Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.23 KB, 31 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1 - Sự cần thiết phải quản lý và tổ chức kế toán nguyên vật liệu trong các
doanh nghiệp sản xuất
1.1.1 - Khái niệm về nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là một bộ phận trọng yếu của tư liệu sản xuất. Các Mác đã
viết “Đối tượng đã qua một lần lao động trước kia rồi thì gọi là nguyên liệu”. Như
vậy, tất cả nguyên liệu đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng
lao động đã trải qua tác động của con người. Không những thế Các Mác còn chỉ rõ
“Nguyên liệu có thể hình thành thực thể chủ yếu của một sản phẩm hay chỉ gia
nhập sản phẩm dưới hình thức sản phẩm phụ”. Vật liệu là những nguyên liệu được
tiếp tục qua gia công chế biến hay nói cách khác tiếp tục có sự tác động của con
người.
Nguyên liệu, vật liệu gọi tắt là nguyên vật liệu, được chia thành nguyên vật
liệu chính và nguyên vật liệu phụ không phải dựa vào đặc tính lý, hoá hoặc khối
lượng tiêu hao, mà căn cứ vào sự tham gia của chúng vào mức cấu thành sản
phẩm. Nhiên liệu, năng lượng thì thuộc về vật liệu phụ nhưng do tầm quan trọng
của chúng nên được tách ra thành những yếu tố riêng.
Như chúng ta đã biết, mục đích cơ bản nhất của quá trình con người sử dụng
tư liệu lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất hoá lý của đối tượng
lao động là để tạo ra sự đa dạng phong phú chủng loại, mẫu mã sản phẩm đáp ứng
đầy đủ nhu cầu đa dạng của thị trường.
Như vậy, nguyên vật liệu là một trong ba bộ phận quan trọng của quá trình
sản xuất (Sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động) trực tiếp cấu tạo
nên thực thể sản phẩm. Nội dung cơ bản của đối tượng lao động là nguyên vật liệu.
Nếu tài sản lưu động được nhìn theo giác độ hình thái biểu hiện thì nguyên
vật liệu chính là một trong các dạng thức chủ yếu của tài sản lưu động.
1.1.2 - Đặc điểm và vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất
1.1.2.1 - Đặc điểm của nguyên vật liệu
Một doanh nghiệp sản xuất phải có đủ ba yếu tố: lao động, tư liệu lao động,
đối tượng lao động. Ba yếu tố này có sự tác động qua lại với nhau để tạo ra của cải


