỷ
trọng lớn nhất nhng rất nhiều quốc gia trên thế giới coi CNpPM mới là mũi nhọn
của CNpCNTT. Sở dĩ vậy bởi phần cứng chỉ là cơ sở vật chất thiết bị ban đầu. Sau
khi đã trang bị khá đầy đủ ngời ta sẽ tập trung phát triển các ứng dụng trên cơ sở
vật chất kỹ thuật, thiết bị ban đầu đó và phải cần đến phần mềm. Hơn nữa, tỷ suất
13
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
lợi nhuận của các khoản đầu t trong lĩnh vực phần mềm là rất cao và đầu t vào phần
mềm không đòi hỏi vốn quá lớn. Tỷ suất này hiện nay gấp 5-7 lần tỷ suất lợi nhuận
trong các ngành công nghiệp khác. Tỷ lệ giá trị gia tăng trên doanh thu của các
công ty phần mềm lên tới 50-75%.
7
Thực tế hoạt động kinh doanh phát đạt của
nhiều công ty phần mềm nh Microsoft, Oracle trên thế giới đã chứng minh xu
thế này. Hy vọng trong một tơng lai không xa, thành quả này sẽ đến với Việt Nam
chúng ta.
Trong ngành kinh tế mũi nhọn này, hoạt động XKPM có vị trí nh thế nào? Nghị
quyết số 07/ 2000 NQ CP của chính phủ đã xác định: Bớc đầu, chú trọng
hình thức xuất khẩu qua gia công và cung cấp dịch vụ cho các công ty nớc
ngoài. Đồng thời mở rộng thị trờng trong nớc, trớc mắt tập trung phát triển
phần mềm trong một số lĩnh vực sớm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội, thay thế
các sản phẩm phần mềm nhập khẩu. Nhanh chóng tổ chức xuất khẩu lao động
phần mềm và phần mềm đóng gói để công nghiệp phần mềm của Việt Nam từng
bớc đạt đợc vị thế trên thị trờng thế giới. Nh vậy, theo quan điểm này, thị trờng
trong nớc và thị trờng nớc ngoài đều có vị trí quan trọng nh nhau. Còn trong giai
đoạn này nên tập trung vào xuất khẩu ra thế giới hay thị trờng nội địa?
Rất nhiều hội thảo đã đề cập đến câu hỏi này nhng vẫn cha xác định đợc câu trả lời
cuối cùng. Tuy nhiên, cần lu ý rằng thị trờng phần mềm trong nớc chỉ mới vừa đợc

hình thành. Quy mô còn rất nhỏ bé, trong những năm gần đây chỉ mới đạt khoảng
60 triệu USD (trong số đó doanh số của các công ty phần mềm Việt Nam chỉ chiếm
từ 14 đến 15 triệu USD)
8
. Cơ cấu sản phẩm đơn điệu về chủng loại, giá trị đầu t
thấp. Sở dĩ vậy bởi trớc hết ngành CNPM non trẻ của Việt Nam phải đối mặt với
sức ép cạnh tranh khốc liệt của quá trình hội nhập. Hơn nữa, trình độ ứng dụng
CNTT của khách hàng còn thấp. Họ thực sự cha hiểu rõ họ cần những ứng dụng
phần mềm nào. Những ngời hiểu biết và có nhu cầu cao thì lại tìm đến các đối tác
7
Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm mang thơng hiệu Việt Nam Đặng Trung Kiên Lớp
Nga - K 37 - Đại học Ngoại Thơng Hà Nội
8
Theo www.vnpost.dgpt.gov.vn/bao-2003/so15/chuyende/t9b2.htm
14
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
nớc ngoài. Bởi thế, các doanh nghiệp sản xuất phần mềm Việt Nam không thể chỉ
dừng lại ở thị trờng trong nớc mà phải vơn ra thị trờng nớc ngoài. Điều này sẽ tạo
cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội học tập, tiếp nhận công nghệ mới.
Chiếm vị trí quan trọng trong một ngành kinh tế mũi nhọn, phần mềm tuy vậy
không phải là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Quy mô hoạt động
XKPM nớc ta còn rất nhỏ bé so với các mặt hàng khác. Ước tính đến hết năm
2003, kim ngạch XKPM Việt Nam mới đạt khoảng 25 triệu USD trong khi ngay từ
năm 1995, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nh dệt may, giày dép, thủy sản đã
bỏ xa con số này (Bảng 1). Đây là một thực trạng đáng thất vọng nếu xét đến tiềm
năng thực sự của Việt Nam. Hy vọng trong tơng lai không xa, XKPM Việt Nam sẽ
khẳng định đợc vị trí mũi nhọn của mình.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam
(1995-2002)
Đơn vị: triệu USD

