Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN THUẾ GTGT VÀ THUẾ TNDN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.17 KB, 17 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
THUẾ GTGT VÀ THUẾ TNDN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
3.1. HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN THUẾ GTGT:
3.1.1. Phương pháp tính thuế GTGT:
Theo Luật thuế GTGT được ban hành ngày 01/01/1999, hệ thống thuế nước
ta được áp dụng tính theo hai phương pháp: Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng
với các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp, Luật
đầu tư nước ngoài và những hộ kinh doanh lớn, chấp hành tốt chế độ kế toán hoá
đơn, chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng chủ yếu đối với
những hộ kinh doanh chưa thực hiện tốt chế độ kế toán hoá đơn chứng từ. Tương
ứng với hai phương pháp tính thuế là hai loại hóa đơn GTGT và hoá đơn bán hàng
thông thường. Qua hơn năm năm thực hiện thuế GTGT cho thấy, sử dụng hai
phương pháp trên còn nhiều bất cập.
Với phương pháp khấu trừ việc xác định thuế được áp dụng theo công thức:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào được tính trên cơ sở doanh thu
chưa có thuế GTGT và chi phí mua hàng từ bên ngoài chưa có thuế GTGT. Việc
áp dụng phương pháp tính này đã khắc phục được hạn chế lớn nhất của thuế doanh
thu: đó là sự trùng lắp thuế.
Còn theo phương phương pháp trực tiếp việc xác định thuế được áp dụng
theo công thức:
Thuế GTGT phải nộp = GTGT x Thuế suất
Trong đó GTGT là chênh lệch giữa doanh thu phản ánh trên hoá đơn, chứng
từ hợp lệ với giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ mua vào phản ánh trên hoá đơn,
chứng từ hợp lệ. Thông thường, thuế GTGT theo phương pháp thực tiếp trên đã
được điều chỉnh đôi chút, cụ thể:
Thuế GTGT phải nộp = Doanh thu x Tỷ lệ GTGT x Thuế suất
Ngoài ra những hộ kinh doanh nhỏ, bán lẻ, không được thực hiện chế độ kế
toán, không lập hóa đơn chứng từ thì thuế GTGT được ấn định theo doanh thu
khoán thực chất đây là cách thức khoán thuế GTGT.
Như vậy, đối với một hàng hóa, dịch vụ, việc áp dụng hai phương pháp tính


thuế GTGT sẽ cho kết quả rất khác nhau và khó khăn trong công tác kiểm soát
cùng với những gian lận thuế phát sinh. Để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp
trực tiếp phải huy động gần một nửa số cán bộ thuế với chi phí tương ứng nhưng
thu cho ngân sách chỉ chiếm gần 10% trong tổng số thuế GTGT.
Mặt khác, “ phương pháp trực tiếp” không phải là phương pháp dùng để
tính và thu thuế. Đó chỉ là một cách tiếp cận khoa học trong nghiên cứu nhằm chỉ
rõ thuế GTGT là một loại thuế chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm mỗi khi có
GTGT xuất hiện. Việc phân định” giá trị tăng thêm”, “giá trị đầu vào”, “giá trị đầu
ra”, xét dưới góc độ tính thuế, hạch toán thuế và thu thuế là không có ý nghĩa thưc
tế. Lý do chủ yếu là do mức độ phức tạp, dễ gây ra “hiểu lầm” khi đưa ra những
khái niệm này vào trong luật thuế. Từ đó sẽ có nguy cơ dẫn đến
” vận dụng” sai luật trong thực tế, có hại cho thu ngân sách, gây bất bình đẳng giữa
các doanh nghiệp trong cạnh tranh.
Một mặt nữa ta phải đề cập đó là trong thực tế, việc kê khai nộp thuế hoặc
thanh toán thuế với Nhà nước sữ thực hiện trên căn cứ các tài khoản kế toán phản
ánh thuế GTGT phát sinh hàng tháng. Các đơn vị sẽ lấy số dư Có của tài khoản
thuế GTGT phát sinh đầu ra trừ đi số dư Nợ tài khoản thuế GTGT phát sinh khi
mua hàng( TK 133 - phản ánh toàn bộ số thuế GTGT trả theo hoá đơn mua hàng
trong tháng). Số chênh lệch dương sẽ là số thuế phải nộp kho bạc Nhà nước trong
tháng đó. Số chênh lệch âm sẽ là số được kết chuyển trừ vào số thuế GTGT phải
nộp của tháng sau hoặc sẽ được ngân sách Nhà nước hoàn trả theo đề nghị. Vởy
thực chất, trong thực tế, số thuế GTGT phải nộp kho bạc Nhà nước được xác định
trê cơ sở hoá đơn và số liệu hạch toán kế toán tính chung theo từng kỳ(tháng, năm)
sản xuất kinh doanh chứ không cần quy định tính thuế GTGT theo phương pháp
trực tiếp.
Vì tất cả những nhược điểm được nêu ở trên, trong bài viết này xin kiến
nghị chỉ áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Với
các hộ kinh doanh nếu không đủ điều kiện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế thì
áp dụng phương pháp kê khai trực tiếp hoặc khoán thuế. Nếu họ kinh doanh quá
nhỏ thì miễn thuế. Trong đó chú ý cần quy định rõ tiêu thức phân loại trên cơ sở