vật chất cho xã hội. Đối tượng lao động là tất cả mọi vật có sẵn trong tự nhiên ở
quanh ta mà lao động có ích của con người có thể tác động vào. Đối tượng lao
động được chia thành hai loại: Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như gỗ trong
rừng nguyên thuỷ, quặng trong lòng đất… Loại thứ hai đã qua chế biến, nghĩa là có
sự tác động của lao động, gọi là vật liệu.
Nguyên vật liệu có đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất
nhất định. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác động của lao động chúng
bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo ra hình thái
vật chất của sản phẩm.
- Về mặt giá trị: Khi tham gia vào quá trình sản xuất toàn bộ giá trị của
nguyên vật liệu chuyển dịch một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Nguyên vật liệu thuộc loại tài sản lưu động, giá trị nguyên vật liệu tồn kho là vốn
lưu động dự trữ cho sản xuất của doanh nghiệp.
1.1.2.2 - Vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất
Từ đặc điểm cơ bản của nguyên vật liệu ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng
của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ bị
ảnh hưởng nếu việc cung cấp nguyên vật liệu không đầy đủ, kịp thời. Chất lượng
của sản phẩm cũng phụ thuộc rất nhiều vào chất liệu của nguyên vật liệu làm ra nó.
Do vậy, để sản xuất được những sản phẩm tốt, thoả mãn được nhu cầu của khách
hàng cần phải có những nguyên vật liệu có chất lượng cao đảm bảo đúng quy cách
chủng loại.
Mặt khác chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá
thành sản xuất của sản phẩm (trong sản phẩm công nghiệp giá trị nguyên vật liệu
chiếm khoảng 50 – 60% giá thành sản xuất, trong sản phẩm chế biến giá trị nguyên
vật liệu chiếm tới 70 – 80% giá thành sản xuất sản phẩm). Vì thế nên việc tập trung
quản lý nguyên vật liệu một cách chặt chẽ ở tất cả các khâu từ thu mua, bảo quản,
dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu nhằm hạ thấp chi phí, giảm mức tiêu hao nguyên
vật liệu là vấn đề vô cùng quan trọng mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần
phải quan tâm. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn, hạ giá thành sản phẩm và trong một chừng mực nào đó việc giảm tiêu hao
nguyên vật liệu còn tiết kiệm được nguồn tài nguyên đang ngày càng cạn kiện dần,
là cơ sở để tăng sản phẩm xã hội.
1.1.3 - Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý nguyên vật liệu
Trong điều kiện hiện nay nền sản xuất ngày càng mở rộng và phát triển trên
cơ sở thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của cộng đồng xã hội. Việc sử dụng
nguyên vật liệu tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả ngày càng được coi trọng. Do vậy
công tác quản lý là yêu cầu tất yếu của mọi phương thức sản xuất. Xã hội ngày
càng phát triển, nhu cầu của xã hội ngày càng cao đòi hỏi sản phẩm tiêu thụ nhiều
hơn, chất lượng cao hơn, đa dạng về mẫu mã chủng loại, về mầu sắc. Chính vì vậy
mà vật liệu cấu thành nên sản phẩm cũng phải không ngừng được nâng cao về chất
lượng và chủng loại. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các ngành sản
xuất chưa đáp ứng đầy đủ nguyên vật liệu cho yêu cầu sản xuất, do đó yêu cầu
công tác quản lý vật liệu phải toàn diện ở tất cả các khâu từ thu mua, bảo quản, dự
trữ và sử dụng nguyên vật liệu.
- Ở khâu thu mua: Mỗi loại vật liệu có tính chất lý hoá khác nhau, công dụng
khác nhau, mức độ và tỉ lệ khấu hao khác nhau do đó thu mua phải làm sao cho đủ
số lượng, đúng chủng loại, phẩm chất tốt, giá cả hợp lý, chỉ cho phép hao hụt trong
định mức. Đặc biệt quan tâm tới chi phí thu mua làm hạ thấp chi phí nguyên vật
liệu một cách tối đa.
- Ở khâu bảo quản: Cần đảm bảo theo đúng chế độ quy định, phù hợp với
tính chất lý hoá của mỗi loại nguyên vật liệu, phù hợp với quy mô tổ chức của
doanh nghiệp, tránh lãng phí.
- Ở khâu dự trữ: Doanh nghiệp phải xác định được mức dự trữ tối đa, tối
thiểu để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được bình thường, không bị
ngưng trệ, gián đoạn do không cung cấp kịp thời, không dự trữ quá nhiều gây ứ
đọng vốn.
- Ở khâu sử dụng: Cần phải tổ chức việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất
dùng và sử dụng nguyên vật liệu. Phải xây dựng được hệ thống định mức tiêu hao
nguyên vật liệu cho từng chi tiết, từng công đoạn và phải không ngừng cải tiến

hoàn thiện để đạt tới các định mức tiên tiến.
1.1.4 - Nhiệm vụ và nội dung của kế toán nguyên vật liệu
Kế toán nguyên vật liệu là việc ghi chép, phản ánh tổng hợp số liệu về tình
hình thu mua, vận chuyển, bảo quản, nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu. Để thực
hiện được các chức năng giám đốc và là công cụ quản lý kinh tế, kế toán nguyên
vật liệu cần phải làm tốt các công việc sau:
1.1.4.1 - Nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu
- Tổ chức đánh giá, đánh giá lại, phân loại nguyên vật liệu phù hợp với các
nguyên tắc, yêu cầu quản lý thống nhất của Nhà nước và yêu cầu quản trị. Thực
hiện việc phân tích, đánh giá tình hình cung cấp, dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu
trong doanh nghiệp để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt còn hạn
chế để không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý.
- Áp dụng đúng đắn các phương pháp hạch toán nguyên vật liệu, hướng dẫn
kiểm tra các đơn vị, bộ phận trong doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các chế độ hạch
toán ban đầu về nguyên vật liệu (lập chứng từ, luân chuyển chứng từ), mở sổ (thẻ)
kế toán chi tiết. Thực hiện đúng phương pháp quy định nhằm đảm bảo sự thống
nhất trong công tác kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo công
tác kế toán trong phạm vi ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Tổ chức chứng từ, tài khoản sổ kế toán phù hợp với phương pháp kế toán
hàng tồn kho của doanh nghiệp để ghi chép, phân loại tổng hợp được số liệu về
tình hình hiện có và sự biến động tăng, giảm của vật liệu sử dụng trong quá trình
sản xuất, cung cấp số liệu kịp thời để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm.
- Giám sát, kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo quản dự trữ và sử dụng
nguyên vật liệu. Phát hiện, ngăn ngừa và đề xuất những biện pháp xử lý vật liệu
thừa, thiếu, ứ đọng hoặc mất phẩm chất.
- Tính toán chính xác số lượng và giá trị vật tư thực tế đưa vào sử dụng và
đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phân tích tình hình thu mua, bảo
quản, dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu nhằm hạ thấp giá thành sản phẩm.
1.1.4.2 - Nội dung của kế toán nguyên vật liệu