Ngành 1995 1999 2000 2001 2002
Dệt may 850,0 1746,2 1891,9 1975,4 2752,0
Giày dép 296,4 1387,1 1471,7 1587,4 1867,0
Thủy sản 621,4 973,6 197,5 1816,4 2023,0
Rau quả tơi và chế biến 56,1 106,6 213,1 344,3 201,0
Nguồn : Niên giám thống kê năm 2002 (tramg 376 377) -NXB Thống kê
15
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
2.
Vai trò của hoạt động XKPM trong nền kinh tế quốc dân
Việt Nam
2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
CNH là nấc thang tất yếu trong quá trình phát triển của mọi quốc gia. Thực chất
đây là một quá trình chuyển lao động thủ công thành lao động máy móc trên quy
mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của nó là tạo lập cơ sở vật chất
kỹ thuật và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế ứng với mỗi trình độ của cơ
sở vật chất kỹ thuật đã đạt đợc.
Khái niệm CNH đối với nhiều nớc đã thuộc về quá khứ. Nhng cũng với nhiều nớc,
CNH còn mới bắt đầu hoặc đang đợc tiến hành. Việt Nam là một trong những nớc
nh vậy, dù ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (3/60), Đảng ta đã xác định
CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nớc ta.
Vào giai đoạn đầu tiến hành CNH này, chúng ta áp dụng cơ chế quản lý hành chính
quan liêu bao cấp và kế hoạch hóa tập trung trong nền kinh tế quốc dân. Mọi ngời
đều quen và chấp nhận lối sống bình quân, thậm chí có ngời còn coi sự giàu có là
xấu xa, tội lỗi. Vì thế, khoa học và công nghệ với t cách là công cụ, là phơng tiện
hữu hiệu nhất giúp con ngời vơn lên làm giàu đã trở nên không cần thiết. Trong
nhiều năm liền, vai trò của khoa học công nghệ không đợc nhận thức đầy đủ. Nghị
quyết 26 của Bộ Chính trị (khóa VI) quy định mức đầu t tối thiểu cho khoa học và
công nghệ là 2% nhng việc thực hiện thờng chỉ đợc 1%. Những điều kiện cần thiết

để tiếp thu khoa học công nghệ cũng không đợc quan tâm một cách thích đáng.
Chẳng hạn nh mặt bằng dân trí nớc ta, tuy so với nhiều nớc nghèo trên thế giới có
cao hơn nhng nhìn chung vẫn cha đủ độ cần thiết để có thể phổ cập rộng rãi tri thức
khoa học và công nghệ. ở nớc ta có 9% dân số mù chữ, cha phổ cập đợc giáo
dục tiểu học, tỷ lệ sinh viên trên dân số còn quá thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo
16
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
mới đạt trên 10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có
tay nghề và trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao.
9
Và vì thế, việc tiến hành CNH
trong giai đoạn này của chúng ta đã thất bại.
Nhìn nhận đợc nguyên nhân thất bại, tại Đại hội Đảng VIII, Đảng ta đã xác định:
Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Đến Hội nghị lần thứ 2,
Ban chấp hành TW khóa VIII, Đảng ta lại khẳng định lại: Cùng với giáo dục đào
tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh
tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành
công CNXH. CNH, HĐH đất nớc bằng và dựa vào công nghệ.
Thời đại ngày nay là thời đại của văn minh trí tuệ, của tin học. CNTT là yếu tố
quan trọng cấu thành công nghệ hiện đại và cũng là huyết mạch của nền kinh tế thị
trờng, của đời sống xã hội. Vì thế, việc xác định khoa học công nghệ là động
lực cũng có thể đợc hiểu là Đảng ta đã khẳng định vai trò của CNTT nói chung và
CNPM một bộ phận quan trọng của CNTT nói riêng trong quá trình CNH
HĐH đất nớc đúng nh Nghị quyết số 07/ 2000 NQ CP đã thừa nhận: Phát triển
CNTT, đặc biệt công nghiệp phần mềm là chủ trơng đợc Đảng và nhà nớc ta u
tiên quan tâm, là một trong những cách đi tắt đón đầu để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nớc
Có vị trí ngang với hoạt động bán hàng trong nớc trong cơ cấu CNpPM nhng hoạt
động XKPM do cho phép chúng ta tiếp cận với thị trờng thế giới nên rất gần với
hoạt động chuyển giao công nghệ. Vì thế, có thể nói XKPM là một trong những