điều tra khảo sả để áp dụng mức khoán thuế sát với thực tế hoạt động kinh doanh.
Mức khoán thuế nên được rà soát lại sau một thời gian nhất định.
3.1.2. Đối tượng chịu thuế GTGT:
Tại điều 02 cuả Luật thuế GTGT quy định tất cả các hàng hoá, dịch vụ dùng
cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT trừ
28 hàng hoá và nhóm hàng hoá, dịch vụ được quy định tại điều 04 của Luật thuế
GTGT. Việc xác định đối tượng chịu thuế và không chịu thuế GTGT sẽ gây ra hiện
tượng phân đoạn các hoạt động kinh tế. Do vậy, nếu không tính kỹ sẽ gây tác động
tiêu cực, kìm hãm sản xuất kinh doanh, đồng thời lại không phản ánhđúng bản chất
thuế GTGT.
Dưới góc độ của thuế GTGT, nền kinh tế được chia thành các khu vực sau:
+ Khu vực không thuộc diện điều tiết của chịu thuế GTGT.
+ Khu vực thuộc diện điều tiết của thuế GTGT. Khu vực này lại chia ra
thành:
- Khu vực áp dụng phương pháp khấu trừ, được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
- Khu vực áp dụng phương pháp trực tiếp, không được khấu trừ thuế GTGT
đã nộp đầu vào.
- Khu vực không đáp ứng đủ yêu cầu về hạch toán, hoá đơn… nên cũng
không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
- Khu vực chịu thuế GTGT ở các mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10%.
Tuy đây chỉ là sự phân chia mang tính chất thuế GTGT, nhưng saukhi bị
phân đoạn như vậy thì các hoạt động kinh tế mất khả năng” chuyển đổi tương
xứng” - xét về khả năng được khấu trừ thuế GTGT đã nộp hộ Nhà nước khi mua
nguyên vật liệu đầu vào. Với việc phân chia thành các đối tượng thuộc các khu vực
khác nhau, tạo nên kết quả số thuế phải nộp là khác nhau. Khi xét các trường hợp
thuộc phạm vi điều tiết của các mức thuế suất khác nhau, hoặc giữa các đơn vị nộp
thuế theo phương pháp khấu trừ với các đơn vị nộp thuế theo phương pháp trực
tiếp hay các đơn vị không đủ điều kiện, không được khấu trừ thuế GTGT. Trong
khi đó bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng mong muốn số thuế GTGT phải nộp là ít
nhất, do đó trước sau cũng sẽ dẫn đến hậu quả chuyển dịch các đối tượng cung cầu

một cách không mong muốn, gây ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận của nền
kinh tế.
Để giải quyết vấn đề này, Luật thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung(có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004) đã giảm còn 03 mức thuế suất nhưng vẫn
còn đối tượng ngoại lệ, nên quy định một phương pháp khấu trừ thuế GTGT theo
kỳ hạch toán. Quy định phải thật rõ ràng, tránh mọi khả năng phân đoạn nền kinh
tế một cách bất lợi như trên.
3.1.3. Hạch toán kế toán thuế GTGT
Kế toán thuế GTGT được quy định hướng dẫn trong thông tư số 10/1998/TT
- BTC ngày 15/07 1998 của Bộ tài chính. Thông tư có quy định:
Đối với vật tư, hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuấ kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì cơ sở sản xuất
kinh doanh phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT
không được khấu trừ. Trường hợp không thể hạch toán riêng được thì số thuế
GTGT đầu vào được hạch toán vào TK 133. Cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế
GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ % giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng số
doanh thu bán ra, số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào giá
vốn hàng bán trong kỳ ghi:
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán
Có TK 133: Thuế GTGT phải nộp
Trường hợp số thuế GTGT không được khấu trừ có giá trị lớn thì được tính
vào giá vốn hàng được bán ra tương ứng với doanh thu trong kỳ, số còn lại được
tính vào giá vốn hàng bán ra của kỳ kế toán sau.
Tuy nhiên với quy định này khi được áp dụng thực hiện đã thể hiện sự
không khoa học. Bởi vì nếu kỳ kế toán sau doanh thu đạt thấp, đơn vị vẫn phải kết
chuyển toàn bộ số thuế GTGT không được khấu trừ vào giá vốn hàng bán sẽ gây
nên tình trạnh lỗ giả. Thuế GTGT không được khấu trừ là một bộ phận giá trị của
giá vốn hàng mua vào. Để xác định chính xác kết quả kinh doanh, nên phân bổ dần
thuế GTGT không được khấu trừ theo tỷ lệ tương ứng với doanh thu thực hiện qua
các kỳ kế toán theo trình tự hạch toán:

Kỳ này:
Nợ TK 142: Chi phí trả trước
Có TK 133: Thuế GTGT được khấu trừ
Các kỳ sau:
Nợ TK 632
Có TK142
Thông tư còn quy định đối với các đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp
trực tiếp. Thuế GTGT được hách toán vào TK 642 cộng thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
xuất khẩu được hạch toán giảm doanh thu TK511. Thiết nghĩ các trường hợp trên
chỉ nên thống nhất theo một phương pháp hạch toán giảm trừ doanh thu.
NợTK 511
Có TK 333
Bởi chi phí quản lý doanh nghiệp là một chỉ tiêu có liên quan đến việc phản
ánh chất lượng công tác quản lý doang nghiệp. Nếu chi phí quản lý doanh nghiệp
giảm thì có nghĩa công tác quản lý có hiệu quả và ngược lại. Vậy nếu ta hạch toán
thuế phải nộp theo phương pháp trực tiếp vào TK 642, làm tăng chi phí quản lý
như vậy vô hình chung doanh nghiệp được hiểu là công tác quản lý chưa hiệu quả.
Hơn nữa nếu giảm thiểu các bút toán đơn lẻ sẽ tránh phức tạp cho quá trình thực
hiện kế toán thuế GTGT.
Đối với việc hạch toán thuế của hoạt động đại lý hàng hoá có điểm nên thay
đổi. Hiện nay hoạt động đại lý hàng hoá của chủ hàng Việt Nam được chia làm hai
nhóm theo hai cơ chế khác nhau: cơ chế bán đúng giá và không đúng giá. Đối với
cơ chế bán đúng giá, chủ hàng phải kê khai nộp thuế GTGT trên toàn bộ doanh thu
thực hiện tại cơ sở đai lý, cơ sở đại lý không phải nộp thuế GTGT trên hoa hồng
được hưởng, hoa hồng chủ hàng hạch toán vào chi phí kinh doanh. Điều này chưa
hẳn đã hợp lý, bởi xét một cách toàn diện thì toàn bộ chi phí kinh doanh hàng đại
lý một phần được thực hiện ở chủ hàng, một phần được thực hiện ở cơ sở đai lý.
Thuế GTGT khâu đầu vào phục vụ cho hoạt động đại lý không được khấu trừ vì
không có thuế GTGT đầu ra ở cơ sở đại lý và cũng nảy sinh tính trùng lắp của thuế
GTGT như thuế doanh thu trước đây. Do vậy đối với hoạt động đại lý thì thuế

GTGT cũng cần xác định theo hai đối tượng nộp thuế độc lập với nhau. Chủ hàng
sẽ pahỉ nộp thuế GTGT trên đầu ra phần chủ hàng thu về theo phương pháp quy
định. Đối với cơ sở đại lý sẽ kê khai nộp thuế GTGT trên hoa hồng được hưởng.
Như vậy việc trùng lắp sẽ hoàn toàn được loại bỏ.
Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số định khoản nêu trên, ta xem xét với TK
133. Số liệu trên TK 133 để phục vụ cung cấp số liệu trên mục i, II của phần III “
Thuế GTGT được hoàn lại” được lập dựa trên cơ sở số liệu của sổ chi tiết “ Thuế
GTGT được hoàn lại” (mẫu số S02 - DN), theo như cách ghi chép hiện nay thì sổ
S02 - DN chưa đúng nghĩa là sổ kế toán. Theo em cần tổ chức lại TK 133 gồm các
tài khoản cấp 2 và tài khoản cấp 3 như sau:
+ TK 1331: Thuế GTGT được khấu trừ
TK 13311: Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ
TK 13312: Thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định
+ TK 1332: Thuế GTGT được hoàn lại
Và trình tự ghi chép đối với thuế GTGT được hoàn lại:
- Khi nhận được thông báo của cơ quan thuế về số thuế GTGT cho hoàn thuế
phát sinh trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 1332
Có TK 1331

×