Để thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu thì đòi hỏi
quá trình kế toán nguyên vật liệu bao gồm những nội dung sau:
- Phân loại và lập danh điểm vật tư.
- Xây dựng các nội dung, quy chế trong bảo quản và sử dụng nguyên vật
liệu.
- Xây dựng định mức tiêu dùng, định mức dự trữ nguyên vật liệu cũng như
các định mức tiêu hao một cách hợp lý trong quá trình sử dụng, vận chuyển và bảo
quản.
- Tổ chức khâu hạch toán ban đầu gồm vận dụng các chứng từ và luân
chuyển chứng từ một cách hợp lý.
- Tổ chức vận dụng các tài khoản kế toán và hệ thống sổ kế toán tổng hợp.
- Tổ chức công tác kiểm tra, kiểm kê đối chiếu vật tư cũng như báo cáo về
tình hình nhập, xuất, tồn vật tư.
- Tổ chức phân tích tình hình vật tư và những thông tin kinh tế quan trọng.
1.2 - Phân loại và tính giá nguyên vật liệu
1.2.1 - Phân loại nguyên vật liệu
Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, để tiến hành sản xuất phải sử
dụng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau, để quản lý tốt cần phải tiến hành phân
loại. Phân loại nguyên vật liệu là sắp xếp các vật liệu cùng loại với nhau theo một
đặc trưng nhất định nào đó thành từng nhóm để thuận lợi cho việc quản lý và hạch
toán. Phân loại vật liệu có thể dựa trên các tiêu thức sau:
1.2.1.1 - Phân loại nguyên vật liệu theo vai trò của nguyên vật liệu trong quá
trình sản xuất
Theo cách phân loại này nguyên vật liệu được chia thành:
- Nguyên vật liệu chính: Là những nguyên vật liệu khi tham gia vào quá
trình sản xuất, nó cấu tạo nên thực thể chính của sản phẩm (ví dụ: sắt, thép trong
các doanh nghiệp chế tạo máy, cơ khí).
- Nguyên vật liệu phụ: Là những vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất
nó kết hợp với nguyên vật liệu chính làm thay đổi màu sắc, hình dáng bên ngoài
của sản phẩm, làm tăng thêm chất lượng sản phẩm, kích thích thị hiếu người tiêu

dùng hoặc làm cho quá trình sản xuất được tiến hành một cách thuận lợi (ví dụ:
dầu nhờn, hồ, keo, thuốc chống gỉ…).
- Nhiên liệu: Là những vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nó tạo ra nhiệt lượng phục
vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh như than, củi, xăng, dầu...
- Phụ tùng thay thế: Là những bộ phận phụ tùng chi tiết máy, doanh nghiệp
mua vào để thay thế cho máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải.
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Là những vật liệu thiết bị máy móc
doanh nghiệp mua vào nhằm mục đích đầu tư xây dựng cơ bản.
- Phế liệu: Là những vật liệu không còn tác dụng đối với quá trình công nghệ
sản suất sản phẩm của doanh nghiệp, thu hồi được do sản phẩm hỏng, do ngừng
sản xuất hoặc thanh lý tài sản cố định hoặc các nguyên nhân khác.
- Các loại vật liệu khác: Là những vật liệu mang tính đặc thù riêng có trong
một số doanh nghiệp. Ngoài các loại vật liệu kể trên như bao bì, vật đóng gói, vật
liệu sử dụng luân chuyển.
Việc phân chia này giúp cho doanh nghiệp tổ chức các tài khoản chi tiết, dễ
dàng hơn trong việc quản lý kế toán vật liệu.
1.2.1.2 - Phân loại nguyên vật liệu theo chức năng của nguyên vật liệu đối với
quá trình sản xuất
Theo cách phân loại này toàn bộ nguyên vật liệu của doanh nghiệp được
chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu sử dụng cho sản xuất: Là các loại nguyên vật liệu tiêu hao
trong quá trình sản xuất sản phẩm. Bao gồm:
 Nguyên vật liệu trực tiếp: Là các loại vật liệu tiêu hao trực tiếp trong quá trình
sản xuất sản phẩm.
 Nguyên vật liệu gián tiếp: Là các loại vật liệu tiêu hao gián tiếp trong quá trình
phục vụ sản xuất sản phẩm.
- Nguyên vật liệu sử dụng cho bán hàng.
- Nguyên vật liệu sử dụng cho quản lý.
1.2.1.3 - Phân loại nguyên vật liệu theo nguồn hình thành
Theo tiêu thức này thì nguyên vật liệu được chia thành:

- Nguyên vật liệu mua ngoài: Là những nguyên vật liệu sử dụng cho sản
xuất kinh doanh được doanh nghiệp mua ngoài thị trường.
- Nguyên vật liệu tự sản xuất: Là những nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự
chế biến và nguyên vật liệu thuê ngoài gia công để sử dụng sản xuất ở giai đoạn
sau.
- Nguyên vật liệu nhận góp vốn liên doanh hoặc được biếu tặng, cấp phát.
- Phế liệu thu hồi: Là những nguyên vật liệu bị thải loại ra khỏi quá trình sản
xuất, có thể tái sử dụng hoặc đem bán.
1.2.1.4 - Phân loại nguyên vật liệu theo quyền sở hữu
- Nguyên vật liệu thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: Gồm các loại
nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự sản xuất, mua ngoài đã thanh toán hoặc chấp
nhận thanh toán.
- Nguyên vật liệu không thuộc sở hữu của doanh nghiệp: Gồm các nguyên
vật liệu nhận gia công chế biến hay nhận giữ hộ.
Tuy nhiên trong các cách phân loại trên thì phân loại theo vai trò của nguyên
vật liệu là ưu việt và được sử dụng rộng rãi hơn cả.
1.2.2 - Tính giá nguyên vật liệu
Tính giá nguyên vật liệu là dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị của
nguyên vật liệu theo những nguyên tắc nhất định, đảm bảo những yêu cầu thống
nhất. Việc tính giá nguyên vật liệu mang một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
tổ chức hạch toán nguyên vật liệu.
1.2.2.1 - Các chỉ tiêu tính giá nguyên vật liệu
- Giá thực tế: Là giá được xác định dựa trên những căn cứ khách quan, được
hình thành trên cơ sở các chứng từ hợp lệ chứng minh các khoản chi hợp pháp của
doanh nghiệp để tạo ra nguyên vật liệu. Giá thực tế của nguyên vật liệu là cơ sở
pháp lý để phản ánh tình hình luân chuyển nguyên vật liệu và nó được dùng để ghi
nguyên vật liệu tồn kho và lập các báo cáo kế toán.
- Giá hạch toán: Là loại giá ổn định, được xác định ngay ở đầu kỳ hạch toán,
thường dựa trên giá thực tế cuối kỳ trước hay giá kế hoạch của kỳ này. Giá hạch
toán là loại giá có tính chủ quan nên chỉ sử dụng để theo dõi việc luân chuyển hàng