cách đi tắt đón đầu để thực hiện CNH - HĐH đất nớc.
9
Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1997, trang 223.
17
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
2.2. Hỗ trợ Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
Không một quốc gia nào trên thế giới ngày nay, từ nớc giàu nhất cho đến nớc
nghèo nhất có thể khớc từ, không tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế. Việt
Nam cũng vậy. Tại Đại hội Đảng IX Đảng CSVN, Đảng ta đã tuyên bố: Thực
hiện nhất quán đờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phơng hóa, đa
dạng hóa các quan hệ kinh tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Vậy XKPM có vai trò nh thế nào trong quá trình hội nhập quốc tế của nớc ta?
Trớc hết, đổi mới khoa học công nghệ đợc xác định là một trong số những nhiệm
vụ quan trọng trong quá trình hội nhập. Nghị quyết số 07 NQ/TW ra ngày 27/
11/ 2001 của Bộ Chính Trị ghi rõ: Chủ động và khẩn trơng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh
tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nớc ta Trong quá trình hội nhập,
cần tranh thủ những tiến bộ mới của khoa học công nghệ.
Thứ đến, dù cả một quốc gia, hay chỉ là một doanh nghiệp, khi đã hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu, để tồn tại và phát triển đợc thì điều kiện đầu tiên cần là năng lực
cạnh tranh gồm cả năng lực cạnh tranh sản phẩm và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh sản phẩm của mỗi doanh nghiệp chịu ảnh hởng của hai nhóm
yếu tố: yếu tố ngoài doanh nghiệp và yếu tố do doanh nghiệp chi phối. Chỉ xin bàn
đến nhóm yếu tố do doanh nghiệp chi phối. Nhóm này bao gồm: chiến lợc kinh
doanh, trình độ khoa học công nghệ, sản phẩm, năng suất lao động, chi phí sản
xuất và quản lý, đầu t cho R&D.
18

Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Còn về năng lực cạnh tranh quốc gia, cho đến năm 1999, vẫn đợc Diễn đàn kinh tế
thế giới WEF dựa trên kết quả điều tra theo mẫu ở từng nớc kết hợp với thăm dò ý
kiến của 1500 công ty trên thế giới đánh giá theo 8 nhóm tiêu chí với 155 chỉ tiêu.
Tám nhóm này gồm: độ mở của nền kinh tế; vai trò và hiệu lực của chính phủ; sự
phát triển của hệ thống tài chính tiền tệ; trình độ phát triển của công nghệ;
trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng; trình độ quản lý của doanh nghiệp; số lợng và
chất lợng của lao động; trình độ phát triển của thể chế. Theo đánh giá này, năm
1997, Việt Nam đứng thứ 49 trong số 53 nớc đợc xếp hạng. Thứ hạng tơng ứng của
năm 1998, 1999 là 39/ 53; 48/ 59.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm chỉ tiêu, gộp thành 3 nhóm lớn là:
sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính và quốc tế hóa. Trọng số của sáng
tạo kinh tế, khoa học công nghệ tăng từ 1/ 9 lên 1/ 3. Theo cách đánh giá mới này
xếp hạng của Việt Nam là 53/ 59 vào năm 2000 và là 62/ 75 vào năm 2001.
10
Nh vậy, có thể thấy khi đánh giá năng lực cạnh tranh dù là của quốc gia hay của
sản phẩm, dù theo cách mới hay theo cách cũ, yếu tố khoa học công nghệ đều đợc
xét tới. Điều đó chứng tỏ, việc xác định đổi mới khoa học công nghệ là một nhiệm
vụ quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế không phải là ý muốn chủ quan của
Đảng ta mà là một điều tất yếu đợc cả thế giới thừa nhận. Mà đã nói đến những tiến
bộ mới của khoa học công nghệ, không thể không nói đến CNPM,đến chuyển giao
công nghệ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc khẳng định vai trò to lớn của hoạt
động XKPM trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế của nớc ta.
10
Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Chủ biên: Nguyễn Hữu Phớc Nhà xuất bản Thống kê -
2003.
19
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
2.3. Góp phần giải quyết bài toán lao động
Là một đòn bẩy thúc đẩy công cuộc đổi mới của nớc ta, CNPM nói chung và

XKPM nói riêng đã và đang nhận đợc sự đầu t thích đáng của nhà nớc. Sự đầu t này
nhằm nâng cao chất lợng vật lực lẫn nhân lực. Chỉ thị số 58/ CT/ TW của Bộ Chính
trị đã khẳng định: Đến năm 2005, ít nhất phải đào tạo thêm đợc 50.000 chuyên
gia về CNTT ở các trình độ khác nhau, đạt chỉ tiêu về số lợng (tính trên 10.000
dân) và chất lợng chuyên gia trong lĩnh vực CNTT ngang với mức bình quân
của các nớc trong khu vực. Trong số 50.000 chuyên gia về CNTT này cần đảm
bảo 25.000 chuyên gia về CNPM. Định hớng này có vai trò đáng kể trong việc tìm
đầu ra cho lao động Việt Nam. Không ai không biết Việt Nam là một nớc có tỷ lệ
xóa nạn mù chữ cao, có cơ cấu lao động trẻ, ngời lao động Việt Nam cần cù, chịu
khó. Song chất lợng lao động Việt Nam vẫn không cao, ngời lao động Việt Nam
vẫn không đáp ứng đợc yêu cầu của những công việc trong lĩnh vực công nghệ cao.
Vì vậy, việc nhà nớc đầu t cho việc phát triển nhân lực trong lĩnh vực CNTT và
CNPM là một cú hích nhằm nâng cao chất lợng lao động Việt Nam. Việc này, đến
lợt nó lại góp phần giải quyết nạn thất nghiệp, giải quyết đầu ra cho lao động Việt
Nam bởi chỉ lao động có chất lợng cao, đợc đào tạo đúng hớng mới đáp ứng đợc
nhu cầu trên thị trờng lao động hiện nay nhu cầu về lao động chất xám. Bảng 2
chứng minh điều này. Trong suốt giai đoạn 1996 2002, số ngời làm phần mềm
luôn tăng với tốc độ lớn hơn hẳn tốc độ tăng của lực lợng lao động cả nớc Việt
Nam.
20
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Bảng 2: Lao động Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ và phần
mềm giai đoạn 1996 - 2002.
Đơn vị: Nghìn ngời
Năm
Tổng số LĐVN LĐ trong ngành
KH&CN
LĐ viết phần mềm
STĐ % tăng tr-
ởng

STĐ % tăng tr-
ởng
STĐ % tăng
trởng
1996 33760,8 102,2 36,5 - 0,19
1997 34493,3 102,2 35,7 97,8 0,23 121,05
1998 35232,9 102,1 35,0 98,0 0,28 121,74
1999 35975,8 102,1 34,4 98,3 0,34 121,43
2000 36701,8 102,0 33,7 98,0 0,458 134,71
2001 37676,4 102,7 33,4 99,1 0,608 132,75
2002 - - - - 0,74 121,71
Nguồn: Niên giám thống kê 2002 (trang 39 41) và tạp chí Thế giới vi tính B
số tháng 8/2002, trang 11.
2.4.
Tăng thu ngoại tệ cho quốc gia, góp phần cân đối cán
cân thơng mại, cán cân thanh toán
Dự trữ ngoại tệ là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tiềm lực kinh tế của một
quốc gia. Ngoại tệ thu về từ nhiều nguồn nh du lịch, vốn vay, đầu t nớc ngoài nh-
ng nhiều nhất vẫn là từ xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu có một vai trò quan trọng
trong việc cân đối cán cân thơng mại cũng nh cán cân thanh toán.
21

×