ngày. Cuối kỳ hạch toán, kế toán phải điều chỉnh giá hạch toán về giá thực tế.
1.2.2.2 - Xác định giá nguyên vật liệu nhập kho
Nguyên vật liệu nhập kho được tính theo giá thực tế, cá biệt có một số
trường hợp phải sử dụng giá hạch toán để ghi nhận nhập kho. Chẳng hạn khi
nguyên vật liệu nhập kho nhưng chưa có chứng từ hoá đơn, kế toán phải sử dụng
chỉ tiêu giá hạch toán để ghi sổ. Đến khi có chứng từ hoá đơn thì kế toán tiến hành
điều chỉnh giá hạch toán thành giá thực tế.
Giá của nguyên vật liệu nhập kho được xác định tuỳ theo từng nguồn nhập
như sau:
- Đối với nguyên vật liệu mua ngoài: Giá thực tế là giá ghi trên hoá đơn của
người bán cộng (+) với thuế nhập khẩu (nếu có), thuế giá trị gia tăng (nếu áp dụng
phương pháp tính thuế trực tiếp) và các khoản chi phí thu mua thực tế (chi phí vận
chuyển, bốc dỡ, chi phí nhân viên thu mua, chi phí thuê kho bãi…) trừ (-) các
khoản giảm giá hàng mua được hưởng.
- Đối với nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự chế biến, gia công: Giá thực tế
bao gồm giá thực tế vật liệu xuất kho cộng các chi phí gia công chế biến.
- Đối với nguyên vật liệu thuê ngoài gia công chế biến: Giá thực tế là giá trị
vật liệu xuất kho thuê gia công chế biến cộng các chi phí liên quan (tiền thuê gia
công, chi phí vận chuyển, bốc dỡ…).
- Đối với nguyên vật liệu nhận góp vốn liên doanh: Giá thực tế là giá thoả
thuận do các bên xác định cộng các chi phí tiếp nhận (nếu có).
- Đối với phế liệu nhập kho: Giá thực tế là giá ước tính có thể sử dụng được
hay giá trị thu hồi tối thiểu.
- Đối với nguyên vật liệu được tặng thưởng: Giá thực tế tính theo giá thị
trường tương đương cộng chi phí liên quan đến việc tiếp nhận.
1.2.2.3 - Xác định giá nguyên vật liệu xuất kho
Việc tính giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho được căn cứ vào đặc điểm
hoạt động từng doanh nghiệp. Có nhiều phương pháp được sử dụng để đánh giá
nguyên vật liệu xuất dùng. Doanh nghiệp căn cứ vào điều kiện cụ thể để lựa chọn
một trong các phương pháp sau theo nguyên tắc nhất quán trong hạch toán, nếu có

thay đổi phải giải thích rõ ràng:
1.2.2.3.1 - Phương pháp bình quân gia quyền
Theo phương pháp này giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ được
tính theo giá bình quân (bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân cuối kỳ trước hoặc
bình quân sau mỗi lần nhập).
Trong đó:
Phương pháp này tuy đơn giản dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn
nữa công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán
nói chung.
Phương pháp này cũng có ưu điểm là đơn giản, dễ làm và phản ánh kịp thời
tình hình biến động nguyên vật liệu trong kỳ. Tuy nhiên phương pháp này không
chính xác vì không tính tới sự biến động của giá cả trong kỳ này.
Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên,
vừa chính xác vừa cập nhật. Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều công
sức, phải tính toán nhiều lần.
1.2.2.3.2 - Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này, giả định là hàng tồn kho được mua trước hoặc sản
xuất trước thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho
được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị
hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc
gần cuối kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời
điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
×
×
=
Giá thực tế vật liệu Số lượng vật liệu Giá đơn vị
xuất dùng xuất dùng bình quân
Giá đơn vị Giá TT vật liệu tồn đ.kỳ + Giá TT vật liệu nhập trong kỳ
bình quân cả =
kỳ dự trữ Số lượng TT vật liệu tồn đ.kỳ + Số lượng TT vật liệu nhập

trong kỳ
Giá đơn vị Giá thực tế vật liệu tồn kho đầu kỳ (cuối kỳ trước)
bình quân =
cuối kỳ trước Số lượng thực tế vật liệu tồn kho đầu kỳ (cuối kỳ
trước)
Giá đơn vị Giá thực tế vật liệu tồn kho sau mỗi lần nhập
bình quân sau =
mỗi lần nhập Số lượng thực tế vật liệu tồn kho sau mỗi lần nhập
Phương pháp này thích hợp trong điều kiện giá cả có xu hướng ổn định hoặc
có xu hướng giảm.
1.2.2.3.3 - Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)
Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua kỳ
sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng
tồn kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng
xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của
hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ cần
nhập kho.
Phương pháp LIFO thích hợp trong trường hợp lạm phát, giá cả có xu hướng
tăng.
1.2.2.3.4 - Phương pháp giá đích danh
Theo phương pháp này, nguyên vật liệu được xác định theo đơn chiếc hay
từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập đến lúc xuất (trừ trường hợp điều chỉnh). Khi
xuất vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế của nguyên vật liệu đó. Do vậy, phương
pháp này có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp trực tiếp và
thường sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và có tính tách biệt.
Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng
hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được.
1.3 - Kế toán chi tiết nguyên vật liệu
1.3.1 - Tổ chức chứng từ
Chứng từ là phương tiện chứng minh tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế,

vừa là phương tiện thông tin về kết quả nghiệp vụ kinh tế đó.
1.3.1.1 - Các chứng từ sử dụng
Theo chế độ chứng từ kế toán quy định ban hành theo QĐ 1141/ CT/ CĐKT
ngày 1/ 11/1995 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính, các chứng từ về kế toán vật liệu bao
gồm:
- Hoá đơn bán hàng của đơn vị bán.
- Hợp đồng mua hàng.
- Phiếu nhập kho (mẫu 01 - VT: Bắt buộc).
- Phiếu xuất vật tư (mẫu 02 - VT: Bắt buộc).
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (mẫu 03 - VT: Bắt buộc).
- Phiếu xuất vật tư theo hạn mức (mẫu 04 - VT: Hướng dẫn).
- Biên bản kiểm nghiệm vật tư (mẫu 05 - VT: Hướng dẫn).
- Thẻ kho (mẫu 06 - VT: Bắt buộc).
- Phiếu báo vật tư còn lại cuối tháng (mẫu 07 - VT).
- Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm hàng hoá (mẫu 08 - VT).
1.3.1.2 - Tổ chức chứng từ quá trình nhập kho nguyên vật liệu
Căn cứ vào nhu cầu về vật tư mà bộ phận mua hàng sẽ liên hệ với nhà cung
cấp, lựa chọn người bán hàng và lập hợp đồng mua hàng. Khi nguyên vật liệu về
đến doanh nghiệp nếu cần kiểm nghiệm thì phải thành lập ban kiểm nghiệm. Ban
này có nhiệm vụ kiểm nghiệm về mặt số lượng, chất lượng, quy cách của nguyên
vật liệu và lập “Biên bản kiểm kê vật tư”.
Bộ phận cung ứng dựa trên cơ sở hợp đồng mua hàng, hoá đơn, biên bản
kiểm nghiệm vật tư để lập “Phiếu nhập vật tư”. Phiếu nhập vật tư lập thành 2 liên
(đối với vật tư mua ngoài), 3 liên (đối với vật tư tự sản xuất).
Thủ kho sau khi nhận vật tư ghi số lượng vào cột thực nhập, ký nhận.
Liên 1: Do bộ phận lập phiếu giữ. Liên 2: Thủ kho ghi thẻ kho sau đó chuyển cho
kế toán. Liên 3 (nếu có): Người nhập giữ. Còn hợp đồng mua hàng, hoá đơn của
người bán được giao cho bộ phận tài vụ, làm thủ tục thanh toán và ghi sổ kế toán.
1.3.1.3 - Tổ chức chứng từ quá trình xuất kho nguyên vật liệu
Trong mọi trường hợp xuất kho nguyên vật liệu bất cứ sử dụng cho mục

đích gì đều phải thực hiện đầy đủ các thủ tục, chứng từ quy định và phải thực hiện
nghiêm ngặt việc cân, đo, đong, đếm tuỳ theo từng loại nguyên vật liệu. Trên các
chứng từ xuất vật liệu phải ghi rõ mục đích sử dụng nguyên vật liệu (xuất cho ai,
để làm gì…).
Phiếu xuất kho do bộ phận cung ứng lập để theo dõi chặt chẽ số lượng vật tư
xuất kho cho các bộ phận, phân xưởng để có kế hoạch cung ứng vật tư kịp thời
cho sản xuất và làm căn cứ để kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm. Phiếu xuất kho lập thành 3 liên (Liên 1: Do bộ phận lập phiếu giữ; Liên
2: Thủ kho ghi thẻ kho sau đó chuyển cho kế toán; Liên 3: người nhận vật tư giữ).
Phiếu xuất vật tư sử dụng trong trường hợp xuất kho nguyên vật liệu không thường
xuyên với số lượng ít.
Trường hợp sử dụng nguyên vật liệu nhiều, phát sinh thường xuyên trong
tháng doanh nghiệp sử dụng “Phiếu xuất vật tư theo hạn mức”. Phiếu này áp dụng
cho tháng nào chỉ có giá trị sử dụng trong tháng đó. Cuối tháng không dùng hết vật
tư đã lĩnh, đơn vị sử dụng phải lập phiếu nhập vật tư đem đến kho cùng với số vật
tư thừa và phiếu xuất vật tư theo hạn mức, thủ kho ghi số lượng thừa trả lại vào cả
hai phiếu.
1.3.2 - Phương pháp hạch toán chi tiết nguyên vật liệu
Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu đòi hỏi phản ánh cả về giá trị, số lượng
của từng loại nguyên vật liệu theo từng kho và từng người phụ trách. Tuỳ theo quy
mô, yêu cầu quản lý và điều kiện cụ thể, doanh nghiệp có thể chọn một trong ba
phương pháp hạch toán chi tiết nguyên vật liệu sau:
1.3.2.1 - Phương pháp thẻ song song
Phương pháp này yêu cầu phải mở thẻ chi tiết đồng thời tại kho và phòng kế
toán.
 Tại kho: Thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất vật liệu về mặt
số lượng, thẻ kho được mở chi tiết cho từng danh điểm vật tư. Hàng ngày, căn cứ
các chứng từ nhập xuất, thủ kho ghi số lượng thực nhập xuất và cuối mỗi ngày tính
ra số lượng tồn trên thẻ kho. Mỗi chứng từ ghi một dòng vào thẻ kho. Thủ kho phải
thường xuyên đối chiếu với sổ chi tiết vật liệu để đảm bảo luôn khớp nhau. Cuối

tháng, thủ kho phải tính tổng cộng số nhập, xuất, tính ra số tồn kho cuối kỳ theo
từng danh điểm vật tư.
 Tại phòng kế toán: Kế toán vật tư mở sổ kế toán chi tiết cho từng danh điểm vật
tư tương ứng với thẻ kho. Sổ này có nội dung tương tự như thẻ kho, chỉ khác là
theo dõi cả về mặt giá trị. Hàng ngày hoặc định kỳ, khi nhận được các chứng từ
nhập xuất do thủ kho chuyển tới, kế toán vật tư phải kiểm tra đối chiếu, ghi đơn giá
và tính ra số tiền. Căn cứ vào các chứng từ kế toán lần lượt ghi các nghiệp vụ nhập
xuất vào các sổ chi tiết. Cuối tháng kế toán tính ra tổng số nhập, tổng số xuất, số
tồn kho cho từng danh điểm vật liệu để đối chiếu với sổ tổng hợp và đối chiếu với
thẻ kho.
Sơ đồ hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp thẻ song song


Bảng tổng hợp
nhập xuất tồn
kho nguyên vật
Thẻ hoặc
sổ kế toán
chi tiết
nguyên vật
liệu
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Kế toán tổng hợp
Phiếu xuất kho
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu

Để thực hiện đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, kế toán phải

căn cứ vào các sổ kế toán chi tiết để lập “Bảng tổng hợp Nhập – Xuất – Tồn kho”
về mặt giá trị và từng loại nguyên vật liệu.
* Điều kiện áp dụng của phương pháp: Phương pháp này ghi chép đơn giản,
dễ kiểm tra, đối chiếu. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất lớn, áp dụng phương
pháp này mất nhiều công sức do ghi chép trùng lặp. Vì vậy, phương pháp này
thường được áp dụng ở những đơn vị vừa và nhỏ, ít chủng loại vật tư, khối lượng
các nghiệp vụ nhập xuất ít, không thường xuyên.
1.3.2.2 - Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
Tại kho: Để hạch toán chi tiết nguyên vật liệu, thủ kho vẫn mở thẻ kho để
theo dõi về mặt số lượng của từng danh điểm vật liệu như trường hợp hạch toán chi
tiết theo phương pháp thẻ song song.
Tại phòng kế toán: Kế toán không mở sổ chi tiết mà mở sổ đối chiếu luân
chuyển để hạch toán số lượng và số tiền của từng danh điểm vật tư theo từng kho.
Sổ này ghi mỗi tháng một lần vào cuối tháng trên cơ sở tổng hợp chứng từ nhập –
xuất phát sinh trong tháng của từng loại vật liệu, mỗi loại chỉ ghi một dòng trong
sổ. Cuối tháng, đối chiếu số lượng vật liệu trên sổ đối chiếu luân chuyển với thẻ
kho, đối chiếu số tiền với kế toán tổng hợp.
Sơ đồ hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân
chuyển

Ghi hàng ngày
Bảng kê nhậpChứng từ nhập
Sổ đối chiếu
luân chuyển
Kế toán tổng
hợp
Thẻ kho
Chứng từ xuất Bảng kê xuất

×